Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

On thi mon triet hoc phan DVLS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.07 KB, 29 trang )

Câu 1: Nội dung, quy luật quan hệ sản xuất-lực lượng sản xuất, vận dụng trong
điều kiện nước ta hiện nay.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và một trong
những quy luật đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Theo triết học Mác-Lênin phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản
xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là chỉnh thể thống
nhất bởi hai mặt của quá trình sản xuất vật chất đó là lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.
Lực lượng sản xuất (LLSX) là biểu hiện quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất vật chất; là sự kết hợp thống nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất
(trước hết là công cụ lao động) để tạo thành sức sản xuất xã hội. Ngày nay, khi khoa học
phát triển mạnh mẽ, được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi, trực tiếp vào trong quá trình sản
xuất, cùng với công nghệ hiện đại đã trở thành một thành tố mới trong lực lượng sản xuất,
làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của lực lượng sản xuất và quy định nội dung mới của sức sản
xuất xã hội trong thời đại ngày nay.
Quan hệ sản xuất (QHSX) là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình
sản xuất vật chất của xã hội; là một chỉnh thể thống nhất của ba quan hệ đó là quan sở hữu
(Mối quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu đối với tư liệu sản xuất của xã hội),
quan hệ quản lý (Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức sản xuất và trao đổi hoạt
động cho nhau), quan hệ phân phối (Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối
sản phẩm xã hội làm ra). Trong chỉnh thể quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết
định, còn quan hệ quản lý và phân phối tác động lại rất mạnh mẽ và quan trọng đến chế độ
sở hữu (tích cực hoặc tiêu cực).
Phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội điều đó
nghĩa là phải nhận thức sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mối quan hệ cơ bản và biện chứng giữa hai yếu tố này hình thành nên quy luật kinh tế-xã
hội tất yếu, phổ biến, quyết định sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX thể hiện trước
hết ở vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX. Điều này thể hiện qua việc LLSX ở trình
độ và tính chất nào thì nó yêu cầu tất yếu một kiểu QHSX thích ứng phù hợp với nó mà


không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Mối QHSX chỉ tồn tại, hình thành trên cơ sở một
LLSX nhất định và chịu sự quyết định của lực lượng sản xuất ấy. Nghĩa là QHSX mang tính
khách quan, con người không có quyền tự do lựa chọn QHSX theo ý muốn chủ quan của
mình. Nếu LLSX ở trình độ thủ công thì nó chỉ đòi hỏi QHSX cá thể, tư hữu, tự cung tự
cấp, tự quản lý theo sản xuất nhỏ. Nhưng nếu lực lượng sản xuất ở trình độ cơ khí hóa, tính
chất xã hội hóa cao (do dây chuyền công nghệ khép kín, có sự chuyên môn hóa cao) thì đòi
hỏi tất nhiên phải có hình thức QHSX mang tính xã hội hóa cao, được vậy thì quá trình sản
xuất mới trôi chảy. QHSX có đáp ứng đúng đòi hỏi của LLSX hay không thì còn do nhiều
nguyên nhân từ phía bản thân của QHSX.
Trong sự vận động biến đổi không ngừng của sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất là yếu tố
biến đổi trước, vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính chất kế tục lịch sử, năng động hơn
quan hệ sản xuất do phải thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và liên tục của con người. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi phát triển theo
để phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Mỗi khi xuất hiện quan hệ sản xuất mới
phù hợp với lực lượng sản xuất thì cũng có nghĩa là phương thức sản xuất mới ra đời thay
thế cho phương thức sản xuất cũ, thúc đẩy xã hội tiến lên một bước cao hơn.


Mặc dù khẳng định LLSX là yếu tố quyết định đối với QHSX, Triết học Mác Lênin cũng
chỉ ra rằng QHSX không hoàn toàn phụ thuộc một cách thụ động vào LLSX, nó có vai trò
độc lập tương đối trong sự tác động trở lại LLSX. Sự tác động của QHSX đối với LLSX
diễn ra theo hai hướng phù hợp hoặc không phù hợp, điều này do QHSX mang tính ổn định
tương đối và biến đổi chậm hơn so với LLSX, mặt khác còn do trình độ năng lực của chủ
thể sản xuất, do quan hệ lịch sử giai cấp chi phối.
Sự tác động của QHSX gọi là phù hợp với LLSX nghĩa là quan hệ sản xuất sau khi
hình thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau đó nó
có vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, làm cho tất cả các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ
vậy tiềm năng của người lao động và tư liệu sản xuất được khai thác tốt hơn, tạo ra năng
suất lao động cao hơn. Với ý nghĩa đó, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển, là địa bàn

rộng lớn, là động lực phát triển thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất tác động không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của lực
lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến
những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở hai
khía cạnh: Một là khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của lực lượng
sản xuất. Hai là trường hợp chủ thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình”
quan hệ sản xuất”, “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Cả hai trường hợp này đều kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng không có nghĩa vì vậy lực lượng sản xuất
đứng im tại chổ mà chỉ là làm giảm khả năng, quy mô, tốc độ phát triển của LLSX. Tình
hình đó làm cho sản xuất bị đình đốn, có khi dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm
trọng.
Thực chất của quy luật là lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải luôn phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Song do nhiều yếu tố bản thân quan hệ sản xuất chi
phối nên QHSX phù hợp hoặc không phù hợp với LLSX. Phù hợp ở đây là bao trùm mâu
thuẫn, sự giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là thường xuyên và theo yêu cầu phù
hợp, thúc đẩy LLSX phát triển đó chính là nguồn động lực của sự phát triển phương thức
SX, các hình thái KT-XH.
Trước Đại hội VI, Đảng ta đã có những sai lầm thiếu sót trong việc nhận thức và vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan:
nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc
đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; có nhiều chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương...Những thiếu sót ấy được biểu hiện tập trung trong quan
điểm chỉ đạo và chính sách cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới.
Đảng ta đã sai lầm khi cho rằng đối với một nước lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất còn
thấp như nước ta để tiến lên chủ nghĩa xã hội thì quan hệ sản xuất XHCN tiên tiến có thể đi
trước mở đường cho lực lượng sản xuất lạc hậu phát triển nhanh lên hiện đại. Từ quan điểm
sai lầm này, thực tế đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn này chỉ

chú ý đến việc xây dựng quan hệ sản xuất mới mà không quan tâm đến việc phát triển lực
lượng sản xuất, do đó đã kéo dài quá lâu trình độ sản xuất thấp, thủ công, đầu tư công
nghiệp nặng không đúng hướng, dàn đều, tràn lan, không chú ý đầu tư chiều sâu. Chúng ta


cũng không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ; không
chấp nhận kinh tế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở hữu, quản lý, phân phối. Không thấy
được đòi hỏi của lực lượng sản xuất đang ở trong tình trạng đan xen nhiều trình độ, tính chất
khác nhau để xác lập quan hệ sản xuất. Bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng lại không thấy tính
chất quá độ là đan xen, tồn tại lâu dài của các lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Chúng ta cũng đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu, bao cấp vào quan hệ sản xuất vốn đã xác lập không phù hợp với lực lượng sản xuất, do
đó cơ chế này đã làm ngưng động tính sáng tạo của người lao động, kìm hãm lực lượng sản
xuất, coi thường tính tất yếu kinh tế của sản xuất nhỏ đang chuyển sang sản xuất lớn, nghĩa
là thông qua sản xuất hàng hoá thị trường mới đi lên được.
Từ những sai lầm đó đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng, lạm phát đạt
đến mức khủng khiếp trên 700%, sản xuất bị đình trệ. Qua thực tiễn cuộc sống, Đảng ta đã
rút ra những bài học thấm thía là không thể nóng vội, làm trái với quy luật khách quan.
Từ sau Đại hội VI đến nay, để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trên Đảng ta
đã đưa ra quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức và vận
dụng các quy luật khách quan, trong đó có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Quan điểm ấy đã được Đại hội XI tiếp tục khẳng định
“Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng
cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Thực tiễn cho thấy trình độ lực lượng sản xuất nước ta nhìn chung còn thấp, sản xuất
nhỏ còn phổ biến. Để bắt đầu xây dựng một chế độ xã hội mới nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy
mạnh lực lượng sản xuất phát triển trước, sau đó mới phát triển quan hệ sản xuất theo sự
phát triển của lực lượng sản xuất, tuy nhiên chúng ta không chờ quan hệ sản xuất phát triển
một cách tự nhiên mà tạo điều kiện cho ra đời quan hệ sản xuất mới phù hợp.

Việc phát triển lực lượng sản xuất chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta tăng cường
tính khoa học và hiện đại vào trong lực lượng sản xuất hiện tại, vì vậy Đảng đã chủ trương
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và xem đây là trọng tâm của suốt thời kỳ quá độ.
Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, đã tạo ra sức sống động cho sự
phát triển kinh tế, tạo ra được nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng
động vốn có của các thành phần kinh tế. Việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một quá trình kinh tếxã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao…Tiêu chuẩn căn bản để
đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát triển
lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông
qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển.
Thực tế cho thấy sự đổi mới phù hợp với quy luật giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất đã gắn kết các điều kiện sản xuất lại với nhau tạo ra năng suất cao, các ngành nghề
truyền thống khởi sắc, phát triển rộng và khá mạnh, nền kinh tế phát triển, đưa đất nước ra


khỏi cuộc khủng hoảng, từng bước phát triển một cách ổn định và bền vững; đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố,
tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ
vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Tóm lại, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất cùng các hệ thống, các quy luật kinh tế-xã hội khác của nền
kinh tế hàng hoá thị trường, các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ các loại thị trường
từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo
đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất định chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những thành tựu mà chúng ta đã đạt

được sau 25 năm đổi mới là những minh chứng xác thực nhất cho điều đó, dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng, nhân dân ta hoàn tòan có khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên
đất nước ta. Kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và tòan diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, nâng lên rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết tòan dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị-xã hội
ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước
tiếp tục đi lên với nhiều triển vọng tốt đẹp.


5

Câu 2: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội để xác định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
và cũng là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Với sự ra đời của
học thuyết này đã chỉ rõ kết cấu cơ bản của các xã hội cụ thể và còn vạch rõ những quy luật
nội tại của sự vận động phát triển xã hội, vạch ra phương pháp khoa học để giải thích tiến
trình lịch sử xã hội.
I.
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế-xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, gồm ba yếu tố cơ bản là
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Các yếu tố cơ bản có quan
hệ biện chứng với nhau tạo thành các quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của
các hình thái kinh tế-xã hội, trở thành nhân tố khách quan, khoa học cho việc phân loại xã
hội. Trong đó,
lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công

cụ lao động tạo thành sức sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất là một chỉnh thể thống nhất của quan hệ sở hữu (quan hệ giữa người với
người trong việc sở hữu đối với các tư liệu sản xuất của xã hội), quan hệ quản lý (quan hệ
giữa người với người trong việc tổ chức sản xuất và trao đổi hoạt động cho nhau), quan hệ
phân phối (quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm xã hội làm ra).
Các mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng với nhau trong đó quan hệ sở hữu giữ
vai trò quyết định, còn quan hệ quản lý và phân phối tác động lại rất mạnh mẽ và quan trọng
đến chế độ sở hữu.
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất.
Những quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó hình thành
nên kiến trúc thượng tầng xã hội, mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển
cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài những yếu tố cơ bản của xã hội còn có những quan hệ xã hội như quan hệ dân tộc quan hệ
gia đình v.v...
Sự vận động, phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử
do sự tác động của các qui luật khách quan chi phối.
Sự phát triển của phương thức sản xuất bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi của lực lượng
sản xuất, trước hết là từ công cụ lao động. Mỗi bước phát triển mới của lực lượng sản xuất luôn đòi
hỏi tất yếu quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi, phát triển theo để phù hợp với trình độ mới của lực


6

lượng sản xuất. Đó là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Lực lượng sản xuất là yếu tố biến đổi trước, năng động hơn.
Quan hệ sản xuất là yếu tố biến đổi sau, ổn định tương đối hơn, nó không tự biến đổi trước,
vượt lên trên lực lượng sản xuất, mà do tính tất yếu phải thay đổi để phù hợp với trình độ mới của
lực lượng sản xuất.




Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa
bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy
tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Quan hệ sản xuất sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của lực
lượng sản xuất, vì nó qui định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của
quãng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động…
Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu
hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn
đó để đưa xã hội tiến lên.
Qui luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX chỉ cho chúng ta thấy
nguồn gốc, động lực bên trong chi phối sự vận động phát triển của lịch sử xã hội lòai người bắt đầu
từ sự phát triển của LLSX tới một giới hạn nhất định nào đó làm cho QHSX vốn là hình thức phát
triển của LLSX trở nên không phù hợp và trở thành xiềng xích kiềm hãm sự phát triển của LLSX
nên bị thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với trình độ của LLSX, cứ thế lịch sử xã hội lòai
người lại bước vào một giai đoạn phát triển mới, lại bắt đầu từ sự phát triển của LLSX.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình thái
kinh tế-xã hội, chúng tác động qua lại với nhau tạo thành qui luật chi phối sự vận động và phát triển
của xã hội.
Theo triết học Mác, QHSX là những quan hệ vật chất qui định các quan hệ chính trị và tinh thần tức
là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng và qui định tính chất
của kiến trúc thượng tầng.
Tính chất mâu thuẫn trong kinh tế qui định tính chất mâu thuẫn về chính trị và tinh thần. Tính chất
giai cấp của kinh tế qui định tính chất giai cấp của kiến trúc thượng tầng. Giai cấp nào thống trị về

kinh tế cũng thống trị về mặt chính trị và tinh thần.
Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng qui định sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng.


7

Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng qui định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối và tác động
trở lại cơ sở hạ tầng, chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, xây dựng và phát
triển cơ sở hạ tầng hiện tồn tại chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng tác động bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều góc độ trực tiếp hoặc gián
tiếp.
Kiến trúc thượng tầng tác động theo hai hướng
đó là nếu tác động phù hợp với qui luật kinh tế-xã hội, với yêu cầu phát triển của LLSX thì sẽ thúc
đẩy sản xuất và xã hội phát triển;
nếu tác động không phù hợp với qui luật kinh tế-xã hội, với yêu cầu phát triển của LLSX thì
sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất và xã hội.
Sự phát triển của hình thái kinh tế-xã hội từ thấp đến cao là xu hướng chung của lịch sử còn
đối với mỗi quốc gia dân tộc cụ thể do những điều kiện cụ thể chi phối mà trong sự phát triển có thể
bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế-xã hội đó là quá trình lịch sử tự nhiên đặc thù.
Điều này đã được Lênin chỉ rõ “...Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ
sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người
ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một
quá trình lịch sử -tự nhiên”.
Đối với nước ta là một xứ thuộc địa nữa phong kiến với điểm xuất phát thấp, sản xuất
nhỏ là chủ yếu lại trãi qua chiến tranh lâu dài đó là những khó khăn cho quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta đã khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến

bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục quan điểm của các đại hội trước (kể từ sau Đại hội đổi mới) đã
chỉ rõ “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa
...”.
Đến Đại hội XI Đảng ta tiếp tục khẳng định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhất thiết
phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội đan xen.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp,
tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay


8

đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta phải nêu cao tinh thần
cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ,
vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các nhiệm vụ cơ bản sau: Một là, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và

phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là,
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Đảng ta vẫn đang khẳng định đựơc vai trò lãnh đạo tuyệt đối của mình đối với sự nghiệp
cách mạng, thẳng thắn nhìn nhận và quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm, kiên quyết đấu tranh
với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, ra sức nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của
mình. Đặc biệt Đảng ta đã nhận thức, nắm bắt chính xác xu thế khách quan của thời đại, từ đó có
đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nêu cao tinh
thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước. Vì vậy đã tiếp cận, tranh thủ và thu hút được
ngày càng nhiều và có hiệu quả các nhân tố khách quan thuận lợi của thời đại chuyển vào trong
nước để cùng với các nhân tố bên trong tạo thành tổng lực cho sự phát triển đất nước.
Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Tòan quân, toàn dân ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng; phát huy được lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động,
sáng tạo tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, với thành tựu 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức và vận dụng đúng
đắn hệ thống các quy luật khách quan về kinh tế-xã hội trong đó có mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cùng những
tiền đề khách quan và chủ quan như trên, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta hoàn
tòan có khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Kinh tế-xã hội, có sự thay
đổi cơ bản và tòan diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa


9

phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, nâng lên rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết tòan dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị-xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh
được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với nhiều triển vọng

tốt đẹp.


10

Câu 3: Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ và liên hệ
nước ta.
Theo Lênin “...giai cấp là những tập đoàn to lớn, gồm những người khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
của họ (thường thường những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác
nhau cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai
cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế-xã hội nhất
định”.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp, xã hội bao gồm những tầng lớp, giai cấp khác nhau
cùng tồn tại và phát triển tạo nên một kết cấu xã hội-giai cấp nhất định. Phương thức sản
xuất thay đổi thì kết cấu xã hội-giai cấp cũng sẽ thay đổi. Về cơ bản bất kỳ xã hội có giai
cấp nào cũng bao gồm những giai cấp cơ bản, những giai cấp không cơ bản và tầng lớp
trung gian. Trong đó, những giai cấp cơ bản là những giai cấp của chính xã hội đương thời,
đại diện cho phương thức sản xuất hiện tại. Mỗi kiểu xã hội có kết cấu xã hội giai cấp riêng,
gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau, là những giai cấp quyết định sự tồn tại, phát triển của
hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Những giai cấp không cơ bản là những giai cấp tàn dư
của phương thức sản xuất cũ và những giai cấp mầm mống của phương thức sản xuất tương
lai. Tầng lớp trung gian là những tầng lớp không đại diện cho phương thức sản xuất nào cả,
nhưng đó là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị.
Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận
khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có
đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân
làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.

Trong xã hội tư bản, đấu tranh giai cấp là tất yếu, do địa vị kinh tế của mình, lợi ích cơ bản
của người công nhân đòi hỏi phải thực hiện phân phối theo giá trị lao động. Ngược lại nhà
tư bản đòi hỏi lợi nhuận tối đa. Điều đó khiến cho lợi ích của người công nhân và nhà tư bản
trở nên đối lập, mâu thuẫn không thể giải quyết được trong chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Nhằm giải quyết mối quan hệ giai cấp giữa áp bức và bị áp bức dẫn đến giành quyền
lực. Xét về thực chất đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị. Quyền lực chính trị cao nhất
là quyền lực nhà nước, từ đó để giải quyết lợi ích kinh tế cho giai cấp mình. Cho nên mục
tiêu đấu tranh giai cấp là giải quyết lợi ích kinh tế. Nếu không giải quyết được lợi ích kinh
tế thì quyền lực chính trị dần dần sẽ mất đi. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước
ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh chống địa chủ,
phong kiến giành lại đất, giành chính quyền, thực hiện người cày có ruộng, cách mạng
thành công, dân có cơm ăn, áo mặc, dân tin vào Đảng, chính quyền vững bền.
Mặt khác, để giành quyền lực, có được nhà nước về tay mình thì không thể thực hiện
bằng những nhóm riêng lẻ, mà phải diễn ra trên quy mô giai cấp, giai cấp này chống giai
cấp kia. Cách mạng Tháng tám 1945, giai cấp công nhân, nông dân, trí thức khởi nghĩa
giành chính quyền, Đảng đã huy động toàn dân, qui mô cả nước đứng lên cướp chính quyền
thắng lợi. Hơn nữa cuộc đấu tranh giai cấp muốn đi đến thắng lợi phải được hướng dẫn bằng


11

một hệ tư tưởng. Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ ở Việt Nam ta được hướng
dẫn bằng hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo quan điểm của triết học Mác xít thì đấu tranh giai cấp là một trong những động
lực quan trọng của sự phát triển xã hội có giai cấp đối kháng. Bởi khi nói đến động lực của
sự phát triển nói chung là mâu thuẫn, ta thấy ngay quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập chính là nguồn gốc của sự phát triển. Nguồn gốc của sự phát triển xã hội cũng
vậy, nó chính là sự phát triển của sản xuất. Sự thay thế các phương thức sản xuất trong xã
hội, trong đó chính là biểu hiện của mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng tiến bộđại biểu cho lực lượng sản xuất và một bên là giai cấp thống trị-đại biểu cho quan hệ sản
xuất lỗi thời, lạc hậu đang kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, muốn thay

đổi quan hệ sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển phải đấu tranh gạt bỏ sự
cản trở của giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản
xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử, đấu tranh giai cấp có khác nhau nhưng đều xuất phát từ
kinh tế và nhằm giải quyết vấn đề kinh tế. Đấu tranh giai cấp cũng là phương tiện, là điều
kiện, mà mục đích của đấu tranh giai cấp là làm cho kinh tế phát triển và xã hội phát triển.
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất, mặc dù
nó là động lực vô cùng quan trọng. Mác và ĂngGhen đã chứng minh rằng, đỉnh cao của đấu
tranh giai cấp là cách mạng xã hội-đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế-xã hội. Ngoài đấu
tranh giai cấp ra còn nhiều động lực khác như đạo đức, tư tưởng, văn hóa, giáo dục,... Vị trí,
vai trò của mỗi động lực có khác nhau và tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế-xã hội ở mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định. Ngày nay là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản, cuộc đấu tranh giai cấp vô sản và tư sản diễn ra trong điều kiện, nội dung và
phương pháp mới. Mục tiêu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là xây dựng một
xã hội không có giai cấp!
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa nói
chung phải nhận thức rõ tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp. Đó là khi giai cấp vô sản
giành được chính quyền thì chỉ mới thắng giai cấp tư sản về mặt chính trị, trong khi giai cấp
tư sản vẫn còn lực lượng, vẫn tìm mọi cách giành lại địa vị đã mất. Vì vậy giai cấp vô sản
phải tiếp tục đấu tranh từ mục tiêu giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ
yếu là củng cố chính quyền của nhân dân lao động, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Lênin cho rằng, chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng lợi triệt để khi giai cấp công nhân
lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân xây dựng thành công phương thức sản xuất mới, tạo ra
năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội giai
cấp công nhân và nhân dân lao động còn phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và thủ
đoạn như: bao vây, cấm vận, can thiệp quân sự, “diễn biến hòa bình”...của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động trong và ngoài nước.
Trong điều kiện mới, giai cấp vô sản đã nắm được chính quyền cần phải chi phối
những lĩnh vực kinh tế lớn, đồng thời phải chịu trách nhiệm về mọi mặt đời sống xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp biểu hiện ở những nhiệm vụ mới là phải trấn áp kịp thời bọn phản

động, giữ vững chính quyền. Bên cạnh đấu tranh bằng bạo lực, cũng cần sử dụng linh hoạt
các hình thức đấu tranh mới bằng hoà bình, bằng giáo dục thuyết phục, bằng hành chính,
pháp chế và bằng kinh tế...
Trong đấu tranh giai cấp, cần khắc phục hai khuynh hướng sai lầm: Một là, chủ quan
duy ý chí, coi nhẹquy luật kinh tế khách quan, trong khi đó lại tuyệt đối hóa đấu tranh giai
cấp, nhất là tuyệt đối hóa một trong những hình thức của đấu tranh giai cấp. Hai là, cơ hội


12

hữu khuynh, mơ hồ về đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta biết rằng đấu tranh giai cấp là một quy luật phổ biến của mọi xã hội có giai
cấp. Trong giai đoạn hiện nay, ở Việt Nam đấu tranh giai cấp là một tất yếu khách quan bởi
vì: Thứ nhất là, nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế nhiều
thành phần cho nên sự tồn tại lâu dài nhiều giai cấp, tầng lớp là tất yếu. Mặc dù, có sự thống
nhất về lợi ích cơ bản lâu dài giữa các giai cấp, tầng lớp nhưng vẫn tồn tại những mâu thuẫn
về lợi ích cục bộ trong nhân dân. Do đó, mâu thuẫn không đối kháng trong nội bộ nhân dân
còn tồn tại là tất yếu. Thứ hai là, trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, bên cạnh đại đa số
nhân dân tích cực thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vẫn còn những lực lượng phản
động, thù địch trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam.
Những lực lượng này là nhân tố cản trở sự nghiệp đổi mới, trở thành đối tượng của cuộc đấu
tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
Đảng ta đã xác định đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta bao gồm những nội dung cơ bản đó là: Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém
phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng
đất nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đấu tranh giai cấp vẫn là một trong
những động lực phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, Đảng ta cũng xác
định động lực chủ yếu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay là đại đoàn kết toàn dân
tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo. Đại
đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tóm lại,
với đặc điểm tình hình giai cấp được trình bày ở trên, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những quy luật chung, phổ biến, có những đặc
thù không giống các nước khác. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đi vào thoái trào, một mặt
chúng ta không được sao nhãn nhiệm vụ an ninh quốc phòng, sẳn sàng đập tan âm mưu của
chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động chống phá thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Mặt khác phải thấy hết tính chất gay go, phức tạp, lâu dài và cực kỳ khó khăn của
sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, thắng nghèo nàn, lạc hậu, tạo tiền đề kinh
tế-xã hội cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn chiến thắng chủ nghĩa tư bản là nhiệm vụ chủ yếu
có ý nghĩa quyết định giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta tin tưởng rằng, với thành tựu 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta hoàn tòan có khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta. Kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và tòan diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh,
sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, nâng lên rõ
rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết tòan dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị-xã
hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho
đất nước tiếp tục đi lên với nhiều triển vọng tốt đẹp.


13


14


Câu 4: Lý luận, bản chất của nhà nước vô sản, liên hệ việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Theo triết học Mác-Lênin, Nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện và tồn tại gắn
liền với một giai đoạn nhất định trong sự phát triển của xã hội, đó là giai đoạn xã hội có
phân chia thành giai cấp đối kháng. Nhà nước xuất hiện do hai nguyên nhân: Một là lực
lượng sản xuất phát triển, xã hội có giai cấp, các cơ quan quản lý xã hội trước kia không còn
phù hợp nữa và để đảm bảo các công việc chung của cộng đồng, xã hội cần có một cơ quan
quản lý mới đó là nhà nước. Hai là khi giai cấp xuất hiện, mâu thuẫn về quyền lợi và cuộc
đấu tranh giữa các giai cấp diễn ra không ngừng và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà
được, để bảo vệ lợi ích giai cấp của mình, giai cấp nào mạnh hơn, có ưu thế hơn thì giai cấp
đó sẽ làm chủ về mọi mặt và để củng cố quyền lực của mình đã dẫn tới sự ra đời của Nhà
nước. Lênin chỉ ra rằng “Khi mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước
xuất hiện và ngược lại sự xuất hiện của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẩn giai
cấp là không thể điều hòa được”. Như vậy, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà
nước là từ kinh tế, từ sự phát triển của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra
đời và tồn tại của nhà nước là do có chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được.
Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp cầm quyền, là công
cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp đó, cho nên bản chất Nhà nước bao giờ cũng
mang tính giai cấp sâu sắc. Nhà nước bao giờ cũng là của một giai cấp nhất định, đó là
giai cấp thống trị về kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác được thể
hiện dưới ba loại quyền lực đó là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và quyền lực tư
tưởng, trong đó quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định nhưng bản thân nó không thể duy
trì được vai trò thống trị và đàn áp được sự phản kháng của giai cấp bị trị, vì vậy phải có
Nhà nước để củng cố và bảo vệ những quyền lực ấy. Với tính cách là nền chuyên chính
của một giai cấp này đối với giai cấp khác, Nhà nước của các giai cấp bóc lột không thể là
kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích cho các giai cấp trong xã hội. Nhà nước là một bộ máy đặc
biệt để đảm bảo và thực hiện quyền lực thống trị về kinh tế, tư tưởng, chính trị. Ngoài việc

thực hiện chức năng đó, Nhà nước còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong
xã hội, nghĩa là thực hiện chức năng xã hội. Vì vậy, Nhà nước là một hiện tượng phức tạp
và đa dạng, vừa mang bản chất giai cấp vừa mang tính xã hội. Theo bản chất đó Nhà nước
là một tổ chức của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực
hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, thực hiện những mục đích để
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Cũng có thể phân biệt chức năng của Nhà nước từ phạm vi tác động của quyền lực
Nhà nước ở tầm vĩ mô, theo đó Nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng
đối nội là duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội và các trật tự khác hiện có trong xã hội theo
pháp luật, thông qua pháp luật nhà nước bắt buộc mọi thành viên khác bằng sức mạnh
cưỡng chế phải tuân theo và sử dụng các phương tiện khác để củng cố, mở rộng ý chí của
giai cấp thống trị trong xã hội. Chức năng đối ngoại là thực hiện các quan hệ về mặt Nhà
nước đối với các nước khác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục, khoa học
kỹ thuật, an ninh, quốc phòng,…nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, quan hệ với các nước khác
vì lợi ích của quốc gia và của giai cấp thống trị đối với các nước.


15

Trong lịch sử phát triển của mình, có các kiểu Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong
kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các kiểu Nhà nước chủ nô, phong kiến,
tư sản, mỗi kiểu có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung, đều là “Nhà
nước theo đúng nghĩa” được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và là
công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân
lao động. Khác với các kiểu Nhà nước bóc lột, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là “nữa Nhà
nước” tức là Nhà nước của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội cho
tất cả công dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời và tồn tại trong thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản lên
xã hội cộng sản là tất yếu khách quan của lịch sử. Thời kỳ quá độ là thời kỳ còn tồn tại giai
cấp, còn có đấu tranh giai cấp. Đó là thời kỳ cải biến cách mạng liên tục và phức tạp để xoá

bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Để làm được việc đó thì chuyên chính của một giai cấp
cách mạng (chuyên chính vô sản) là tất yếu vừa để trấn áp kẻ thù, chống lại sự kháng cự của
giai cấp bóc lột, đập tan những âm mưu chống phá, hoạt động thù địch, vừa để tổ chức xã
hội mới, thiết lập sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản vừa thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân lao động.
Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mặc
dù vẫn mang tính giai cấp được biểu hiện qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhưng nhà
nước XHCN có cơ sở cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân là vì lợi ích của
giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Bản chất
của Nhà nước chuyên chính vô sản thực chất là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Tính nhân dân thể hiện ở toàn bộ quyền lực của nhân dân lao động. Nó dân chủ với đa
số nhân dân và chuyên chính với thiểu số kẻ thù của nhân dân.
Nhà nước XHCN lấy chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới là chức năng chủ yếu.
Đương nhiên Nhà nước XHCN cũng có chức năng trấn áp giai cấp bóc lột, các lực lượng
thù địch của nhân dân nhưng chức năng xây dựng là chủ yếu vì có tổ chức xây dựng thành
công xã hội mới, mới bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và triệt để của CNXH. Mặt khác, nhà
nước vô sản còn nắm các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, vì vậy phải tổ chức xây dựng
từ góc đến ngọn, từ lực lượng SX đến quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Chức năng
tổ chức xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ và đầy khó khăn phức tạp do đó
đòi hỏi tính năng động sáng tạo.
Sự tồn tại của Nhà nước XHCN cũng chỉ là quá độ đi đến thủ tiêu vì Nhà nước vô
sản (Nhà nước XHCN ) là Nhà nước đặc biệt “Nhà nước tự tiêu vong”. Sự tiêu vong không
phải là quá trình giảm vai trò và hiệu lực của Nhà nước mà là quá trình tăng cường và hoàn
thiện không ngừng Nhà nước, tăng cường và hoàn thiện chế độ dân chủ là điều kiện để Nhà
nước tiêu vong.
Đối với nước ta, việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa là vấn đề hết sức quan
trọng, là đòi hỏi khách quan trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội bởi vì vấn đề chính
quyền luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được
quyền làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, khi có một
Nhà nước thực sự vững mạnh.

Hệ thống chính trị của nước ta bao gồm Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước XHCN
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội. Mỗi thành phần trong
hệ thống chính trị có vai trò riêng của mình trong sự nghiệp cách mạng nhưng trong đó Nhà
nước luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.


16

Nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng-thời gian qua bên cạnh những việc đã làm được
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhà nước ta cũng còn những thiếu sót, những nhược điểm
của một Nhà nước ở thời kỳ quá độ. Tính quá độ đó thể hiện qua sự “yếu kém”, “bất cập”
trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta trước thời kỳ đổi mới.

Trong công tác tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ,
chậm đổi mới công tác cán bộ. Bố trí cán bộ theo quan niệm củ kỹ, nặng tính hình thức,
thiên về nhiệt tình cách mạng, coi nhẹ tri thức khoa học. Trong bộ máy Đảng và Nhà nước
còn thể hiện thiếu dân chủ như chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân,
phong cách và lề lối làm việc mang nặng tính quan liêu lời nói không đi đôi với việc làm.
Việc chỉ đạo điều hành thường không tập trung thiếu nhất quán, nhiều Đảng bộ và cấp uỷ vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhiều nơi xảy ra hiện tượng Đảng bao biện làm thay
công việc của nhà nước. Bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể phình ra quá lớn,
chồng chéo và kém hiệu quả. Công tác giáo dục quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ,
công tác đào tạo bồi dưỡng trình độ LLCT, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên
không đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ mới, thậm chí có một số cán bộ đảng viên thoái hoá
biến chất.
Những khuyết điểm trên đây làm suy yếu năng lực, sức sống của hệ thống chính trị
XHCN ở nước ta, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng-quần chúng bị tổn thương.
Trước tình hình đó đòi hỏi tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị. Một trong những
nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được Đảng ta xác định:

Thứ nhất là, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng
lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan
hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị
trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo phục vụ nhân dân, bảo
đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể
chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ hai là, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc
hội để cử tri lựa chọn và bầu những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành
chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực hiệu quả; tổ chức tinh gọn
và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng
lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh.
Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất
lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ


17

và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong
phạm vi được phân cấp.
Thứ ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có

chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có
cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy
tín với nhân dân.
Thứ tư là, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí, là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Chú trọng các biện pháp phòng
ngừa tham nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính
trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước. Thực
hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy
định. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán
bộ, công chức để góp phần phòng chống tham nhũng.

Tóm lại, bằng việc thực hiện tổng hợp và đồng bộ những nhiệm vụ đó chúng ta chắc
chắn sẽ đạt được bước tiến căn bản trong việc hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam mà Đại Hội XI của Đảng đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”.


18

Câu 5: Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, liên hệ nước ta hiện
nay.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những quy
luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, nhận thức đúng
đắn bản chất của ý thức xã hội và sự chuyển hóa từ tư tưởng thành hiện thực trong đời sống
xã hội có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu lịch sử xã hội loài người. Trên cơ sở nghiên cứu,
vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong phương hướng
đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát
triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội”.
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trước hết sinh hoạt vật chất của xã hội phương thức sản
xuất (bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Sinh hoạt vật chất của xã hội còn
bao gồm những sinh hoạt vật chất khác như trao đổi, tiêu dùng hàng ngày, kế thừa tài sản...
Điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm điều kiện tự nhiên xung quanh, hoàn cảnh
địa lý, dân số và mật độ dân số…Trong các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương thức
SX là nhân tố cơ bản vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý thức xã hội và nó
làm thay đổi ý nghĩa của hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan
điểm tư tưởng lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền thống…phản
ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.
Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông
thường và ý thức lý luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa học, trí tuệ của ý thức
thông thường). Nói cách khác, ý thức xã hội biểu hiện qua tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác
nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định nên ý thức xã hội
cũng có tính giai cấp, nghĩa là mỗi giai cấp đều có những quan điểm, tư tưởng và tâm lý
riêng, không có ý thức chung cho mọi giai cấp mà chỉ có ý thức chung cho một giai cấp nhất
định. Hệ tư tưởng thống trị trong mỗi thời đại là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh
tế. Giai cấp thống trị luôn tìm cách hạn chế ý thức của giai cấp bị trị và truyền bá ý thức của
giai cấp hình thành xã hội.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, tồn tại xã hội giữ
vai trò quyết định đến nội dung, khuynh hướng phát triển của ý thức xã hội, ý thức xã hội là
sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ý thức xã hội do tồn tại xã hội
sinh ra, nội dung của nó là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội tác
động đến nhận thức của chủ thể thì hình thành những quan điểm, tư tưởng, nhận định và
thái độ của chủ thể. Sự phản ánh của ý thức xã hội bao giờ cũng xuyên qua một mắt khâu là
lợi ích, trong xã hội có giai cấp đó là lợi ích của giai cấp. Xem xét nội dung của ý thức xã
hội phải gắn chặt chẽ với quan hệ lợi ích. Mặt khác, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã

hội nhưng không phải bất cứ tư tưởng nào, một hình thức ý thức xã hội nào cũng phản ánh
rõ ràng và trực tiếp các quan hệ kinh tế của thời đại mà nó có thể là phản ánh trực tiếp hoặc
gián tiếp qua khâu trung gian, nhưng xét đến cùng bằng cách này hay cách khác nó vẫn
phản ánh các quan hệ kinh tế của thời đại. Tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức
xã hội còn thể hiện khi tồn tại xã hội-nhất là phương thức sản xuất-biến đổi thì ý thức xã hội


19

(những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, văn hóa, nghệ thuật…) sớm muộn sẽ biến đổi theo. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh
các thời đại khác nhau có những tư tưởng khác nhau đều bắt nguồn từ sự khác nhau của cơ
sở kinh tế và sự thay đổi, phát triển của ý thức xã hội trước hết là xuất phát từ sự thay đổi và
phát triển của phương thức sản xuất.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa
duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như là một yếu tố thụ động trái lại còn tác động
tích cực, sáng tạo của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội, nghĩa là tuy bị tồn tại xã hội quy định nhưng ý thức xã hội lại
vừa có tính quy luật, lôgíc phát triển riêng. Sự thống nhất giữa chức năng phản ánh và chức
năng sáng tạo tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội biểu hiện ở chỗ ý thức xã hội
vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự phát triển của tồn tại xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội thường xảy ra khi ý thức xã hội không phản ánh kịp
thời sự vận động, phát triển của đời sống xã hội bởi vì ý thức xã hội chỉ là cái phản ánh
được sinh ra từ tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội thì gắn trực tiếp với hoạt động thực tiễn nên
thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu của ý thức xã hội còn thể hiện ở những tư tưởng và
đặc biệt là tâm lý của xã hội cũ còn rơi rớt lại vẫn tồn tại dai dẳng sau khi tồn tại xã hội đã
thay đổi, bởi vì những tư tưởng, tâm lý một khi đã ăn sâu vào đời sống xã hội và trở thành
lối sống, nếp nghĩ phong tục, tập quán, thói quen thì nó có tính ổn định tương đối và tồn tại
lâu hơn, không dễ mất đi ngay. Mặt khác, các giai cấp lỗi thời, phản động cũng tìm cách duy
trì những tư tưởng cũ nhằm phục vụ lợi ích của chúng, Lênin nói rằng: “Một người bệnh

chết đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh nhưng một xã hội mất đi ta không thể đem
chôn cùng những căn bệnh của nó được mà những căn bệnh này rữa ra xâm nhập vào
những con người đang sống”.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học
Mác đồng thời cũng thừa nhận rằng trong những điều kiện vật chất nhất định, tư tưởng của
con người đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của
tồn tại xã hội, phản ánh đúng quy luật vận động và phát triển của tồn tại xã hội. Từ đó đưa
ra các dự báo tương lai một cách khoa học, giúp con người xác định được mục tiêu và lựa
chọn những giải pháp, định hướng cho việc tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại
xã hội, dự kiến được quá trình khách quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa là
trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng
khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh chính xác, sâu sắc mối quan hệ
tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội của một thời đại bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất của thời đại
đó, đồng thời là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế hệ trước đó tích lũy được.
Quan hệ kế thừa nói lên sự phát triển liên tục về tư duy giữa các thế hệ, tuy nhiên nó không
kế thừa máy móc mà trên cơ sở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là biện chứng của sự phát triển
của ý thức xã hội, nội dung xuất phát từ quan hệ về lợi ích và nhu cầu của giai cấp chi phối.
Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức thì không những phải vạch
ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều
kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử và phải kế


20

thừa, phát huy những giá trị tinh thần tiến bộ của dân tộc và nhân loại. Tuy nhiên, xét đến
cùng thì tồn tại xã hội vẫn quyết định nội dung và khuynh hướng của sự kế thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái ý thức xã hội đều phản ánh tồn tại

xã hội với những đặc trưng riêng và giữ chức năng xã hội khác nhau, không thể thay thế cho
nhau nhưng lại tồn tại trong sự liên hệ tác động xâm nhập vào nhau, làm cho mỗi hình thái ý
thức xã hội có những mặt, những tính chất bị ảnh hưởng bởi hình thái khác. Trong sự ảnh
hưởng, tác động lẫn nhau đó thì tuỳ điều kiện cụ thể mà một hình thái nào đó có ảnh hưởng
lớn hơn nhưng ở xã hội hiện đại thì ý thức chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Do đó trong
quá trình xây dựng ý thức xã hội mới phải phát triển hài hòa và đồng bộ tất cả các hình thái
ý thức xã hội tránh mâu thuẩn đối lập nhau.
Sự tác động ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra hai khuynh hướng khác nhau.
Những tư tưởng khoa học và tiến bộ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại những tư
tưởng lạc hậu, phản động thì cản trở sự phát triển của xã hội. Tính chất và hiệu quả tác động
trở lại của ý thức xã hội phụ thuộc vào các yếu tố vai trò lịch sử của giai cấp chủ thể của tư
tưởng, trình độ phù hợp của ý thức đối với hiện thực và mức độ truyền bá, xâm nhập của tư
tưởng cả bề rộng lẫn bề sâu trong quần chúng nhân dân. Sự tác động của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội không phải là trực tiếp biến đổi tồn tại xã hội mà nó tác động thông qua
hoạt động của con người, ý thức xã hội vạch ra nội dung vận động và phát triển của tồn tại
xã hội, từ đó xác định đúng đắn các mục tiêu và lựa chọn các biện pháp tối ưu đồng thời
hướng dẫn hoạt động cải tạo.

Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng
cũ vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân
hiện nay vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều
hướng phát triển của xã hội, là nguyên tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất
nước. Tính tích cực năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh
vực xã hội, được phát huy tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, lòng yêu nước ý thức tự
hào tự tôn dân tộc truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp tục giữ gìn
và phát huy. Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị
trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhưng mặt
khác nó lại vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội
đặc biệt là về tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó những hạn chế mơ hồ về tư tưởng,
nhận thức và tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái về

nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộĐảng viên chưa được ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút phẩm chất
đạo đức tệ quan liêu tham nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có
chiều hướng phát triển. Những mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của
Đảng, của chế độ.
Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao tính chất đạo đức cách mạng và mục
tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hóa mới


21

và con người mới XHCN. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công
dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình có tinh thần quốc tế
chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của
xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.
Trong công cuộc tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa, xây dựng con người mới và nền
văn hóa mới, ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn minh, những di
sản quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại đồng
thời cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai cấp trong việc kế
thừa di sản để lại.
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế
gắn liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp
nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ
hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề
vật chất cho việc xử lý các vấn đề xã hội. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải
quyết được tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi.

Trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ
và khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào tạo,
chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư
tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm
lo việc thực hiện phân phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu
cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo
phong trào đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương
thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa chống tham nhũng, bất công xã hội
nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái làm việc đủ
sống và nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Tóm lại, chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh
tế nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu, do vậy
chúng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đảng đã xác
định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và phát triển mạnh
mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều kiện đảm bảo sự thành công và bền
vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


22

Câu 6: Quan niệm mác xít về con người và vận dụng vào việc phát huy nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước ta hiện nay, con người
đóng một vai trò quan trọng, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực để thúc đẩy sự phát triển
đất nước và quyết định sự thành bại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất
nuớc ta. Để khẳng định tầm quan trọng đó trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)-Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng

định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Mác vấn đề bản chất con người
vẫn chưa được giải đáp một cách khoa học. Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con
người từ sự sáng tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức trừu tượng (chủ nghĩa duy
tâm tôn giáo) hoặc từ giác độ sinh vật thuần tuý tự nhiên không phân biệt được con người
với tính tầm thường của động vật (chủ nghĩa duy tâm siêu hình).
Theo quan điểm triết học Mác xít, bản chất con người được lý giải một cách khoa
học, toàn diện, triệt để và mang tính nhân văn sâu sắc. Quan niệm này cho rằng con người là
khái niệm triết học dùng để chỉ những cá thể phát triển trong một chỉnh thể thống nhất giữa
mặt sinh vật và mặt xã hội.
Về mặt sinh vật, con người là một chỉnh thể sống là một bộ phận của giống tự nhiên
và chịu sự chi phối của các quy luật sinh học tự nhiên, hoạt động động của con người phụ
thuộc không ít vào chất lượng cơ thể sinh vật tự nhiên. Khi nói con người là một thực thể
sinh học, điều đó có nghĩa là con người là kết quả của sự tiến hóa lâu dài của sự hữu sinh,
con người cũng chịu sự tác động và qui định của những quy luật tự nhiên, của những quy
luật sinh học. Tuy nhiên đó chưa phải là con người theo đúng nghĩa của nó.
Tính xã hội của con người được biểu hiện qua toàn bộ nội dung sống, hoạt động
giao tiếp ứng xử của con người đều mang tính xã hội. Mặt xã hội không phải là sản phẩm
của tổ chức tự nhiên mà theo Mác là sản phẩm của những điều kiện vây quanh con người
suốt cả cuộc đời, nghĩa là nó được hình thành nhờ con người tham gia vào hình thành các
quan hệ xã hội từ khả năng lao động đến những hoạt động ứng xử với thế giới và với người
khác, từ ngôn ngữ đến tư duy ý thức đều được hình thành nhờ con người tham gia vào hệ
thống các quan hệ xã hội. Mặt xã hội làm cho con người trở thành đúng với tư cách là con
người.
Cơ sở của mặt xã hội của con người là lao động. Lao động là hoạt động cơ bản phát
triển của con người và chính nhờ lao động con người mới trở thành người. Trong lao động,
con người phải quan hệ với tự nhiên, cải tạo chinh phục thế giới tự nhiên, bắt tự nhiên phục
vụ con người. Đây là nội dung xã hội của con người, không thể có ở con vật và cũng chính
nhờ quan hệ với tự nhiên như vậy con người đã dần dần tách khỏi giới tự nhiên. Con người

còn lao động vì mục đích xã hội vì nhu cầu của xã hội. Vì vậy tất yếu hình thành mối quan
hệ giữa người với người trong lao động. Quan hệ này là cơ sở để hình thành hàng loạt các
quan hệ xã hội khác. Đây cũng là nội dung xã hội của con người. Mặt khác lao động còn
sáng tạo ra chính bản thân con người, ngôn ngữ, tư duy, ý thức đều được hình thành trong
chính quá trình lao động. Như vậy bản chất của con người là mang đậm dấu ấn của lao động
và đã qui định bản chất xã hội của con người trong đó, quyết định cái xã hội trong con
người.


23

Về bản chất của con người, theo Mác “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”, ý muốn nhấn mạnh về mặt xã hội, con người
hiện thực là con người đang sống tồn tại với nội dung văn hóa tôn giáo … của nó. Tổng hoà
các quan hệ xã hội tạo thành bản chất con người phát triển nhưng trong các quan hệ xã hội
thì quan hệ sản xuất là cơ bản. Ở xã hội có giai cấp con người còn mang bản chất giai cấp.
Khi xem xét con người và các quan hệ xã hội của con người phải đặt con người hiện thực
trong hiện thực con người để tiếp cận.
Với quan điểm khoa học coi con người là một thực thể sinh vật-xã hội, triết học Mác
đã khắc phục được cả hai khuynh hướng sai lầm trong vấn đề con người hoặc là đề cao mặt
tự nhiên không thấy vai trò quyết định của mặt XH, hoặc là giản đơn con người, tuyệt đối
hoá nguồn gốc duy tâm XH, không thấy được tiền đề tự nhiên-mặt sinh vật của con người.
Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và XH là vấn đề có vị trí quan trọng
đặc biệt trong học thuyết Mác; là mối quan hệ biện chứng, mang tính tất yếu khách quan,
vừa là tiền đề vừa là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của XH và cá nhân. Cơ sở của
mối quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn tại trong các mối quan hệ XH,
ngược lại sự phát triển của XH được đánh dấu bằng sự trưởng thành của mỗi cá nhân. Môi
trường XH có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển hoặc có thể làm tha hóa sự phát triển
của con người. Hoàn cảnh XH, quan hệ XH tạo nên bản chất con người. Tuy nhiên điều đó
không phải là con người thụ động trước sự tác độngcủa hoàn cảnh và tiếp nhận nó một cách

có ý thức. Con người có thể làm chủ trước hoàn cảnh và có khả năng tác động lại hoàn cảnh,
cải tiến nó phù hợp hơn với nhu cầu của con người. Vì thế cá nhân có vai trò thúc đẩy XH
phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới XH tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nhân
cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, phẩm chất tốt, tài năng cao và con người trách
nhiệm cao với XH thì có tác dụng tích cực đến XH. Ngược lại, những cá nhân bị suy thoái
về nhân cách thì gây hậu quả xấu đến XH, trở thành gánh nặng cho XH.
Cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của XH. Sự phát triển của cá nhân góp phần
thúc đẩy tiến độ XH phát triển. Xã hội càng phát triển thì mỗi cá nhân lại tiếp nhận được
ngày càng nhiều những giá trị vật chất, tinh thần do XH ấy đáp ứng. Thoả mãn nhu cầu
chính đáng của cá nhân là động lực liên kết mọi thành viên XH và là mục đích của sự liên
kết đó. Cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và XH chỉ có thể phát triển tốt đẹp khi quan hệ
lợi ích được giải quyết một cách hài hoà. Tùy theo trình độ phát triển của nền SX XH và
tính chất của chế độ XH cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích mà mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân và XH được giải quyết một cách khác nhau. Bảo đảm công
bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, phát huy nhân tố con người, lấy việc
phục vụ lợi ích con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động và là một nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây dựng và đổi mới XH ta hiện
nay.
Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề con người, trong mục tiêu, phương hướng
của sự nghiệp đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, trong nhiều văn kiện Đại hội Đảng
từ giai đoạn đổi mới đến nay Đảng ta luôn xác định mục tiêu là phải xây dựng con người
Việt Nam có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Từ nhận thức trên, Đảng và Nhà nước ta đã xác định và cụ thể hóa trong việc thực
hiện nhất quán đường lối kinh tế là sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN, đây là quá trình để giải phóng sức SX, khơi dậy mọi tiềm
năng, động viên và từng bước tạo ra môi trường, điều kiện để mỗi con người có thể phát huy


24


khả năng lao động, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Mục đích của cơ chế thị
trường định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển KT để XD cơ sở vật chất kỹ thuật
của CNXH nâng cao đời sống nhân dân và tăng trưởng KT gắn liền với tiến bộ XH. Như
vậy, bằng việc tạo điều kiện cho nhiều thành phần kinh tế phát triển, Đảng ta đã thừa nhận
giá trị của cá nhân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trong công
cuộc đổi mới, Đảng ta yêu cầu mỗi cá nhân cống hiến thật nhiều trí tuệ sức lực cho sự
nghiệp phát triển đất nước, đồng thời cũng đòi hỏi xã hội phải tôn trọng quyền lợi, nguyện
vọng chính đáng, năng lực sở thích của mỗi cá nhân.
Với việc phát triển nhiều thành phần kinh tế, mỗi cá nhân hoặc mỗi thành phần kinh
tế đều có quyền chọn lựa cho mình một hình thức sản xuất kinh doanh phù hợp (tổ hợp tác,
hợp tác xã, kinh tế trang trại, công ty cổ phần, liên doanh...). Như vậy, trong chế độ XHCN
với tính chất ưu việt của chế độ, cùng với những thành tựu khoa học kỹ thuật là điều kiện
thuận lợi để mọi người tự do phát triển năng lực của mình. Nhất là trong cơ chế mới, mọi
người được tự do kinh doanh theo pháp luật. Đó là điều kiện để mỗi người phát huy khả
năng của mình làm giàu cho chính mình và làm giàu cho đất nước.

Trong giai đoạn quá độ hiện nay, do có sự khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho mọi người dân đều có thể “làm theo năng lực” nên việc tăng trưởng kinh tế tất yếu sẽ
dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Chúng ta chấp nhận vẫn còn “bóc lột”
trong giai đoạn quá độ này nhưng để hạn chế nó, thực hiện công bằng xã hội, phải thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền và bảo đảm tiến bộ, công bằng, xã hội ngay trong từng bước
phát triển.
Như vậy, mục tiêu “hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.” được thể hiện qua chủ trương, chính sách của
Đảng ở khâu phân phối TLSX và khâu phân phối kết quả SX, ở việc tạo điều kiện cho mọi
người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình, khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoản cách về trình độ phát triển, về mức
sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, các tầng lớp dân cư .Từng bước hoàn thiện và thực

hiện tốt các chính sách bảo đảm XH và hoà nhập XH. Bảo đảm XH là chăm lo, giúp đỡ để
bảo đảm cuộc sống của mọi cá nhân và cộng đồng XH trong điều kiện KT thị trường, Nhà
nước cần quan tâm đến các đối tượng chính sách và gia đình có công với nước. Hoà nhập
XH là giúp giảm nhẹ khó khăn của các gia đình và cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ
những người tàn tật, trẻ em mồ côi, nạn nhân chiến tranh, để những người này có cuộc sống
vật chất và tinh thần phù hợp với điều kiện của cộng đồng.
Tiền đề để thực hiện chính sách xã hội là phát triển kinh tế, Phát triển kinh tế là điều
kiện vật chất, là cơ sở ban đầu cho việc XD và thực hiện các chính sách XH. Ngược lại,
những chính sách XH đúng đắn tạo ra sự ổn định và tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế
vững chắc.
Bên cạnh việc chăm lo lợi ích chính đáng của người lao động, một trong những chủ
trương lớn của Đảng nữa là bồi dưỡng phát huy nhân tố con người là không ngừng gia tăng
tính tự giác, năng lực, tự chủ phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân kết hợp với sức
mạnh của cả cộng đồng, để có những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về


25

chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã
hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cùng với khoa học công nghệ,
giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và có nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tạo động lực và
đòn bẩy thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế-xã hội.
Tóm lại , khẳng định của Đảng về mục tiêu phấn đấu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là để “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân.” đã thể hiện sự nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm Mácxít về con người của
Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế của nước ta và trên cơ sở nhận thức đúng
đắn Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách hợp lòng dân, tạo động lực to
lớn thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng phát triển nhanh và bền vững.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×