Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tư tưởng triết học phật giáo trong triết học ấn độ cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.67 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày nay nhân loại vẫn biết đến Phật giáo có khởi nguyên từ Ấn Độ. Phật
giáo là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất thế giới, tồn tại
lâu đời. Hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng
khắp. Ở Việt Nam, theo báo cáo sơ kết công tác phật sự 6 tháng đầu năm 2017
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày 03/7/2017, tính đến thời điểm báo báo,
tình hình tăng ni, tự viện có số lượng tương đối như sau: Tổng số tăng ni:
53.941, gồm: 38.629 Bắc tông; 8.574 Nam tông Khmer, 1.754 Nam tông kinh
(1.100 chư Tăng, 654 Tu nữ); 4.984 Khất sĩ. Tự Viện (cơ sở thờ tự, sinh hoạt tín
ngưỡng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam): 18.466 ngôi, gồm 15.846 Tự viện
Bắc Tông; 454 chùa Nam Tông Khmer; 106 chùa Nam tông Kinh; 541 Tịnh xá,
467 Tịnh Thất, 998 NPĐ; 54 Tự viện Phật giáo Người Hoa.
Số liệu trên cho thấy, Phật giáo không chỉ vượt qua không gian, thời gian
tồn tại đến ngày nay mà còn phát triển mạnh mẽ với số lượng phật tử, tự viện
ngày một lớn. Không phải ngẫu nhiên mà đạo Phật lại tồn tại và phát triển mạnh
mẽ như vậy. Mà vì bản thân Phật giáo chứa đựng nhiều giá trị nhân sinh quan,
thế giới quan, giải thích về các hiện tượng trong cuộc sống một cách hợp lý mà
có những điều khoa học hiện đại vẫn chưa thể khẳng định hay chứng minh được
bằng các phương pháp nghiên cứu, thực nghiệm.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo không chỉ đơn thuần là phát
huy các giá trị tích cực của nó mà ngày nay, vẫn có các hiện tượng lợi dụng tôn giáo
này để thỏa mãn lòng tham, để trục lợi và có khi là can thiệp vào chính trị.
Vì vậy, muốn hiểu hơn về phật giáo, cần quay lại để tìm hiểu Phật giáo
nguyên thủy trong triết học Ấn Độ cổ đại. Trong khuôn khổ bài tiểu luận cuối
môn, người viết xin giới thiệu ngắn gọn về những nội dung chính giá trị triết học
Phật giáo của Ấn Độ cổ đại.
1


NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO


1.1. Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự
nhiên đa dạng, vừa kỳ vĩ và đầy bí ẩn. Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya
hùng vĩ ở phía Bắc, vừa có biển Ấn Độ Dương rộng mênh mông; vừa có sông
Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng chảy về phía Đông. Vì thế Ấn Độ có
những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng
lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng xa mạc khô cằn, nóng bức.
Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm
những tư tưởng tôn giáo triết học.

Bản đồ địa hình Ấn Độ (ảnh từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.org)

1.2. Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm
hữu nô lệ Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian
và Sumerian đã có nền văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người
2


Aryan thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống
bằng nghề nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ,
trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô
hình “công xã nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở
hữu nhà nước, gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã,
và quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội
được phân chia thành các đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4
đẳng cấp lớn là: Tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân
chia đẳng cấp đó làm cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến
cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy,
nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
1.3. Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được
chia làm ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông

Ấn, từ thế kỷ XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN
là thời kỳ hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối
lập nhau là chính thống và không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống và
không chính thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay
không. Về khoa học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những
thành tựu về khoa học tự nhiên. Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y
học…
Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là
cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ,
trung đại với các hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn
sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn
nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên,
đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc

3


biệt là quan điểm của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng triết học không
chính thống.
1.4. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN.
Người sáng lập là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tât Đạt Đa (Siddhattha), họ là Cù
Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa là thái tử của vua Tịnh Phạn,
một nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan). Ông sinh ngày 8
tháng 4 năm 563 TCN, theo truyền thống Phật lịch thì là ngày 15/04 (rằm tháng
tư) còn gọi là ngày Phật Đản.
Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi đế vương lại có vợ
đẹp con ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với
sự bất lực của con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ông quyết
định từ bỏ con đường vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6 năn tu hành, năm 35 tuổi,

Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân
duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ cho chúng sinh. Từ đó ông đi khắp
nơi để truyền bá tư tưởng của mình và đã trở thành người sáng lập ra tôn gáo
mới là đạo Phật. Về sau ông được suy tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: Đức
Phật, Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khăp Ấn Độ.
Ông qua đời ở tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo
vô cùng quý báu. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau
bằng chính cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo nhanh chóng chiếm được
tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu
tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu Á.
Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là “tam tạng kinh” bao
gồm Tạng kinh, Tạng luật và Tạng luận.
4


II. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.
2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của
3 phạm trù: Vô ngã, vô thường và duyên.
Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết
học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao,
sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con
người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết
hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có

thể cảm nhận được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh
thần, không có hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: Thụ (cảm thụ), tưởng
(suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm:
(1) Sắc uẩn (vật chất) được tạo nên từ 4 thể chất (tứ đại): Đất, nước, lửa,
không khí.
(2) Thụ uẩn (cảm giác): Các đồ vật thuộc tứ đại như là cơm ăn, nước
uống… được đưa vào cơ thể con người thì chúng trở thành tự thể (cơ thể) của
chúng ta. Có người đến vuốt ve, nịnh nọt thì tự thể có cảm giác vui. Có người
đến đánh đập, chửi rủa thì tự thể có cảm giác buồn. Thụ là toàn bộ các cảm giác.

5


(3) Tưởng uẩn (ấn tượng): Sự sắp đặt và phân biệt giúp nhận ra các sự vật
khác nhau nhờ tri giác khác nhau như âm thanh, màu sắc, mùi vị…
(4) Hành uẩn (suy lý): Sự quyết định làm, quyết định hành động. Đây là
bước tiến tiếp theo sau tưởng uẩn. Tưởng uẩn mới chỉ là suy nghĩ mờ nhạt. Hành
đã là ý chí, sự cả quyết mặc dù nó vẫn chưa sâu sắc.
(5) Thức (ý thức): Bao gồm 6 dạng ý thức liên hệ với sáu giác quan: Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức thuộc vào sáu căn (sáu giác quan nói trên) tiếp xúc
với trần để tạo nên sau thức. Sáu trần gồm có: Sắc trần: Màu sắc, hình tướng
(hình dáng), biểu sắc (động tác biểu hiện ra bên ngoài); Thanh trần: Tiếng động,
âm thanh; Hương trần: Mùi; Vị trần: Cảm giác phát sinh do vị; Xúc trần: Cứng,
mềm, ướt, khô, nóng, lạnh; Pháp trần: Những gì mà ý thức hình dung.
Quan điểm vô ngã cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ la sự “giả hợp” do hội
tụ đủ nhân duyên nên thành ra có (tồn tại). Vô ngã là không có cái gì mình, là
ta… Sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt
nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)

Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng,
không nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn
tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là
biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành
đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự
vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng
6


không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới
gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết
khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.
Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Bàlamôn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên
là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên
mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới.
Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy
luật “Nhân-Quả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh.
Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không
có nhân thì không thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế
nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không
khí, nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học
Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng

tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu
thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm
trong quá trình liên hệ, vận động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự
vận động , biến đồi nằm trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế
giới tuy còn mọc mạc chất phát nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan
điểm duy vật biện chứng về thế giới.
2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan

7


Nhân sinh quan là phần quan trọng của triết học Phật giáo. Phật giáo bác bỏ
Brahman và Atman, nhưng lại thừa nhận có Kalpa (kiếp), Karma (nghiệp) trong
Upanisad.
Luân hồi (Samsara) = bánh xe quay tròn. Khi mọi người chết đi lại đầu thai
vào một thể xác khác, có thể là người, cũng có thể là loài vật khác như chó,
ngựa, cây cỏ… Chỉ những người tu hành đắc đạo được vào cõi phật mới thoát
khỏi sự luân hồi đó. Niềm tin này có cả ở Phương Đông lẫn phương Tây (cổ Ai
Cập, phái Pytago).
Nghiệp (Karma) là cái do hành động của ta gây ra. Mỗi người hiện tại phải
ghánh chịu hậu quả của hành vi kiếp trước. Sự ghánh chịu này gọi là nghiệp báo.
Nếu tu nhân tích đức tốt ở kiếp này thì có nghiệp báo ứng tốt ở kiếp sau. Ngược
lại, đời này sống ác, làm nhiều điều xấu thì đời sau phải gánh nhiều báo ứng.
Không tin có một linh hồn vĩnh viễn. Nghiệp báo là luật nhân duyên tác
động. Nhân tố sinh lý và tinh thần liên tục kết hợp với nhau và lý tán, điều này
dẫn đến chuyện có bản ngã từ đời này sang đời khác. Khi nào tu giác ngộ mới
thoát khỏi vòng luân hồi đó. Mục đích cuối cùng của Phật giáo là tìm đường giải
thoát (Moksa) chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi, quả báo nhằm đạt đến trạng thái
tồn tại Niết bàn. Qua đó cũng có thể nói rằng thực chất của đạo Phật là học
thuyết về sự khổ và sự giải thoát được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ Diệu

Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi mọi
người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi
khổ là: Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải
8


xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn
mà không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết
học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. khổ đế là một chân lý
khách quan hiện thực. khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên
được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào
soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn
nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay
quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó,
con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào
khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới.
Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều
hơn nước biển”.
Nhân đế (hay Tập đế):
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết
tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả
mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc
của luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do

“thập nhị nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi
con người. 12 nhân duyên gồm:
1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không
sáng suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con
đường thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không
thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
9


2. Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: Sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các
giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: Nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để
thiêu hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: Là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó
là sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc
với lục căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái: Là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác
động của thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: Do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm
lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: Sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: Khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi
già, ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên

cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có
lời giải thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn
đế là ái và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên
nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
10


Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô
thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong
chúng. Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng
mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà
có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não
khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
Diệt đế:
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt
thì sự khổ cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên,
bắt đầu từ diệt trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành
động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt
trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch
diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp
thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh
thản, đầu óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng
lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi
phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung nấu bởi các ngọn lửa
phiền muộn, lo lắng sợ hãi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả

năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và

11


bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào
thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
Ðạo đế:
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để
hoàn thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân
duyên, và một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng
sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn.
Có 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính
đạo”. Bát chính đạo bao gồm:
1. Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về
Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.
2. Chính tư duy: Suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý
nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.
3. Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
4. Chính nghiệp: Giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm
việc xấu, nên làm việc thiện.
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên
quan đến sát sinh.
6. Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7. Chính niệm: Tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn
tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
8. Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế,
vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .


12


Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh,
đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt,
chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con
người và xã hội. Chúng bao gồm: Bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm
dục), bất vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà)
và bất đạo (không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và
tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện
và làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Phật giáo có tính
quần chúng cao. Tôn giáo này đưa ra tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, ai cũng có
thể giải thoát được kể cả các chúng sinh. Như vạy, Phật giáo mang tính nhân bản
sâu sắc, vướt qua giới hạn đẳng cấp nghiệt ngã của chính trị Ấn Độ cổ đại. Phật
giáo thể hiện sự khát vọng tự do cho tất cả mọi người.
Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh và con đường giải phóng của phật giáo
vẫn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư
tưởng xã hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của
xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nổi bi kịch cho con
người lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng
triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm
về xã hội. Sự bình đẳng trong Phật giáo là trong mưu cầu cứu cánh giác ngộ,
không phải bình đẳng về chính trị.
III. MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA CỦA VIỆT NAM
Với vị trí địa lý khá đăc biệt, là cầu nối trên đất liền giữa phần lớn nhất của
lục địa Á, Âu với khu vực Đông Nam Á, nằm trên tuyến hành lang đường biển

13


thuận tiện, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có vị trí địa chính trị
quan trọng bậc nhất trong khu vực và trên thế giới. Là nơi dừng chân của các
thương buôn của vùng Địa Trung Hải vì vậy các tôn giáo lớn, trong đó có Phật
giáo gặp nhiều thuận lợi khi du nhập vào nước ta. Phật giáo được cho là du nhập
vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III.
Thêm vào đó, triết lý của đạo Phật gần gũi, phù hợp với văn hóa của người
Việt nên trong quá trình du nhập và phát triển, Đạo Phật không gặp nhiều trở
ngại trong việc hòa nhập vào đời sống xã hội Việt Nam. Đạo lý của Phật giáo
cũng đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt. Trong suốt chiều
dài lịch sử mười tám thế kỷ qua, Đạo Phật đã chứng minh sự hiện hữu của mình
trong hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… và có những đóng
góp, những ảnh hưởng tích cực vào các mặt nói trên.
Một số giá trị tích cực của Phật Giáo ở Việt Nam có thể kể như:
3.1 Giá trị tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu
Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật
giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Giáo lý này đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết đối với người Việt
Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối
thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng
những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể
nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp
báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ
nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi
sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem
lại hòa bình an vui cho con người. Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không
14



phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải
ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ
nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than
trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia.
3.2. Về Đạo đức:
Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật
giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức,
hướng con người đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh,
đạo đức Phật giáo phù hợp với đạo đức lẽ sống của con người Việt Nam và nó đã
có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho
xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Triết lý nhân sinh của đạo Phật đã thấm nhuần trong đạo đức của người Việt
với tâm lòng vị tha, bác ái, nhân từ. Từ thuở cha ông ta đã biết vị tha “đánh
người chạy đi không ai đánh người chạy lại”, nhân ái với cả kẻ thù. Khi kẻ thù
thua cuộc ông cha ta đã cấp lương thực, phương tiện để kẻ thù về quê hương…
đến ngày nay, quan điểm ngoại giao của Chính phủ Việt Nam vẫn giữ vững mục
tiêu “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Người Việt Nam có truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm
bọc lẫn nhau, phụng dưỡng cha mẹ, tri ân những người có công với cộng đồng,
làm điều thiện… đó cũng chính là những điều luân lý đạo đức cụ thể mà Phật
giáo đã truyền dạy.

KẾT LUẬN
Phật giáo là một tôn giáo. Vì vậy nó có những thiếu sót, những tiêu cực về
mặt khoa học và nhân sinh quan. Song với thái độ khách quan, chúng ta cần nhận
15



thức rõ những yếu tố tích cực trong tư tưởng Phật giáo. Trong lịch sử và cho đến
ngày nay, Phật giáo là tôn giáo duy nhất chống lại thần quyền. Trong tư tưởng
của nó có những yếu tố duy vật và biện chứng. Đạo Phật nêu cao thiện tâm, bình
đẳng, bác ái cho mọi người như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống
xã hội. Những giá trị đạo đức của Phật giáo đã đưa nó lên thành một trong ba tôn
giáo lớn nhất trên thế giới (Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo). Phật giáo vào
nước ta từ những năm đầu công nguyên. Phật giáo đã phát triển phù hợp với
truyền thống Việt Nam. Những tư tưởng tích cực của Phật giáo vẫn là nguồn
sống tinh thần của nhân dân ta cần được giữ gìn và phát huy.
Đảng, Nhà nước ta công nhận tín ngưỡng, tôn giáo trong đó có việc theo
đạo Phật là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn
giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng và Nhà nước ta thực
hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn
kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.
Trong nền kinh tế thị trường, một số triết lý của Phật giáo nguyên thủy đã bị
lợi dụng, biến tướng do nhiều cơ sở Phật giáo khai thác lợi thế mạnh của tôn giáo
biến mình trở thành cơ sở cung ứng dịch vụ tâm linh để khai thác các nguồn lợi
về kinh tế với các dịch vụ được cho là mê tín dị đoan như cúng sao giải hạn, đốt
vàng mã, cắt duyên âm…. Nhiều vị tu hành có chức sắc, uy tín nhưng tư cách
đạo đức thiếu chuẩn mực, sống xa hoa, không kiềm chế được dục vọng; nhiều
Phật tử đi chùa nhưng chưa hiểu đúng giáo lý của Phật giáo, sinh ra nhiều việc
làm thiếu chuẩn mực như nhét tiền lẻ vào tay tượng, đốt vàng mã, xả rác bừa
bãi…
Để thực hiện đúng quan điểm của Đảng về công tác tôn giáo nói chung; để
triết lý của đạo Phật nguyên thủy đến với mọi phật tử, mỗi người dân đúng với
16



bản chất của nó, công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện truyền
thông đại chúng cũng có một phần trách nhiệm hết sức quan trọng.
Qua việc nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng triết học Phật giáo trong triết học
Ấn độ cổ đại”, chúng ta hiểu thêm được về hệ tư tưởng Phật giáo nguyên thủy
và ảnh hưởng sâu đậm của nó đến xã hội và người dân Việt Nam. Đặc biệt đề tài
này không chỉ giúp cho người viết nhận thức rõ hơn về những giá trị của triết lý
Phật giáo của Ấn Độ cổ đại mà còn nhận thức được trách nhiệm của mình trong
việc giúp giúp những người xung quanh hiểu đúng hơn về triết lý của Phật giáo
nguyên thủy, tránh những việc làm thiếu chuẩn mực, ảnh hưởng đến an toàn, trật
tự xã hội.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Thanh Hương – Nguyễn Văn Đại, Khái lược lịch sử triết học, Nhà
xuất bản Chính trị - Hành chính, 2013
2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Báo cáo sơ kết công tác phật sự 6 tháng đầu
năm 2017, 2017
3. Địa lý Ấn Độ, Bách khoa toàn thư mở Https://vi.wikipedia.org.
4. Thích Nguyên Tạng, Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống người Việt,
http//thuvienhoasen.org, 2012.
5. Hòa thượng Tiến sĩ Thích Gia Quang, Giá trị của đạo đức Phật giáo trong
đời sống xã hội hiện nay, .

18




×