Câu 1: Tâm lý học lãnh đạo quản lý là một khoa học. Đồng chí hãy phân tích vài
nét và ý nghĩa trong việc nghiên cứu bộ môn này đối với hoạt động lãnh đạo quản lý.
Trong giai đoạn xây dựng và phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, việc áp dụng tri
thức tâm lý học để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cá nhân, cộng đồng người luôn là
yêu cầu bức xúc của xã hội. Yêu cầu này ngày càng được thỏa mãn nhiều hơn bỡi những tri
thức tâm lý học ngày càng phong phú, sâu sắc hơn nhờ những phương pháp nghiên cứu
khách quan khoa học.
Tâm lý học lãnh đạo-quản lý là một chuyên ngành của tâm lý học xã hội, là sự ứng
dụng của tâm lý học nói chung, là một khoa học chuyên nghiên cứu những hiện tượng tâm
lý diễn ra trong hoạt động lãnh đạo-quản lý, gồm các hiện tượng tâm lý của chủ thể lãnh
đạo-quản lý, các hiện tâm lý của khách thể lãnh đạo quản lý, hiện tượng tâm lý trong các
hoạt động lãnh-đạo quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo quản lý.
1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học lãnh đạo-quản lý là toàn bộ các hiện
tượng tâm lý nảy sinh, vận hành trong hoạt động lãnh đạo quản lý.
Thứ nhất, tâm lý học lãnh đạo-quản lý nghiên cứu đặc điểm tâm lý của chủ thể lãnh
đạo-quản lý, tức là người lãnh đạo quản lý. Đó chính là những phẩm chất nhân cách và năng
lực của người lãnh đạo-quản lý giúp cho họ làm tốt vai trò chỉ huy và điều khiển của mình
trong hoạt động lãnh đạo.
Thứ hai, tâm lý học lãnh đạo quản lý nghiên cứu những đặc điểm tâm lý của khách
thể lãnh đạo-quản lý, là những đối tượng mà chủ thể hướng đến. Đó là những đặc điểm,
hiện tượng, phẩm chất tâm lý của cá nhân, nhóm, tập thể thuộc phạm vi lãnh đạo-quản lý.
Thứ ba, sự tác động qua lại chủ thể và khách thể: Tâm lý học lãnh đạo-quản lý
nghiên cứu những khía cạnh tâm lý diễn ra của bản thân hoạt động lãnh đạo quản lý, phong
cách lãnh đạo quản lý và những khía cạnh tâm lý diễn ra trong hoạt động này, đồng thời hệ
thống hoá những đặc điểm, những yêu cầu đặt ra cho việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đánh
giá và sử dụng cán bộ trong tình hoạt động cụ thể.
2. Xuất phát từ yêu cầu, đối tượng thuộc phạm vi nghiên cứu, môn học tâm lý
học lãnh đạo - quản lý đặt ra những nhiệm vụ cụ thể.
Tâm lý học lãnh đạo quản lý nghiên cứu những vấn đề tâm lý của chủ thể lãnh
đạo quản lý như nhân cách lãnh đạo quản lý, phong cách lãnh đạo quản lý, uy tín lãnh đạo
quản lý. Từ đó giúp người lãnh đạo quản lý rèn luyện tu dưỡng nhân cách của bản thân, sử
dụng phong cách lãnh đạo phù hợp, nâng cao uy tín lãnh đạo quản lý, góp phần nâng cao
hiệu quả lãnh đạo quản lý.
Tâm lý học lãnh đạo quản lý nghiên cứu những vấn đề tâm lý của khách thể quản
lý (tâm lý cá nhân, tâm lý nhóm-tập thể, tâm lý nhóm-tập thể cộng đồng xã hội). Từ đó, giúp
người lãnh đạo quản lý đưa ra các biện pháp tâm lý tác động phù hợp nhằm phát huy vai trò,
nhiệm vụ của khách thể lãnh đạo quản lý góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo quản lý.
Tâm lý học lãnh đạo quản lý nghiên cứu những vấn đề tâm lý trong các hoạt động
lãnh đạo quản lý, bao gồm tâm lý trong quá trình ra quyết định quản lý, tổ chức thực hiện
quyết định quản lý; tâm lý trong công tác tổ chức cán bộ; tâm lý trong công tác tư tưởng. Từ
đó, giúp người lãnh đạo quản lý đưa ra các biện pháp tâm lý tác động phù hợp nhằm đưa ra
hiệu quả các hoạt động lãnh đạo quản lý góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo quản lý.
3. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học lãnh đạo-quản lý cũng như các
chuyên ngành tâm lý khác, cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học tâm lý
nói chung. Tuy nhiên, một số phương pháp được biến đổi phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ
của riêng Tâm lý học lãnh đạo-quản lý. Các phương pháp được dùng phổ biến như:
* Phương pháp khái quát hệ thống hóa tri thức là lấy ý kiến nhận xét độc lập của
một số người (cấp trên hay trong tập thể..) về một vấn đề nào đó của người lãnh đạo. Trong
phương pháp này việc chọn đối tượng hỏi ý kiến có vai trò quan trọng.
* Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động là phương pháp nghiên cứu tâm
lý con người bằng cách phân tích kết quả hoạt động của đối tượng như các báo cáo, biên
bản, kế hoạch, hiệu quả công tác... qua đó đánh giá thái độ, năng lực của đối tượng.
* Phương pháp “sắm vai quản lý” là phương pháp nghiên cứu tâm lý con người
bằng cách yêu cầu đối tượng xử lý một tình huống có vấn đề trong hoạt động lãnh đạo quản
lý, từ đó đánh giá nội dung tâm lý, nhân cách của đối tượng, biết được chỗ mạnh, chỗ yếu
của người lãnh đạo, của người muốn bổ nhiệm để có biện pháp, phương hướng đào tạo, bồi
dưỡng phù hợp.
* Phương pháp đo lường tâm lý-xã hội học là phương pháp nghiên cứu con người
bằng cách yêu cầu đối tượng trả lời các câu hỏi soạn sẳn qua trắc nghiệm. Tổng hợp kết quả
trả lời thông qua các điểm số để đánh giá nội dung tâm lý bên trong.
* Phương pháp nghiên cứu tiểu sử hoạt động của (cá nhân) người lãnh đạo,
quản lý nổi tiếng là phương pháp nghiên cứu con người bằng cách tìm hiểu, đánh giá quá
trình hoạt động học tập, làm việc, sống của đối tượng chẳng những cho chúng ta thấy được
những đức tính cần có của các đối tượng ở trong các giai đoạn lịch sử – xã hội khác nhau
mà còn biết thêm những kinh nghiệm, cách thức giải quyết các tình huống đa dạng, phức tạp
trong quản lý, lãnh đạo.
Tóm lại, mỗi phương pháp nghiên cứu tâm lý có ưu khuyết điểm khác nhau. Do vậy,
cần kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lý để đánh giá khách quan, khoa học, toàn
diện, tâm lý nhân cách của con người.
Cùng với những kiến thức tâm lý học nói chung, kiến thức tâm lý lãnh đạo – quản lý
nói riêng có ý nghĩa thực tiễn và lý luận rất lớn trong công tác lãnh đạo quản lý xã hội
cũng như lãnh đạo các tổ chức, các tập thể lao động khác. Ý nghĩa ấy thể hiện trong các nội
dung cụ thể sau:
1. Môn Tâm lý học lãnh đạo - quản lý nhằm giúp cho việc định hướng, điều khiển,
điều chỉnh cho toàn bộ hoạt động của con người, trong đó có hoạt động của lãnh đạo quản
lý. Từ đó người lãnh đạo quản lý nắm vững hệ thống tri thức khoa học về tâm lý và có thể
vận dụng, ứng dụng vào việc chẩn đoán tâm lý con người, đồng thời có cơ sở đáng giá sắp
xếp cán bộ phù hợp.
2. Nghiên cứu môn Tâm lý học lãnh đạo - quản lý nhằm định ra mô hình nhân cách
cho người lãnh đạo - quản lý, giúp người lãnh đạo hiểu được những đặc điểm phẩm chất,
nhân cách người lãnh đạo quản lý, từ đó vạch ra con đường, biện pháp để hoàn thiện nhân
cách của người lãnh đạo quản lý.
3. Môn Tâm lý học lãnh đạo quản lý giúp nhà lãnh đạo - quản lý nắm vững tri thức
tâm lý học lãnh đạo quản lý, hiểu được đặc điểm tâm lý của tập thể, nhóm, cộng đồng
thuộc đối tượng lãnh đạo - quản lý, người lãnh đạo sẽ tác động làm cho các cá nhân, tập thể,
nhóm, cộng đồng...phát huy tính tích cực góp phần nâng cao hiệu quả trong việc lãnh đạo
quản lý.
4. Môn Tâm lý học lãnh đạo quản lý nhằm tìm ra cơ sở tâm lý của hoạt động lãnh
đạo quản lý giúp cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động lãnh đạo quản lý. Trong quá
trình nghiên cứu môn học này, người lãnh đạo quản lý có dịp xem xét lại những cơ sở, đặc
điểm, hiện tượng tâm lý diễn ra trong các khía cạnh của hoạt động lãnh đạo quản lý giúp
cho người lãnh đạo quản lý có phương pháp khoa học trong việc nhìn nhận đánh giá,
định hướng giáo dục đội ngũ cán bộ một cách có hiệu quả.
5. Với tư cách một môn khoa học chuyên ngành tâm lý học lãnh - quản lý còn mới
mẻ nhưng vô cùng phức tạp, đa dạng đòi hỏi phải được nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn, đúc
kết bổ sung lý luận một cách nghiêm túc. Do đó, nghiên cứu môn này một mặt ứng dụng tri
thức tâm lý vào trong thực tiễn công tác, mặt khác còn hệ thống đúc kết, nâng cao tri
thức một cách sinh động nhằm bổ sung lý luận khoa học tâm lý học lãnh đạo quản lý
mới có sức sống có ý nghĩa với thực tiễn xã hội, góp phần nâng cao hiệu quản hoạt động
lãnh đạo - quản lý xã hội.
Tóm lại, xét về mặt nhận thức tâm lý học lãnh đạo quản lý cung cấp tri thức về các
đặc điểm các quy luật chung của tâm lý con người đặc biệt trong các hệ thống lãnh đạo quản
lý giúp cho các chủ thể của những quá trình này những cơ sở nhận thức để tiến hành công
việc một cách có hiệu quả, tránh được những sai lầm không đáng có. Sự am hiểu tâm lý học
lãnh đạo-quản lý là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý xã hội quản lý
kinh tế và quản lý nhà nước trong tình hình hiện nay đang đòi hỏi ngày càng cao trong mọi
lĩnh vực. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, nhiệm vụ chính trị mới
rất nặng nề khó khăn và phức tạp. Đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ
ngang tầm là yêu cầu bức xúc góp phẩn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Đối với bản thân, nhờ môn tâm lý học lãnh đạo-quản lý mà am hiểu được tâm lý của
đối tượng quản lý, từ đó mà bố trí sắp sếp công việc phù hợp hơn nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả trong công lãnh đạo quản lý. Mặt khác, cũng nhờ kiến thức tâm lý học về nhân
cách người lãnh đạo quản lý mà bản thân có cách nhìn đúng đắn hơn về mình, từ đó biết
điều chỉnh nhược điểm, phát huy những ưu điểm nhằm hoàn thiện hơn. Cũng nhờ tâm lý
học quản lý bản thân học tập được những đặc điểm tâm lý từ đó xây dựng được mối gắn bó
đoàn kết trong cơ quan, đơn vị mình.
Nghiên cứu tâm lý học lãnh đạo-quản lý, giúp cho bản thân tiến hành công tác lãnh
đạo-quản lý nhân viên có hiệu quả, tránh được sai lầm, nâng cao hiệu quả hoạt động của tập
thể đơn vị của mình.
4
Câu 2: Bằng kiến thức tâm lý học nhân cách. Đồng chí hãy phân tích mối quan
hệ giữa đức và tài trong nhân cách người lãnh đạo – quản lý. Từ đó đưa ra phương
hướng hoàn thiện nhân cách người lãnh đạo – quản lý.
Nhân cách người lãnh đạo là bộ mặt xã hội đặc thù của những cá nhân đóng vai trò
chỉ huy, điều khiển trong hệ thống xã hội nhất định, nó được tạo nên bởi những đặc điểm
tâm lý và hành vi xác định phù hợp với vai trò là người chỉ huy, là nhà hoạt động chính trị,
nhà tổ chức, nhà chuyên môn và nhà giáo dục. Một kiểu nhân cách xã hội đặc thù, là tổ hợp
những đặc điểm, phẩm chất tâm lý ổn định nhằm đảm bảo cho người lãnh đạo đạt được hiệu
quả trong hoạt động khi thực hiện vai trò xã hội của mình. Nhân cách lãnh đạo được xem là
yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động của người lãnh đạo-quản lý.
Toàn bộ những khuôn mẫu hành vi, những cách ứng xử bộ mặt xã hội là những cái
được gọi là nhân cách thì không có sẵn và không ổn định, được hình thành khác nhau trong
những xã hội khác nhau, biến đổi trong từng thời kỳ, phụ thuộc vào sự biến đổi của các điều
kiện kinh tế-xã hội, chính trị…
Mặc dù có sự khác nhau và sự biến đổi trong nhân cách người lãnh đạo trong các xã
hội khác nhau, trong các thời kỳ. Bản thân nhân cách người lãnh đạo vẫn có những yếu tố
chung nhất và ổn định. Điều đó có nghĩa là bất cứ người cán bộ lãnh đạo, trong chế độ xã
hội, ở thời kỳ nào, với tư cách là thành viên của nhóm người đóng vai trò chỉ huy đều phải
có một cấu trúc tâm lý xã hội phổ biến đó là:
Một là, xu hướng lãnh đạo-quản lý mỗi cá nhân sống và hoạt động luôn luôn vươn
lên để đạt được cái gì đó trong xã hội. Cái đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
những hoạt động của họ và được gọi là xu hướng.
Xu hướng của cá nhân là ý chí định hướng tới đối tượng trong khoảng thời gian
tương đối dài nhằm thoả mãn những nhu cầu hay hứng thú hoặc vươn tới những mục tiêu
cao cả mà mỗi cá nhân lấy làm lẽ sống. Xu hướng biểu hiện ở các mặt nhu cầu, hứng thú, lý
tưởng, thế giới quan và niềm tin. Trong đó, đối với người lãnh đạo-quản lý thì:
Nhu cầu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh là sự
đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Mỗi cá nhân
có một thang nhu cầu khác nhau và trong mỗi thang nhu cầu có nhiều thứ bậc khác nhau.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa mang lại cho cá nhân một sự hấp dẫn. Việc tạo ra một sản
phẩm trong lao động sẽ cho con người niềm vui, đến một lúc niềm vui đó trở thành không
thể thiếu được và từ đó đã trở thành sự hứng thú.
Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp được phản ánh trong não con người dưới một hình
thức, một hình ảnh hoàn chỉnh và mẫu mực nó có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ hoạt
động của cá nhân.
Thế giới quan của người lãnh đạo-quản lý là hệ thống các quan điểm, những quan
niệm của con người về thế giới xung quanh. Thế giới quan của chúng ta được xây dựng trên
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong cuộc sống, mỗi người đều căn cứ vào một cái gì đó, làm chỗ dựa tinh thần để
hoạt động. Chỗ dựa này được gọi là niềm tin. Niềm tin đúng đắn giúp con người vững vàng
trong hoạt động và sống lạc quan.
Hai là, năng lực của nhân cách nói lên khả năng của mỗi con người có thể làm
được việc gì và hoàn thành đến mức nào, là sự vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để giải
quyết một công việc cụ thể có kết quả.
5
Năng lực là một tổ hợp các đặc điểm tâm lý độc đáo của cá nhân phù hợp với yêu
cầu, tính chất, đặc trưng của một hệ thống nhất định, nhằm bảo đảm cho hoạt động đó đạt
hiệu quả, người lãnh đạo cần có bốn năng lực cơ bản đó là năng lực trí tuệ, năng lực chuyên
môn, năng lực tổ chức và năng lực sư phạm.
Ba là, tính cách của người lãnh đạo quản lý, là hệ thống thái độ, quan hệ ứng xử
của con người được hình thành và khẳng định trong suốt quá trình hoạt động, giao tiếp.
Trong mỗi người thường có một số nét tính cách tích cực và một số nét tính cách tiêu
cực. Những nét tính cách được kết hợp với nhau ở mỗi người theo những cách thức nhất
định, từ đó chúng tạo nên phong thái tâm lý đặc thù của mỗi người.
Là một cán bộ lãnh đạo quản lý, thái độ đối với Đảng và Nhà nước là lòng trung
thành, đối với nhân dân là hết lòng phục vụ và đối với bản thân là thực hiện tốt phê bình và
tự phê bình..
Những phẩm chất tính cách của người lãnh đạo quản lý được thể hiện đầy đủ và
sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ là cần, kiệm,
liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được
nhân dân tín nhiệm; gương mẫu về đạo đức, lối sống, có tác phong dân chủ khoa học, có
khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ.
Bốn là, khí chất của lãnh đạo quản lý, là thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân,
biểu hiện cường độ, tốc độ và nhịp độ của hoạt động tâm lý, thể hiện thông qua hành vi,
cách nói năng của mỗi cá nhân. Khí chất của cá nhân cũng đa dạng và khác nhau gồm khí
chất hăng hái, điềm đạm, nóng nảy, ưu tư.
Người lãnh đạo quản lý cần xác định khí chất hiện có của bản thân mình cũng như tự
nhận thấy những ưu, nhược điểm của từng loại khí chất để khắc phục nhược điểm, biết phối
hợp, điều hòa giữa các loại cho phù hợp.
Về hoạt động nhận thức, người lãnh đạo quản lý phải nhận thức vấn đề nhanh
chóng nhưng sâu sắc, chín chắn; có năng lực tưởng tượng dồi dào phong phú đồng thời có
khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hóa cao.
Về đời sống tình cảm, luôn tỏ ra lạc quan, vui tính, dí dỏm, tính tình cởi mở, dễ làm
quen, hòa đồng vui vẻ với mọi người, đồng thời người lãnh đạo-quản lý cần có tình cảm rất
sâu sắc và bền vững, dễ thông cảm với những người xung quanh.
Về hành động, luôn tỏ ra nhiệt tình, hăng hái, nhanh nhẹn, hoạt bát, xông xáo, sôi
nổi trong các loại hoạt động nhưng biết kiềm chế, bình tĩnh kiên trì, suy nghĩ chín chắn, chu
đáo, thận trọng...
Từ những yếu tố tạo nên nhân cách người lãnh đạo quản lý như xu hướng, tính cách,
năng lực, khí chất, thì đó chính là đức-tài theo quan điểm của Hồ Chí Minh về cấu trúc
nhân cách người cán bộ cách mạng, trong đó đức là gốc. Đức không chỉ là đạo đức thông
thường mà đối với người lãnh đạo cách mạng còn là đạo đức cách mạng. Đó là phẩm chất
chính trị tư tưởng, tư cách lối sống, tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH), luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng. Người cán
bộ lãnh đạo-quản lý phải rèn luyện đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Nếu có tài mà không có đức, thì dù giỏi đến mấy cũng không
lãnh đạo được, ngược lại có đức mà không có tài thì cũng không hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng. Do đó, người lãnh đạo quản lý phải có năng lực chuyên môn. Năng lực bao giờ
cũng gắn chặt với xu hướng, xu hướng của người lãnh đạo quản lý chính là nguyện vọng
6
của Đảng ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quá trình
thực hiện mục tiêu của xu hướng là quá trình hình thành và phát triển năng lực. Năng lực lại
quyết định quá trình hiện thực hóa xu hướng của người lãnh đạo-quản lý. Đó là yêu cầu đòi
hỏi người cán bộ lãnh đạo quản lý phải vừa có đức và vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Thời gian qua đội ngũ cán bộ lãnh đạo-quản lý ngày một trưởng thành đảm đương tốt
nhiệm vụ, vững vàng trước mọi thử thách và đang là một trong những lực lượng nòng cốt
thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước. Bên cạnh đó cũng phải nhìn nhận rằng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo vẫn còn nhiều yếu kém và bất cập cả về năng lực lẫn phẩm chất đạo đức.
Chủ nghĩa cá nhân cơ hội, thực dụng đang phát triển. Tình trạng suy thoái về đạo đức
lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, nạn tham nhũng, tệ quan liêu, sự phát triển của
các tệ nạn xã hội, hiện tượng chạy chức, chạy quyền, tình trạng thiếu kỷ cương, xa rời nhân
dân...đang là nổi lo của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm suy giảm niềm
tin trong nhân dân. Bên cạnh đó, một số cán bộ lãnh đạo-quản lý còn băn khoăn, hoài nghi
con đường đi lên CNXH và tính ưu việt của CNXH. Về năng lực nhìn chung đội ngũ cán
bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi
hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Tình trạng kém trình độ ngoại
ngữ, tin học, không có khả năng phân tích, tổng kết thực tiễn, nắm bắt các vấn đề đặt ra do
vậy không đưa được những quyết sách phù hợp, kịp thời, thực hiện có hiệu quả... đang xảy
ra khá nhiều trong những người lãnh đạo-quản lý. Trình độ cán bộ lãnh đạo-quản lý cơ sở
đặc biệt ở cấp xã còn thấp, chưa lôi cuốn, vận động tốt quần chúng. Đặc biệt hiện nay, trong
lĩnh vực kinh tế, chúng ta đang thiếu những cán bộ lãnh đạo-quản lý giỏi, thật sự có “tầm”
và có “tâm”.
Từ lý luận và phân tích nêu trên, chúng ta thấy rằng để hoàn thiện nhân cách
người, cán bộ lãnh đạo quản lý phải thực hiện các phương pháp như sau:
Thông qua giáo dục, người cán bộ lãnh đạo quản lý phải được giáo dục về chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, phải coi trọng tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên của bản thân mình.
Thông qua hoạt động, người cán bộ lãnh đạo quản lý rèn luyện được kỹ năng, kỹ
xảo, hình thành và phát triển nhân cách của mình.
Thông qua giao tiếp xã hội, người lãnh đạo quản lý sẽ thu nhận, trao đổi thông tin,
phối hợp hoạt động, thiết lập mối quan hệ người và người với nhau.
Thông qua rèn luyện trong tập thể, là nơi đưa ra những chuẩn mực để cá nhân đánh
giá đúng mình, tiếp thu kinh nghiệm của xã hội để rèn luyện nhân cách.
Tóm lại, nhân cách người lãnh đạo quản lý bao gồm hai yếu tố đức và tài, đó là nhân
tố quyết định sự thành bại của Đảng ta trong chiến lược xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Để xây dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ, thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mỗi cán bộ đảng viên chúng ta phải rèn luyện nhân
cách mới, nhân cách người cán bộ quản lý có đức, có tài đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
Đảng ta trên con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
7
Câu 3: Đồng chí hãy phân tích những phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo
quản lý từ đó nêu lên định hướng của người lãnh đạo quản lý trong giai đoạn hiện nay.
Đất nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá tạo cơ sở vật
chất cho việc xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một nhiệm vụ hết sức
gay go và phức tạp đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm có
khả năng đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời đại ngày nay. Việc xây
dựng và rèn luyện nhân cách đặc biệt là nhân cách của người lãnh đạo quản lý có ý nghĩa
quyết định trong chiến lược xây dựng con người của Đảng ta nhân cách người lãnh đạo
quản lý bao giờ cũng có hai mặt đức và tài như Bác Hồ đã dạy đức là cái gốc, là cái quyết
định trong nhân cách người cán bộ.
Nhân cách người lãnh đạo quản lý bao gồm các yếu tố xu hướng, năng lực, tính
cách và khí chất trong đó xu hướng và tính cách là phẩm chất tâm lý đạo đức là tiêu chuẩn
nền tảng của người cán bộ lãnh đạo.
Xu hướng và tính cách hay đạo đức là một sức mạnh tâm lý lôi kéo nhân cách theo
một chiều hướng nhất định trong thái độ hành vi và hoạt động. Đó là một áp lực tinh thần
của định hướng nhân cách. Sức mạnh tâm lý hay áp lực tinh thần ấy là những đặc điểm bên
trong vốn có của cá nhân, là những yếu tố thuộc về đời sống tinh thần của cá nhân. Có sức
mạnh tâm lý, cái áp lực tinh thần có trong mỗi cá nhân quy định cho họ cái phẩm chất đạo
đức và nó trở thành nhân cách lãnh đạo của người lãnh đạo quản lý, nó bao gồm một thế
giới quan và một lý tưởng xã hội xác định đã biến thành niềm tin bên trong và thể hiện ra
bên ngoài thành một định hướng chính trị rõ nét như phục vụ cho ai và vì cái gì, vì ai mà
phục vụ. Một định hướng giá trị cá nhân mang tính chất xã hội rõ nét, có nghĩa là với đạo
đức người lãnh đạo, cái làm nên giá trị của nhân cách là một sự nghiệp xã hội, một sứ mệnh
cao cả và cuối cùng là một nhu cầu hứng thú trong tổ chức và xếp đặt công việc, trong điều
khiển con người.
Trong thực tế người lãnh đạo bao giờ cũng thuộc về một xã hội nhất định như phong
kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Do đó đạo đức trong phong cách người lãnh đạo
cũng khác nhau trong những xã hội khác nhau, sự khác biệt này trước hết là sự khác biệt
trong nội dung và tính chất của thế giới quan, của định hướng giá trị cá nhân và cả nhu cầu
có tính nghề nghiệp nữa.
Động cơ, sứ mệnh cao cả sự nghiệp của người lãnh đạo xã hội phong kiến phương
đông theo đuổi là “gồm thâu lục quốc” là “bình thiên hạ”, còn đối với người lãnh đạo trong
xã hội chúng ta, sự nghiệp hay sứ mệnh cao cả ấy mang nội dung giải phóng dân tộc, giải
phóng con người, đạo đức trong nhân cách người lãnh đạo quản lý, trong xã hội chúng ta là
một yếu tố đặc biệt, nó được hình thành và biến đổi theo yêu cầu của cách mạng trong từng
giai đoạn. Dù có biến đổi như thế nào, thì về mặt xu hướng chung đạo đức trong nhân cách
người lãnh đạo của xã hội chúng ta đều phải có những đặc điểm cơ bản sau đây.
Một là, động cơ vì dân, vì nước, vì chủ nghĩa xã hội, đây là một xu hướng cơ bản và
quan trọng nhất trong đạo đức của người lãnh đạo quản lý, không có hoặc không rõ động cơ
này thì không thể trở thành người lãnh đạo quản lý của chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa
của nó “tuyệt đối trung thành với cách mạng, với nhân dân, quyết tâm suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Động cơ này là yếu tố quy định một
định hướng chính trị rõ nét trong đạo đức của người lãnh đạo phục vụ cách mạng, hoạt động
vì lợi ích của Đảng, của giai cấp lao động và của dân tộc Việt Nam. Động cơ này được tạo
nên bỡi một thế giới quan duy vật khoa học, một ý tưởng xã hội tiến bộ và nhân đạo, một
niềm tin sắt đá của người cộng sản, và một tình cảm dân tộc, tình cảm giai cấp sâu sắc.
8
Người lãnh đạo trước hết phải hình thành được cho mình một hệ thống những quan
niệm về thế giới và con người phù hợp với quy luật phát triển trên nguyên tắc chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một trong những động cơ quan trọng khác quy định
đạo đức của người cán bộ lãnh đạo cách mạng đó là tình cảm giai cấp và tình cảm dân tộc.
Đồng cảm sâu sắc với tình cảm người lao động là sự thù ghét đối với chế độ bóc lột người,
về mặt này sự thấm đậm tình cảm giai cấp trong đạo đức Hồ Chí Minh là một phẩm chất
mẫu mực không gì so sánh.
Trong việc chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường hiện nay, tình trạng phân
hoá giàu, nghèo là không thể tránh khỏi. Trong tình hình như vậy, một tình cảm thật sự có ý
nghĩa đối với cán bộ lãnh đạo mọi cấp, mọi ngành ở nước ta hiện nay, yêu nước, yêu đồng
bào là một tình cảm đã trở thành truyền thống của dân tộc, của con người Việt Nam và đã
trở thành tiêu chuẩn hàng đầu trong đạo đức người lãnh đạo.
Hai là, định hướng giá trị của đạo đức mang tính tích cực, tiến bộ và nhân bản,
đạo đức bao giờ cũng gắn liền với một định hướng giá trị nhất định. Nghĩa là đạo đức ấy
ngã về những giá trị nào trong thái độ, hành vi hoạt động của nó. Mỗi người lãnh đạo trong
thực tế có thể có những giá trị khác nhau, động cơ thúc đẩy, quy định mọi hành vi và cách
ứng xử của họ. Với tư cách là một nhân cách lãnh đạo mới xã hội chủ nghĩa, thì những định
hướng cá nhân ấy phải có những đặc điểm tuân theo những yêu cầu và đòi hỏi nhất định về
mặt xã hội. Những đặc điểm trong giá trị của người lãnh đạo thể hiện ở hai mặt, một là
những giá trị mang tính chất tiến bộ, tích cực bản chất và nhân bản, mặt khác định hướng ấy
phải mang một phong thái biện chứng nghĩa là không biến sự định hướng, sự thúc đẩy thành
một động cơ mù quáng, cực đoan.
Ba là, nhu cầu và hứng thú điều hành, tổ chức, đây là động cơ quy định khuynh
hướng nghề nghiệp trong đạo đức người lãnh đạo, là một xu hướng đặc trưng nhất trong đạo
đức người lãnh đạo. Lãnh đạo quản lý được xem là một nghề trong xã hội, nghề đặc biệt.
Điều đó có nghĩa là đạo đức người lãnh đạo quản lý cũng là một đạo đức nghề nghiệp-nghề
lãnh đạo quản lý. Xu hướng này được thúc đẩy bởi nhu cầu và hứng thú tổ chức, điều hành,
chỉ huy, đó là một xu hướng tâm lý, là sự tìm thấy niềm vui niềm say mê hứng thú trong
công việc chung trong việc tổ chức điều hành công việc, trong việc sắp xếp bố trí con người,
lôi cuốn họ vào nhiệm vụ cách mạng.
Một số định hướng giá trị cần phải có của người lãnh đạo quản lý tạo nên nhân
cách, đạo đức của người lãnh đạo quản lý:
Sự hoàn hiện, người lãnh đạo quản lý cần hướng đến sự hoàn thiện như là động cơ
thúc đẩy hoạt động làm cho hiện thực trở nên hoàn thiện, tránh những thiếu sót sai trái của
hiện thực.
Tính hiệu quả, làm việc có hiệu quả, làm việc để thành công rõ ràng không chỉ là
động cơ bên trong mà còn là yêu cầu của xã hội đối với người lãnh đạo quản lý, người lãnh
đạo phải xác định hết sức rõ ràng mục đích của đời mình và phấn đấu đến cùng để đạt được
mục đích đó. Đó là một nhân cách lớn.
Hướng tới những điều có ý nghĩa, hướng tới cái cao cả là một trong những xu
hướng của cá nhân người lãnh đạo quản lý. Người lãnh đạo cách mạng phải biết hướng đến
và hành động để lập nên những kỳ tích, xa với những gì tầm thường, thấp kém, vụn vặt.
Tình cảm, cũng là một trong những giá trị định hướng trong nhân cách người lãnh
đạo quản lý. Người lãnh đạo quản lý nhất là người lãnh đạo cộng sản, cần phải xem tình
cảm giữa con người, tình cảm trong tập thể, tình cảm giai cấp, tình cảm đồng bào là một giá
trị định hướng là một động cơ để hoạt động.
9
Trật tự và nề nếp, cũng là một trong những giá trị định hướng của người lãnh đạo là
người đứng đầu tổ chức hơn ai hết truyền thống người lãnh đạo phải hướng đến sự tuân thủ
các nguyên tắc nhất định trong một hệ thống xã hội, lấy tính trật tự và nề nếp làm giá trị
định hướng ưu tiên về những lệch lạc. Khuyết điểm của hiện thực không khoan nhượng với
những gì vi phạm hoặc đe dọa vi phạm những chuẩn tắc hiện hành.
Sức mạnh và uy lực, đây cũng là giá trị quan trọng mà người lãnh đạo cần hướng
dẫn. Trong xu thế quy định đạo đức người lãnh đạo không thể không có cái sức mạnh và uy
lực. Cái thứ này được biểu hiện ở tinh thần dũng cảm, sự can đảm và cao nhất là chủ nghĩa
anh hùng cách mạng.
Tri thức và sự khôn ngoan, là một giá trị cần thiết mà người lãnh đạo phải hướng
tới để hoàn thiện nhân cách của mình, hướng tới giá trị này người lãnh đạo sẽ là người quan
sát và nhìn nhận mọi sự kiện hiện tượng một cách sáng tạo có khả năng nhìn thấy đằng sau
các sự vật hiện tượng nhưng ý nghĩa bản chất hơn.
Phối hợp điều hoà hoạt động của những thành viên, nhằm đạt đến mục tiêu đã định là
nhiệm vụ của người lãnh đạo xu hướng này hướng tới sự hài hoà, hoà hợp tạo cho nhân
cách đạo đức người lãnh đạo có những đặc điểm tâm lý quan trọng như sự kiên nhẫn, khả
năng biết lắng nghe phong thái vô tư và sự mềm mỏng cần thiết.
Tính cách, là hệ thống thái độ, quan hệ ứng xử của con người được hình thành và
khẳng định trong suốt quá trình hoạt động, giao tiếp. Trong mỗi người thường có một số nét
tính cách tích cực và một số nét tính cách tiêu cực. Những nét tính cách được kết hợp với
nhau ở mỗi người theo những cách thức nhất định, từ đó chúng tạo nên phong thái tâm lý
đặc thù của mỗi người.
Là một cán bộ lãnh đạo quản lý, thái độ đối với Đảng và Nhà nước là lòng trung
thành, đối với nhân dân là hết lòng phục vụ và đối với bản thân là thực hiện tốt phê bình và
tự phê bình.
Những phẩm chất tính cách của người lãnh đạo quản lý, được thể hiện đầy đủ và
sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ bao gồm cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân,
đựơc nhân dân tín nhiệm. Người lãnh đạo phải gương mẫu về đạo đức, lối sống, có tác
phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ.
Tóm lại, qua phân tích xu hướng, tính cách của người lãnh đạo quản lý đó là những
phẩm chất đạo đức là cơ sở tạo nên việc hình thành những chuẩn mực về phẩm chất đạo đức
của người lãnh đạo quản lý…Những phẩm chất ấy giúp cho mỗi cán bộ Đảng viên chúng ta
những kinh nghiệm quý báu trong việc rèn luyện và trao dồi nhân cách phẩm chất đạo đức
người lãnh đạo quản lý trong giai đoạn mới công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước; đáp
ứng nhu cầu đòi hỏi của Đảng ta trong chiến lược xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, đủ tư cách ngang tầm nhiệm vụ cách mạng hiện nay, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
10
Câu 4: Vận dụng kiến thức môn học tâm lý học lãnh đạo vào công tác tổ chức,
cán bộ để xây dựng tổ chức vững mạnh.
Công tác tổ chức-cán bộ thực chất là khoa học về con người, là một công việc rất khó
khăn, phức tạp, là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, đòi hỏi phải có tính khoa
học, nghệ thuật. Để công tác này đạt hiệu quả cao, nhất thiết phải vận dụng kiến thức tâm lý
học và tâm lý học xã hội-những khoa học về đời sống tinh thần, tư tưởng của từng người và
từng nhóm người.
Tổ chức là một nhóm chính thức trong đó giữa các thành viên có liên hệ chặt chẽ
với nhau theo một cách thức nào đó và cùng phối hợp hoạt động để hướng tới một mục tiêu
chung.
Công tác tổ chức là hoạt động nhằm thiết lập, vận hành một tổ chức thông qua việc
đánh giá, lựa chọn, đào tạo-bồi dưỡng, bố trí, sắp đặt những con người vào những vị trí
nhất định cũng như tác động đến nhu cầu, lợi ích, ý chí, tình cảm, năng lực hoạt động thực
tiễn của con người nhằm hướng tới mục đích chung.
Một tổ chức tồn tại dưới dạng hoàn chỉnh đều có một số nhân tố chung, tạo thành nền
tảng cho tổ chức tồn tại và vận hành. Đó là các thành tố như mục tiêu của tổ chức, con
người, tương quan nhân sự trong tổ chức, phương thức và phương tiện hoạt động, bản sắc
của tổ chức.
Mục tiêu của tổ chức là yếu tố khởi đầu, quan trọng nhất của bất kỳ tổ chức nào, là
nền tảng để đảm bảo cho tổ chức đó tồn tại, vận hành và phát triển. Việc xác định đúng và
rõ mục tiêu cho tổ chức mang nhiều ý nghĩa là cơ sở để củng cố và phát triển một tổ chức;
thay đổi quy mô, tính chất, nội dung hoạt động của một tổ chức; là cơ sở để thống nhất quan
điểm, thái độ, quy chế, lợi ích và một số giá trị chung khác của tổ chức; để mọi người phối
hợp hành động với nhau một cách chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc và trong sinh
hoạt; là cơ sở để kiểm tra, đánh giá, điều khiển, điều chỉnh hành vi của các cá nhân ở các
đơn vị khác nhau của tổ chức; là cơ sở để đánh giá bầu không khí tâm lý tích cực trong tập
thể, sự đoàn kết, thống nhất trong hoạt động, trong việc xác định giá trị của tổ chức.
Trong khi thực hiện mục tiêu chung của tổ chức thì mỗi cá nhân đồng thời cũng đạt
được mục tiêu riêng của mình và ngược lại, làm được điều đó sẽ tạo ra được một động lức
rất lớn để duy trì và phát triển tổ chức.
Con người của tổ chức là yếu tố trung tâm của mọi tổ chức, là cơ sở tồn tại của tổ
chức. Không thể hình thành một tổ chức nếu như không có con người. Con người ở đây
không phải là con người trừu tượng, mà là các cá nhân cụ thể với những đặc điểm tâm sinh
lý xác định. Trong tổ chức thì con người là nhân tố cơ bản và năng động nhất. Với nổ lực
chủ quan con người sẽ phát huy hay triệt tiêu các yếu tố khác của tổ chức. Bất kỳ người nào
trong tổ chức cũng gắn với một vài chức năng nhất định. Đòi hỏi mỗi người cần phải có một
trình độ kiến thức, các phẩm chất và năng lực tương xứng với nhiệm vụ và quyền hạn mà
người đó được trao.
Cơ cấu của tổ chức là yếu tố tạo ra, duy trì sự tồn tại và hoạt động của một tổ chức
nhất định, là sự sắp xếp các bộ phận, các cá nhân cấu thành của tổ chức thành một hệ thống
hoàn chỉnh và hợp lý, sao cho toàn bộ tổ chức đó hoạt động nhịp nhành, có hiệu quả.
Trong tổ chức, phải xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ, lợi
ích... của mỗi người, mỗi bộ phận. Tương quan nhân sự trong tổ chức chịu sự chi phối, quy
định của loại hình tổ chức, quy mô, tính chất, phạm vi hoạt động của tổ chức.
Phương thức hoạt động của tổ chức là quá trình làm cho tổ chức trở nên sống động,
bao gồm cơ chế hoạt động và quy trình hoạt động. Cơ chế hoạt động là hệ thống các phương
11
thức tổ chức hoạt động có kết quả, gồm những tác động về mặt hành chính, về kinh tế, về
giáo dục. Quy trình hoạt động là trình tự và sự liên kết giữa các khâu, các công đoạn để thực
hiện một nhiệm vụ nào đó của tổ chức.
Phương tiện hoạt động của tổ chức là một điều kiện quan trọng, cấu thành các tổ
chức xã hội, gồm các phương tiện vật chất và cả những nhân tố chính trị, kinh tế và xã hội
khác nữa.
Bản sắc của tổ chức là thành tố phản ánh cung cách ứng xử trong một tổ chức, bầu
không khí tâm lý mà trong đó chứa đựng nhiều yếu tố riêng biệt, độc đáo, chỉ có ở tổ chức
ấy; được hình thành từ các mối quan hệ trong hoạt động chung của các cá nhân. Bản săc của
tổ chức được gọi là một giá trị chung của mọi thành viên trong tổ chức, có sức hấp dẫn, chi
phối hành vi của mọi người, làm mọi người tự hào về nó và luôn luôn giữ gìn phát triển.
Bản sắc của tổ chức còn chịu sự chi phối bởi kiểu lãnh đạo, phong cách làm việc, ứng xử,
lối sống, văn hóa của người lãnh đạo.
Trong các yếu tố cấu thành nên tổ chức đã nêu, các yếu tố về mục tiêu, con người,
bản sắc của tổ chức là những yếu tố về mục tiêu, con người, bản sắc của tổ chức là những
yếu tố tương đối ổn định. Trong công tác lãnh đạo - quản lý, chúng ta cần chú ý đến các yếu
tố này bởi vì chúng là những yếu tố cơ bản giúp cho tổ chức hoạt động một cách ổn định và
có hiệu quả.
Cá nhân tồn tại và hoạt động trong tổ chức là những cá nhân cụ thể với những đặc
điểm về thể chất, về tâm lý, về xã hội khác biệt nhau. Dung hợp là sự kết hợp một cách tối
ưu những đặc điểm về thể chất, tâm lý và xã hội của các cá nhân để tạo năng suất, hiệu quả
lao động cao và có đời sống tinh thần thoải mái, tích cực trong tổ chức. Thông thường, có
hai cách dẫn đến sự dung hợp tâm lý là tương quan và bù trừ. Dung hợp về quan điểm đòi
hỏi các cá nhân trong tổ chức cần có sự thống nhất quan điểm đối với những vấn đề cơ bản
của tổ chức, còn dung hợp về cá tính đòi hỏi sự bù trừ. Tùy yêu cầu và đặc điểm của công
việc mà chọn những khía cạnh dung hợp chủ yếu. Sự dung hợp không phải là vĩnh viễn mà
có thể thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh, tuổi tác...Cho nên cần xem xét lại sự dung hợp sau
một thời gian nhất định để có sự điều chỉnh cần thiết bằng cách sắp xếp lại cơ cấu tổ chức
và giúp đỡ mỗi người tự vươn lên không ngừng.
Đối với công tác tổ chức, muốn tạo ra và duy trì sự dung hợp, trước hết phải tạo ra và
duy trì những điều kiện, nhân tố cần thiết cho sự dung hợp. Các điều kiện cần thiết chủ yếu
cho sự dung hợp:
Thứ nhất là, xác định định đúng và rõ ràng mục tiêu của tổ chức làm cơ sở để thống
nhất quan điểm, thái độ và hành động của các cá nhân.
Thứ hai là, xác định số lượng các thành viên trong một nhóm, một tổ chức một cách
tối ưu.
Thứ ba là, giải quyết thỏa đáng các vấn đề thuộc về lợi ích, về mối quan hệ giữa lợi
ích chung của tổ chức với lợi ích riêng của cá nhân, quan hệ giữa lợi ích của các cá nhân với
nhau.
Sau cùng là, lựa chọn các cá nhân cho tổ chức sao cho có thể hạn chế tối đa tình
trạng đối lập hoặc xung đột có thể có.
Các lực tâm lý trong tổ chức là những xu hướng tâm lý khác nhau trong quan điểm
đánh giá, trong thái độ nhìn nhận, trong mong muốn và nguyện vọng đối với sự tồn tại của
tổ chức nói chung, đối với hoạt động và kết quả hoạt động của tổ chức, của những cá nhân
nhất định tạo thành một sức mạnh, một áp lực tinh thần ảnh hưởng đến tổ chức. Trong tổ
chức có thể có nhiều loại lực tâm lý khác nhau. Đối với người lãnh đạo – quản lý và người
12
làm công tác tổ chức, cần lưu ý đến các loại lực tâm lý “bảo thủ”, “cấp tiến”, “cải lương”,
“cơ hội”. Các loại lực tâm lý trong tổ chức có thể mang tính tích cực hoặc tiêu cực đối với
sự phát triển của tổ chức. Điều này phụ thuộc vào tính đúng đắn hay không trong việc đánh
giá, trong quan điểm của các loại lực tâm lý về thực trạng của tổ chức. Nếu sự đánh giá, cảm
nhận đối với thực tế tổ chức là đúng thì trừ lực “cơ hội” ra, cả ba loại lực tâm lý còn lại đều
có thể mang tính tích cực và ngược lại.
Việc xây dựng và phát triển một tổ chức sẽ khó diễn ra tốt đẹp và đạt được kết quả
tốt nếu như không chú ý đến các loại lực tâm lý đang tồn tại trong tổ chức. Vấn đề đặt ra
cho công tác tổ chức là phải nắm được loại lực tâm lý nào đang chiềm ưu thếtrong tổ chức,
loại lực tâm lý nào là tích cực hoặc tiêu cực để có thái độ phù hợp trong việc thực hiện
công tác tổ chức – cán bộ.
Trật tự tâm lý – xã hội của tổ chức, mỗi tổ chức chỉ có thể tồn tại trên chính cấu
trúc của nó, tức là sắp xếp các cá nhân cụ thể vào những vị trí nhất định và thiết lập những
mối liên hệ giữa họ theo một cách thức nào đó. Sự sắp xếp càng hợp lý thì tổ chức càng bền
vững, sức mạnh của nó càng được tăng cường. Các cá nhân được sắp xếp vào những vị trí
thích hợp sao cho vừa phát triển tối đa khả năng của mình, vừa ảnh hưởng tích cực nhất đến
các cá nhân khác, cơ cấu được sắp xếp như vậy được gọi là một trật tự tối ưu.
Một trật tự tối ưu của tổ chức chỉ thích hợp khi chú ý đến cả sự xắp xếp tự phát được
hình thành trên cơ sở các mối quan hệ tâm lý – xã hội giữa các cá nhân. Sự sắp xếp tự phát
này được gọi là trật tự tâm lý – xã hội. Trật tự này là hệ thống những vị trí khác nhau của
các cá nhân trong một tổ chức, được xác định bởi các mối quan hệ tình cảm xã hội. Tập hợp
các vị trí này của các cá nhân trong tổ chức sẽ tạo thành một trật tự tâm lý xã hội. Những vị
trí trong tổ chức có thể có là vị trí được phục tùng và kính trọng, vị trí được yêu mến, vị trí
được thừa nhận, vị trí bị lãng quên, vị trí bị tẩy chay...
Vấn đề là phải làm sao để cơ cấu tổ chức phù hợp với trật tự tâm lý – xã hội trong tổ
chức. Làm được điều đó sẽ đem đến cho tổ chức một sự ổn định cần thiết trong quá trình
phát triển. Ngược lại, nếu không có sự phù hợp giữa cơ cấu chính thức và trật tự tâm lý xã
hội sẽ cản trở sự phát triển của tổ chức. Người lãnh đạo – quản lý giỏi phải là người nắm
chắc mọi diễn biến tâm lý xã hội của đơn vị mình phụ trách và phải biết căn cứ vào các cơ
cấu để xây dựng một trật tự tâm lý trong tổ chức cho phù hợp và người lãnh đạo-quản lý
phải là người luôn đứng ở vị trí số một trong tật tự tâm lý của tổ chức.
Tóm lại, công tác tổ chức cán bộ là công tác với con người nên vô cùng khó khăn và
phức tạp. nó vừa là công việc có tính khoa học, vừa là công việc có tính nghệ thuật. để làm
tốt công tác này, người làm công tác tổ chức cán bộ phải có lập trường tư tưởng vững vàng,
có động cơ làm việc vì con người, vì sự phát triển của con người và tổ chức; có đạo đức
trong sáng, tận tậm và có khả năng thực hiện tốt các khía cạnh chuyên môn của công tác tổ
chức cán bộ. Từ đó, mới xây dựng được những tổ chức vững mạnh. Tổ chức có vững mạnh
mới đảm bảo cho tổ chức ấy hoạt động, vận hành theo đúng mục tiêu và kế hoạch đề ra, đạt
hiệu quả công việc ở mức cao nhất có thể. Trong xây dựng tổ chức cơ quan, đơn vị cũng
vậy, người lãnh đạo quản lý phải có kế hoạch luân chuyển, sắp xếp cán bộ vào những vị trí
thích hợp, phù hợp với phẩm chất, năng lực, tính cách của từng người. Đồng thời, cân bằng
các lực tâm lý trong tổ chức ấy sao cho tạo được trật tự tâm lý tối ưu trong tổ chức. như vậy,
nội bộ mới đoàn kết, thống nhất, tâm lý của mỗi cá nhân và tập thể mới hăng hái, sức mạnh
của tổ chức được nhân lên.
13
Câu 5: Đồng chí hãy phân tích những cơ sở lý luận của công tác cán bộ, từ đó
vận dụng vào việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó
khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp
phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. Cán bộ là nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Vậy cán bộ là những ai? Và công
tác cán bộ bao gồm những nội dung gì? Chúng ta sẽ lần lượt làm rõ, góp phần thực hiện tốt
chiến lược xây dựng cán bộ của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Cán bộ là những người được giao những nhiệm vụ nhất định trong tổ chức khác
nhau thuộc một hệ thống chính trị – xã hội nhất định. CB hiện nay bao gồm những người
trong biên chế Nhà nước, làm việc trong các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa
phương, các cơ quan Đảng, đòan thể, DNNN, LL vũ trang nhân dân, các tổ chức kinh tế.
Đội ngũ CB được hình thành từ bầu cử, đề bạt, phân công khi tốt nghiệp, tuyển dụng. CB là
những cá nhân với những đặc điểm về thể chất, tinh thần (tâm lý), xã hội được xác định. Vai
trò của những cá nhân này được tạo nên gắn với những hoàn cảnh XH cụ thể. Mọi đặc điểm
về nhân cách của họ đều chịu sự qui định của ý thức XH torng những giai đoạn nhất định.
Công tác cán bộ trong mọi thời kỳ đều nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
đủ về số lượng và đúng vế chất lượng phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thời kỳ ấy. Công
tác cán bộ phải cung cấp cho xã hội những cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đủ sức thực
hiện các nhiệm vụ mà thời kỳ mới đặt ra. Để làm được điều đó, công tác cán bộ phải thực
hiện 1 loạt những công việc khác nhau như đánh giá và lựa chọn, qui hoạch, bồi dưỡng và
đào tạo, bố trí sử dụng, đề bạt, luân chuyển và cuối cùng là chính sách đãi ngộ. Và trong tất
cả những công việc khác nhau ấy, điều cốt lõi chính là công việc quản lý con người, mà thực
chất là tìm hiểu để sử dụng con người. Đó là một vấn đề vừa mang tính chất lý thuyết, vừa
là một vấn đề thực tiễn.
Khi nói đến con người cán bộ là nói đến cơ sở tâm lý của họ, đây là khía cạnh khó
khăn phức tạp đối với nhiều ngành khi nghiên cứu. Từ những khái niệm nêu trên, chúng ta
tìm hiểu một số vấn đề tâm lý trong công tác cán bộ như sau :
1. Nhận xét đánh giá cán bộ:
Đánh giá cán bộ là khâu đầu tiên, quan trọng thậm chí có ý nghĩa quyết định trong
công tác cán bộ nói chung. Sẽ không thể có được, một đội ngũ cán bộ tốt nếu như công việc
này không được tiến hành một cách khoa học, tức không dựa trên những tri thức cần thiết
của các khoa học tâm lý về con người. Thực chất của việc đánh giá cán bộ là quá trình tìm
hiểu con người. trước hết là tìm hiểu về nhân cách của các cá nhân. Để làm được điều này,
việc tìm hiểu đánh giá trước tiên phải xuất phát từ một cơ sở xác định, nghĩa là có tiêu
chuẩn làm thước đo chung và đánh giá, tức là đặt đối tượng vào tương quan với những tiêu
chuẩn ấy. Đặt cá nhân vào vị trí nhiệm vụ của họ để xem xét các hành vi bộc lộ ra trong
thực hiện nhiệm vụ đó và xem xét hiệu quả những hành vi ấy.
Nội dung của việc đánh giá cán bộ bao gồm các yếu tố:
- Một là, đánh giá về mặt lập trường chính trị -xã hội của cá nhân: là chỗ đứng của cá
nhân về mặt tư tưởng trong những quan hệ giai cấp, NN, dân tộc…
+ Đánh giá qua mức độ nhận thức, việc thừa nhận hay không thừa nhận chế độ hiện
hành.
+ Sự hình thành hoặc củng cố lập trường chính trị -xã hội của cá nhân trong thực tế
mang tính chất nào là chủ yếu để xác định phương hướng và biện pháp tác động phù hợp
14
- Hai là, đánh giá về động cơ cá nhân: là cái lội kéo, thúc đẩy, qui định chiều hướng
hoạt động của 1 cá nhân
+ Đánh giá về định hướng giá trị chiếm ưu thế.
+ Nhu cầu đứng hàng đầu
- Ba là, về hệ thống thái độ và phản ứng của cá nhân đối với người khác, đối với
công việc, đối với bản thân, đối với của cải và cách ứng xử của hành vi.
- Bốn là, đánh giá về khả năng thực hiện nhiệm vụ (một mặt phải gắn liền với việc
thực hiện nhiệm vụ mà họ phải thực hiện, mặt khác phải gắn với những công việc cụ thể mà
họ đang làm và kết quả thực tế của những công việc ấy); đánh giá quá trình học tập, rèn
luyện, tu dưỡng về trình độ nhận thức, chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ-tin học;
đánh giá về năng khiếu, thiên hướng, khả năng quan sát, trí nhớ, tưởng tượng, khả năng
nhận thức, phán đóan, giải quyết vấn đề, xử lý tình huống; đánh giá về khả năng tư duy;
đánh giá về mặt hiệu quả công tác.
Các phương pháp đánh giá:
* Phải nhìn nhận cá nhân trong tòan bộ cuộc đời hoạt động của họ.
* Nhìn nhận con người phải thấy đó là 1 thực thể không cố định, luôn thay đổi.
* Phải đánh giá 1 cách toàn diện, cả mặt ưu và nhược điểm của họ.
2. Quy hoạch cán bộ: Đây là khâu rất quan trọng trong công tác cán bộ, tạo điều
kiện để kiện toàn tổ chức và đổi mới cán bộ 1 cách thường xuyên. Có qui hoạch CB thì mới
đảm bảo được tính kế thừa và tíhn liên tục của đội ngũ CB, bảo đảm cho công tác cán bộ đi
vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Nội dung quy hoạch cán bộ bao hàm việc xác định đúng đối tượng quy hoạch, đáp
ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng và công tác luân chuyển cán bộ.
3. Lựa chọn cán bộ: Quá trình lựa chọn cán bộ phải dựa trên nguyên tắc là phải
được tiến hành theo các yêu cầu có tính tổ chức hành chính ( biên chê ). Một số khía cạnh
tâm lý cơ bản trong quá trình lựa chọn cán bộ :
- Yếu tố thứ nhất: Số lượng các đối tượng được đưa vào diện lựa chọn là yếu tố đầu
tiên ảnh hưởng đến sự lựa chọn này. Quá trình lựa chọn sẽ đạt hiệu qủa cao nếu số lượng
các đối tượng phù hợp với khả năng tri giác của chủ thể.
- Yếu tố thứ 2 chi phối sự lựa chọn là hệ thống tiêu chuẩn như trình độ và tuổi tác,
đạo đức và tính tình..
- Yếu tố thứ 3 là bản thân chủ thể lựa chọn với đặc điểm tâm lý XH của họ như: xu
hướng, trình độ, lợi ích, thói quen..
- Yếu tố thứ 4 là tình huống, có tác động đáng kể đến kết quả của quá trình lựa
chọn: hiệu qủa lựa chọn tăng giảm phụ thuộc vào tình huống được chuẩn bị chu đáo, tình
huống đầy đủ thông tin hoặc ngược lại.
4. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ: căn cứ vào qui hoạch CB để đào tạo, bồi dưỡng CB.
Kết hợp bồi dưỡng kiến thức lý luận với rèn luyện trong thực tế, đào tạo bồi dưỡng từ thấp
đến cao, giao từ việc nhẹ đến việc nặng, từ đơn giản đến phức tạp để CB rèn luyện và
trưởng thành vững chắc. Để thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng CB cần có kế hoạch,
đồng thời trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cần theo dõi, kiểm tra thuờng xuyên, uốn nắn
kịp thời các lệch lạc, thiếu sót, động viên để CB không ngừng phấn đấu vươn lên
5. Bố trí, bổ nhiệm cán bộ: sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm cán bộ là khâu có tính chất
quyết định trong 1 loạt các nhiệm vụ khác nhau của công tác tổ chức. Về nguyên tắc, việc
bố trí bổ nhiệm được thực hiện theo một sơ đồ là: “ Mục tiêu, tổ chức, con người”. Điều đó
có nghĩa là để thực hiện một mục tiêu nhất định, phải thành lập tổ chức, căn cứ vào chức
15
năng và nhiệm vụ của tổ chức để bố trí con người vào trong tổ chức đó nhằm đạt đựơc
những mục tiêu đã xác định. Các yếu tố ảnh hưởng đến vịêc bố trí bổ nhiệm cán bộ:
+ Quan niệm phong kiến : Xã hội phong kiến đã tạo nên quan niệm về vị trí “ thiên
định” của vua quan, của tầng lớp thống trị, một cán bộ nào đó khi đã giữ vai trò lãnh đạo, thì
ít nhất cũng phải bố trí vào chức vụ tương đương, thậm chí ngay cả khi người đó không đủ
năng lực, và của những giá trị “thân quen” như “nhất thân, nhì quen, tam thần, tứ thế”.
+ Ảnh hưởng của “Chủ nghĩa duy tình”, của qui luật tình cảm “yêu nên tốt, ghét nên
xấu”
+ Quan niệm “ phải chờ đến lượt”. Có nghĩa người mới, người đến sau mà đuợc bố
trí, bổ nhiệm đề bạt trước đựoc xem là chuyện ko bình thường.
+ Ngoài ra còn một số sức ép, những áp lực, có ảnh hưởng đến việc bố trí bổ nhiệm
cán bộ như : truyền thống “ kính lão, đắc thọ”, áp lực của “ chủ nghĩa kinh nghiệm”, “sống
lâu lên lão làng”.
* Một số biện pháp cần phải được thực hiện để nâng cao hiệu qủa:
- Rà soát, sắp xếp, sử dụng tốt đội ngũ cán bộ hiện có, khẩn trương đào tạo, bồi
dưỡng rèn luyện, sớm hình thành đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực.
- Phát hiện những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, đảm đương tốt nhiệm vụ, có triển vọng
phát triển lâu dài để bố trí vào những cương vị trọng yếu.
- Dùng nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và rèn luyện trong thực
tế công tác phù hợp với từng loại cán bộ. Chú trọng bồi dưỡng đào tạo cán bộ về những vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối
chính sách của Đảng, lịch sử truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kiến thức mới của thời
đại. Xây dựng niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng và con đường đi lên CNXH.
- Nâng cao phẩm chất, trình độ kiến thức và năng lực của đội ngũ làm công tác cán
bộ. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn những người công tâm, trung thực, trong
sáng, có kinh nghiệm làm công tác cán bộ.
- Đổi mới phong cách và phương pháp làm công tác cán bộ, nâng cao chất lượng
nghiên cứu khoa học, chú trọng tổng kết thực tiễn, từng bước xây dựng khoa về công tác tổ
chức cán bộ. Trang bị các phương tiện làm việc hiện đại cho công tác tổ chức cán bộ.
Tóm lại: Công tác cán bộ là khâu quan trọng trong chiến lược cán bộ của Đảng ta,
đòi hỏi phải bố trí, sắp xếp cán bộ dựa trên năng lực, phẩm chất, sở trường của bản thân
người cán bộ, tương ứng với những yêu cầu của tổ chức. Tuy nhiên cũng phải tính đến và
xử lý 1 cách hợp lý nhất các nhân tố xã hội đang tồn tại trong tổ chức ở những thời điểm
nhất định. Không tính đến điều đó, việc bố trí sẽ không thuận lợi và bản thân công tác cán
bộ đạo đức đó có thể bị giảm bớt sức mạnh của nó. Làm được những vấn đề trên sẽ góp
phần thực hiện tốt quy chế cán bộ trong chiến lược cán bộ của Đảng ta nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá – hiện đại hoá, giữ vững độc lập tự chủ di lên CNXH.
Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.