Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

PHƯƠNG PHÁP SOẠN VÀ DẠY TIẾT LUYỆN NÓI TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 9.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.43 KB, 31 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TP BUÔN MA THUỘT
TRƯỜNG THCS TRƯNG VƯƠNG

MỤC LỤC
TT
1

2

3

--- góg--NỘI DUNG
PHẦN MỘT
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN HAI
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận của đề tài.
2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
3. Thực trạng vấn đề:
a. Thuận lợi - khó khăn
b. Thành công và hạn chế.


c. Mặt mạnh - mặt yếu.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
4. Giải pháp thực hiện:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện
pháp
c. Điều kiện thực hiện giải pháp
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu.
5. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị của
vấn đề nghiên cứu.
PHẦN BA:
III/ PHẦN KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị

TRANG
Trang 2
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13

Trang 14
Trang 22
Trang 22
Trang 23
Trang 24

Trang 25
Trang 26


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TP BUÔN MA THUỘT
TRƯỜNG THCS TRƯNG VƯƠNG
---- góg---SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: PHƯƠNG PHÁP SOẠN VÀ DẠY TIẾT LUYỆN NÓI
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 9.
PHẦN MỘT:
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây ngành Giáo dục và Đào tạo luôn coi trọng vấn đề đổi
mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá cũng như đẩy mạnh các yêu
cầu trong học tập và các hoạt động giáo dục toàn diện cho học sinh.
Để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này đồng thời thực hiện một trong những
phương pháp đổi mới là phương pháp dạy học theo hướng tích hợp rèn luyện các kĩ
năng cho học sinh .
Cùng với sự đổi mới ấy thì giáo viên THCS trong cả nước nói chung, ở các

trường trong tỉnh, trong huyện đã được tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ về đổi mới phương pháp dạy học do Sở, Phòng giáo dục và đào tạo tổ
chức, nội dung triển khai một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới theo quan điểm
dạy học tích hợp giáo dục các kĩ năng thực hành cho học sinh.
Theo quan điểm dạy học tích hợp, việc tích hợp dạy kiến thức Ngữ văn với rèn
luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là rất quan trọng. Nghe và đọc là hoạt động tiếp
nhận thông tin còn nói và viết là hai kĩ năng truyền đạt thông tin.
Nói thành lời thì dễ nhưng nói thế nào để mang tính thuyết phục đối với người
nghe thì càng khó hơn vì thế mà việc dạy luyện nói cho học sinh trong nhà trường
xuất phát từ những yêu cầu chung đó. Qua kỹ năng nói hình thành năng lực cảm thụ,
năng lực bộc lộ, biểu đạt tư tưởng, tình cảm bằng ngôn ngữ nói, từ đó học sinh quan
tâm hơn đến việc hình thành năng lực nói và năng lực làm văn.
Một trong những phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp bản thân tôi
cảm nhận được qua quá trình giảng dạy và tích lũy kinh nghiệm thì dạy học văn
không chỉ giúp học sinh cảm thụ văn chương qua cảm xúc, từ cảm xúc ấy viết ra từng
trang giấy mà với mong muốn cao hơn của môi trường giáo dục hiện nay đó là khả
năng cảm nhận và rèn luyện kĩ năng nói.
Theo cá nhân tôi dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kĩ năng nói là một trong
những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ
thông, nội dung của quan điểm này là lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe,
nói, đọc, viết cho người học.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp tích cực “Thầy chủ đạo

học trò chủ động” đã làm cho giờ học sôi nổi hơn, giáo viên thoải mái hơn so với
trước đây: Thầy đọc, trò chép, trò thụ động tiếp thu kiến thức.
Trong thực tế trước kia và cả bây giờ, dù đã đổi mới nhiều nhưng chỉ chủ yếu ở
các phân môn: Văn học và tiếng Việt còn tập làm văn, đặc biệt là các giờ thực hành,
luyện nói trong giờ tập làm văn tính chủ động của học sinh vẫn còn ít. Đặc biệt hơn
trong các tiết luyện nói, mặc dù có chú trọng 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học
sinh, song hầu như kĩ năng nói của học sinh còn rất yếu. Chính vì vậy mà cứ đến tiết
luyện nói là các em rất lo lắng, băn khoăn, rụt rè, chỉ sợ mình bị thầy cô giáo gọi lên
nói trước lớp.
Mặt khác, trong các giờ chuyên đề hoặc thi giáo viên dạy giỏi các cấp, thường
không đề cập tới tiết luyện nói.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế và qua quá trình giảng dạy của bản thân tôi từ
trước đến nay thì chưa có trường nào, giáo viên nào đưa ra một mẫu chung của một
tiết dạy hay một tiết giáo án luyện nói nhưng với niềm mong muốn chia sẽ tôi mạnh
dạn quyết định nghiên cứu và đưa ra những ý tưởng nho nhỏ của mình qua quá trình
áp dụng phương pháp dạy tiết luyện nói trong ngữ văn lớp 9 và cụ thể là:
“Phương pháp soạn và dạy tiết luyện nói trong phân môn tập làm văn lớp 9”
Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn theo chiều hướng của một cá nhân về
một vấn đề có lẽ không tránh khỏi thiếu sót.
Kính mong hội đồng thẩm định sáng kiến trường THCS Trưng Vương, phòng
giáo dục và đào tạo TP Buôn Ma Thuột và hội đồng thẩm định UBND TP và bạn bè
đồng nghiệp góp ý để đề tài này của tôi hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -


2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
a. Mục tiêu chung của đề tài:
Mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn và đăc biệt phương pháp dạy kĩ năng nói
trong bộ môn là hình thành những con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp,
có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ và đặc biệt là có khả năng thích ứng
với cuộc sống năng động trong xã hội hiện đại từ đó vận dụng khả năng diễn ngôn của
mình một cách lưu loát, mạch lạc.
Nghiên cứu góp một ý kiến nhỏ vào việc đổi mới phương pháp và nâng cao
chất lượng giảng dạy tiết luyện nói trong phân môn tập làm văn ở lớp 9 nói riêng và
phân môn Ngữ văn THCS nói chung.
b. Nhiệm vụ của đề tài:
Đưa ra những kinh nghiệm, sáng kiến của bản thân đã đúc rút qua quá trình áp
dụng theo các phương pháp trong khi dạy tiết luyện nói trong phân môn tập làm văn
lớp 9.
Tham vọng hơn là được áp dụng cho tất cả tiết luyện nói trong phân môn tập
làm văn THCS. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chất lượng và kết quả của môn Ngữ văn
trong các năm tới.
Với đề tài này không những giúp học sinh nắm vững và chắc các kiến thức về
các kiểu bài tập làm văn trong chương trình mà qua đó còn rèn cho học sinh hình
thành 4 kĩ năng cơ bản nghe, đọc, nói, viết, đặc biệt là kĩ năng nói.
Học sinh từ chỗ còn lo lắng, rụt rè, nói còn ngập ngừng vấp váp đến chỗ nói tốt
hơn, lưu loát, ngừng nghỉ đúng chỗ, hơn nữa nói có kết hợp với ánh mắt cử chỉ, thái
độ, tình cảm.
Không những thế, qua tiết luyện nói còn phát hiện được chỗ yếu của học sinh,
giúp học sinh khắc phục được những điểm yếu để viết tốt bài tập làm văn...Từ đó có
thể rèn luyện cho học sinh khả năng thể hiện, bộc lộ, giao tiếp của mình trong nhà
trường và ngoài xã hội góp phần nâng cao chất lượng bộ môn cũng như chất lượng
chung của toàn trường.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng là học sinh khối lớp 9 cụ thể

- Lớp 9A Năm học 2011 - 2012.
- Lớp 9B Năm học 2012 - 2013.
Trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai – TP Buôn Ma Thuột - Tỉnh Đắk Lắk.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Phân môn tập làm văn trong chương trình Ngữ văn
lớp 9.
- Việc vận dụng các phương pháp trong quá trình dạy tiết luyện nói trong phân
môn tập làm văn 9.
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 9 trường THCS Nguyễn Thị Minh
Khai.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

5. Phương pháp nghiên cứu:
- Với quá trình giảng dạy ở môn Ngữ văn 9, vừa tiếp thu học hỏi, vừa thâm nhập
thực tế qua những giờ lên lớp dạy bộ môn Ngữ Văn ở các khối lớp, bản thân tôi tự
học hỏi đồng nghiệp trong và ngoài trường tìm phương pháp để phát huy có hiệu quả
tiết dạy, chủ yếu chú trọng tiết luyện nói.
-Từ tình hình học tập của học sinh qua các tiết luyện nói, qua ý kiến của đồng
nghiệp, hoạt động của nhóm chuyên môn.
- Nghiên cứu một số chuyên đề về công tác đổi mới phương pháp dạyhọc.
- Khai thác các thế mạnh của học sinh trong quá trình vận dụng phương pháp dạy
tiết luyện nói.
- Học hỏi, lắng nghe ý kiến của bạn bè đồng nghiệp qua quá trình bản thân dạy, dự
giờ 1tiết luyện nói và tổ chức chuyên đề “Phương pháp dạy một tiết luyện nói
trong phân môn ngữ văn 9” Tại trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai năm học

2009-2010 tại lớp 9A.
Từ đó, tôi đúc kết kinh nghiệm và trong điều kiện cho phép xin mạnh dạn để viết
lên sáng kiến nhỏ này.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

PHẦN HAI:
PHẦN NỘI DUNG
1a. Cơ sở lí luận của đề tài.
Như chúng ta đã biết môn Ngữ văn có đặc thù riêng là chia làm 3 phân môn là:
Văn học, tiếng Việt và tập làm văn. Tuy có chung mục đích là giáo dục thẩm mĩ, rèn
luyện cho học sinh kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết nhưng chúng có vị trí tương đối độc
lập bởi mục tiêu riêng biệt của từng phân môn. Theo đó ba phân môn có những nhận
thức khác biệt, do đó cũng có phương pháp dạy học đặc thù.
Với môn Ngữ văn 9 vì đã trải qua một quá trình rèn luyện và sử dụng thành thạo
tiếng Việt với bốn kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết qua đó mà đến năm lớp 9 này
thì giáo viên có thể hình thành mức độ tư duy cho học sinh có hiểu biết nhất định về
tri thức ngôn ngữ, kĩ năng riêng để các em có ý thức vận dụng đúng đắn và làm trong
sáng ngôn ngữ của ta.
Trên cơ sở đó mà làm cho các em yêu quí môn Ngữ văn hơn, say mê hơn trong
quá trình học. Trước tình hình đó, đòi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải không
ngừng đổi mới, cải tiến nội dung, phương pháp soạn giảng để trong mỗi tiết dạy, học
sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ
nhiều hơn trên con đường chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người thầy.
Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng.

Vì đây là môn học vừa mang tính công cụ, vừa là môn học mang tính nghệ thuật, lại
là môn học mang tính nhân văn rất cao.
Bởi vậy, để học sinh học tốt môn Ngữ Văn ở trường phổ thông nói chung, người
giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu
và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa
học sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như thế
mới đáp ứng được yêu cầu của môn học mang đậm tính nhân văn này.
Đặc biệt hơn là trong quá trình dạy người thầy phải chú ý đến kĩ năng luyện
ngôn ngữ cho học sinh vì ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, tồn tại và phát
triển theo sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người.
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức
và giao tiếp hữu hiệu nhất của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con người mới có
phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình, để giao tiếp và hợp tác với
nhau…
Vì thế tiết “Luyện nói” là một tiết học vô cùng quan trọng đối với học sinh
THCS. Qua tiết luyện nói giáo viên luyện cho học sinh biết vận dụng từ ngữ và các
quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính
xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa giáo viên còn rèn luyện cho học sinh các mặt cụ thể


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

về lời nói (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói (phải vừa nghe, vừa cố gắng truyền cảm) và
tư thế nói (phải mạnh dạn, tự tin giúp cho lời nói có sức thuyết phục hơn).
Nói năng tốt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các em không chỉ trong thời
gian học tập ở trường mà còn trong suốt thời gian sống và làm việc sau này.
Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc khó, nhưng dù khó thế nào, yêu

cầu kĩ năng nói cũng phải luôn luôn được coi trọng. Nếu như nghe và đọc là hai kĩ
năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kĩ năng quan
trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong
nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường là giúp cho học sinh có thói quen nói trong những
môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách hệ thống, theo những
chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.
Nói đến sự phát triển của xã hội không thể không nói đến vai trò đặc biệt quan
trọng của ngôn ngữ.
Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp.
Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn
ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình
thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết.
Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá
chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự mình bộc lộ sự hiểu
biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngôn bản.
Muốn cho người nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là
nói phải mạch lạc, logic, phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử
chỉ, nét mặt, âm lượng…
Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy - học văn, là biện
pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn.
Luyện nói tốt sẽ giúp người học sẽ có được một công cụ giao tiếp hiệu quả
trong cuộc sống xã hội.
1.b Cơ sở thực tiễn của đề tài:
Tục ngữ có câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở. Không ngẫu nhiên mà
“học nói” được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Điều này cho thấy nói cũng là một
kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Trên thực tế, việc dạy học môn Ngữ
văn hiện nay rất coi trọng cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết nhưng bản thân tôi trong
thực tế giảng dạy ở trường thuộc địa bàn vùng ven thành phố, đa số học sinh còn hạn
chế kỹ năng nói trước tập thể, rất ngại nói, không tự tin khi nói trước đông người.

Đối với học sinh ở trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai tỉ lệ học sinh dân tộc
thiểu số chiếm tỉ lệ cao phần tiếp thu còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, do thời gian thảo


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

luận cũng như luyện nói bố trí quá ít so với nội dung yêu cầu, một vài giáo viên chưa
chú trọng khâu luyện nói cho học sinh. Chính vì thế mà hoạt động nói của học sinh
chưa đáp ứng yêu cầu mong muốn.
Ở một vài giáo viên việc dạy tiết luyện nói rơi vào đơn điệu, bởi giáo viên chỉ sử
dụng hệ thống câu hỏi phát vấn, đàm thoại. Những học sinh được luyện nói đa số là
học sinh khá giỏi. Còn những em học sinh trung bình, yếu kém thì vẫn cứ trầm lặng,
nhút nhát.
Việc tăng cường tính hợp tác để tạo hứng thú cho những đối tượng đó hầu như
không có và cứ như thế thì nhiều học sinh không có cơ hội để rèn kĩ năng nói.
Nhiều giáo viên tuy đã có sự chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song còn lúng
túng trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng
do sách giáo viên, sách chuẩn kiến thức… không có hướng dẫn cụ thể (nhất là ở tiết
luyện nói)
Khi giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy và hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị chu
đáo thì việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong giờ học tiết luyện nói đạt hiệu
quả cao. Không khí học tập của học sinh khác hẳn khi giáo viên thuyết giảng, lúc này
ở các em lộ rõ sự thích thú, đa số các thành viên trong nhóm có vẻ háo hức và nói một
cách tự nhiên. Tất cả như có một “luồng điện vô hình” nào đó được lan truyền cho cả
lớp làm nóng lên không khí học tập. Nhiều em giơ tay xin được trình bày kết quả thảo
luận, được trình bày những điều mà nhóm đã phát hiện, cảm nhận tổng hợp và thật là
thoả mãn với những kiến thức được chắt lọc rút ra từ chính sự hiểu biết của các em.

Đó cũng là lúc giáo viên có điều kiện để điều chỉnh và phấn khích các em học tập.
Thực tế đựợc giáo viên quan tâm sẽ giúp cho các em thêm sự tự tin vào khả năng của
mình là phải học tập tốt hơn, cố gắng hơn để được phát biểu, nói trước lớp trong lần
sau.
Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn Ngữ văn
và đăc biệt là giờ luyện nói của các em trước hết người thầy giáo phải là người tìm ra
được những biện pháp tối ưu kích thích khả năng nói để học sinh nói ra được những
điều mình tư duy, cảm thụ trong giờ học văn bản cũng như trong tiết luyện nói.
Đây cũng là kĩ năng vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ những suy nghĩ
cảm xúc những điều cảm thụ, phân tích, đánh giá một cách tự tin trứơc tập thể. Vừa là
biện pháp có khả năng khắc phục đựơc những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang
quan tâm. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
Trên cơ sở nắm vững những lí luận cơ bản đó, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến
cá nhân của mình về vận dụng các Phương pháp dạy tiết luyện nói trong phân môn
tập làm văn 9 để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống
xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
2. Thực trạng:


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Trong cuộc đời làm nhà giáo, ai ai cũng trăn trở làm thế nào để có thể đem
đến cho học sinh một khối lượng kiến thức thật nhiều, thật sâu và một sự hứng thú
học tập? Làm thế nào nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn mình?... Một loạt
câu hỏi và tất cả nỗi trăn trở đó đã thôi thúc, giúp ta tìm ra phương pháp tối ưu cho
mỗi bản thân mình.
Muốn thế thì mỗi chúng ta phải nhìn thấy được thực trạng của trường mình

dạy của địa phương, môn học… từ đó mới tìm ra giải pháp hữu hiệu.
Bản thân tôi là một giáo viên qua nhiều năm trực tiếp làm công tác giảng
dạy môn ngữ văn bậc học THCS ở trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai và đặc biệt
dạy Ngữ văn khối 9. Tôi nhận thấy thực tế của việc nói và viết văn của học sinh hiện
nay còn yếu. Đặc biệt là kĩ năng nói, kĩ năng nói một vấn đề trước tập thể, đám đông
lại càng khó hơn.
Trước thực tế đó, tôi không khỏi lo lắng vì hiệu quả bài nói kém, nhiều học
sinh còn sợ sệt, rụt rè, nói vấp váp, thậm chí không nói được, không phân biệt được
giữa nói và đọc; hoặc nếu bị thầy cô buộc phải nói thì học sinh làm cho lấy có, nói
cho nhanh rồi xuống để đối phó với thầy cô giáo mà bài nói ấy theo một trình tự, hệ
thống nào cả, biến giờ luyện nói như một giờ tập làm văn không chú ý đến vấn đề nói.
Từ những trăn trở trên, tôi đã nghiên cứu, tìm ra những phương pháp
nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy “Luyện nói trong phân môn Tập làm văn lớp 9”
Đứng trước thực trạng đó bản thân cũng nhìn thẳng vào những mặt mạnh,
yếu, thuận lợi khó khăn của vấn đề để xác định những giải pháp hợp lý để đưa vào
ứng dụng, tôi đã thấy được những thuận lợi và khó khăn sau:
a.Về thuận lợi - khó khăn
* Thuận lợi
- Trường có cơ sở vật chất tương đối khang trang đủ điều kiện để học sinh có
thể học tập, tiếp thu bài tốt.
- Tổ Ngữ văn của trường có đội ngũ giáo viên dày dạn kinh nghiệm, đào tạo
chuẩn và trên chuẩn; tâm huyết với nghề nên thuận lợi cho việc trao đổi học hỏi.
- Tổ Ngữ văn đã nhiều năm có thành tích cao trong việc “đẩy mạnh được chất
lượng mũi nhọn” của nhà trường đi lên, có học sinh giỏi huyện, tỉnh.
- Có BGH quan tâm nên việc chỉ đạo kịp thời các vấn đề liên quan tới bộ môn.
- Bản thân được đào tạo trên chuẩn, luôn có ý thức học hỏi, tiếp thu cái mới
luôn luôn nghĩ và tìm ra các phương pháp để mục đích cuối cùng là đẩy mạnh chất
lượng bộ môn Ngữ văn.
- Đối tượng học sinh lớp 9 đã có ý thức học tập tốt hơn so với các lớp dưới.
- Việc học Ngữ văn nhìn chung trong những năm gần đây đã có biến chuyển

trong tâm thức của các em vì nó là trong những môn dự thi vào THPT.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi đó khi nghiên cứu đề tài này tôi còn gặp những khó
khăn không nhỏ


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Đối tượng học sinh trong nhà trường có trình độ tiếp thu chênh lệch không
đồng đều nhau nhiều (Tỉ lệ học sinh đồng bào tương đối cao).
Chất lượng đầu vào còn thấp (Cụ thể một số em vào lớp 6 nhưng đọc chưa đọc
thông, viết chưa thạo còn bị sai lỗi chính tả rất nhiều). Nên việc dạy truyền thụ kiến
thức của thầy và cảm thụ văn chương sẽ rất khó.
Nhiều em còn chây lười đặc biệt là thực hiện “4 không’’: không soạn bài, không
học bài, không làm bài, không phát biểu ý kiến xây dựng bài…
Một số gia đình học sinh chưa thật sự quan tâm, nhắc nhở và giám sát nên các
em bỏ học, sa đà vào những trò chơi game, dẫn đến sao nhãng việc học.
Một số ít giáo viên còn chạy theo thành tích: coi thi, chấm thi chưa nghiêm
túc…
Một số ít giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy tích hợp rèn luyện các kĩ năng
thực hành, kĩ năng luyện nói, kĩ năng làm chủ bản thân… cho học sinh.
Đứng trước những thuận lợi và khó khăn trên thì đề tài này cũng có những
thành công và hạn chế.
b. Thành công - hạn chế:
* Thành công
“Vận dụng các phương pháp dạy tiết luyện nói trong phân môn tập làm văn
9 để đào tạo cho học sinh là những người năng động, mạnh dạn trước đám đông,

không rụt rè e ngại.
- Giúp rèn luyện cho học sinh các kĩ năng làm chủ bản thân.
- Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn Ngữ văn.
- Phát huy tối đa tính tích cực của chủ thể là học sinh.
- Phát huy được các thế mạnh của hoạt động nhóm hoạt động tổ.
- Chú trọng và quan tâm được cả ba đối tượng học sinh (giỏi – khá; trung bình;
yếu - kém).
Tạo được không khí tự nhiên, thoải mái, nhẹ nhàng và lựa chọn nội dung hấp dẫn
để lôi cuốn các em vào hoạt động luyện nói.
Thể hiện được thái độ khích lệ, động viên, nâng đỡ để tránh cho em cảm giác tự
ti, xấu hổ.
Nếu ta vận dụng phương pháp dạy tiết luyện nói phù hợp thì biến tiết luyện nói
là một giờ giải lao trao đổi bình luận về một vấn đề cần quan tâm đó là văn chương
hay một vấn đề liên quan đến học tập hoặc kĩ năng sống của bản thân.
Từ những thành công thì đề tài trên còn gặp những hạn chế.
* Hạn chế:
Từ trước tới nay, hầu như các trường, phòng giáo dục rất hiếm tổ chức chuyên
đề về việc dạy và học tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn THCS.
Chưa có sách nghiên cứu riêng về phương pháp dạy tiết luyện nói.
Trong sách chuẩn kiến thức cũng chưa có một cái chuẩn về dạy và soạn tiết
luyện nói.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Giờ luyện nói trên lớp là học sinh thường nói như đọc (học thuộc lòng bài nói
rồi lên lớp đọc lại) làm cho việc nói, trình bày thiếu tự nhiên, thiếu tư thế và tác

phong phù hợp.
Với thành công và hạn chế thì đề tài đã có những điểm mạnh và yếu
c. Mặt mạnh - mặt yếu
* Mặt mạnh
Đây là một trong những điểm mới về quan điểm dạy học tích hợp các kĩ năng
của môn học.
Trong phân phối chương trình đã thể hiện rất rõ và chi tiết và bố trí một số giờ
luyện nói độc lập theo từng kiểu văn bản để giáo viên chủ động tạo lập chương trình
cụ thể như sau:
* Lớp 6:
Tiết 29 - Tuần 8 - Bài 7: Luyện nói kể chuyện
Tiết 43 - Tuần 11 - Bài 11: Luyện nói kể chuyện
Tiết 83, 84 - Tuần 21 - Bài 20: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và
nhận xét trong văn miêu tả.
Tiết 96 - Tuần 24 - Bài 23: Luyện nói về văn miêu tả
* Lớp 7:
Tiết 40 - Tuần: 10 - Bài 10: Luyện nói: Văn biểu cảm về sự vật, con người.
Tiết 56 - Tuần: 14 - Bài 13: Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn
học.
Tiết 112 - Tuần 28 - Bài 27: Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề.
* Lớp 8:
Tiết 42 - Tuần 11 - Bài 10: Luyện nói: Kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với
miêu tả và biểu cảm.
Tiết 54 - Tuần 14 - Bài 14: Luyện nói: Thuyết minh một thứ đồ dùng.
* Lớp 9:
Tiết 65 - Tuần 13 - Bài 13: Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả
nội tâm.
Tiết 140 - Tuần 28 - Bài 27: Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
Đây là một trong những phương pháp và cách tiếp cận mới, khoa học nên gây
hứng thú cho cả giáo viên và học sinh.

Tác động trực tiếp khả năng tiếp cận và phản biện nên học sinh thường chú ý và
hứng thú hơn.
Rèn được kĩ năng mạnh dạn, điều chỉnh ngôn ngữ, giọng nói, thái độ nói trước
tập thể.
Do đó, đổi mới tiết luyện nói là điều cần thiết để đảm bảo mục tiêu môn học,
giúp học sinh hoàn thiện 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
Trên cơ sở của các điểm mạnh thì việc vận dụng đề tài còn gặp những mặt yếu.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

* Mặt yếu
Tiết dạy luyện nói chưa có thống nhất cụ thể và được triển khai rộng theo một
mẫu chung.
Giáo viên giảng dạy nghĩ rằng trong tiết luyện nói chỉ cần cho dàn bài về nhà
chuẩn bị rồi lên lớp thực hiện mà quên việc chú ý đối tượng học sinh và kĩ năng, thái
độ trong khi nói của từng đối tượng.
Học sinh chuẩn bị bài nói chưa kĩ khiến các em không chủ động trong việc
trình bày bài nói điều đó cũng dẫn đến việc học sinh nói ngập ngừng, ấp úng.
Học sinh chuẩn bị còn mang tính đối phó, sợ cô hoặc thầy nên chuẩn bị cho có
rồi học thuộc hoặc chép ra giấy đứng dậy nói như đọc.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Nguyên nhân chủ quan:
- Là cá nhân người giảng dạy phải tâm huyết với nghề, ham học hỏi, tích cực
ứng dụng các phương pháp mới vào giảng dạy, chú tâm đến từng đối tượng học sinh
để giáo dục.
- Kĩ năng nói của học sinh cần được rèn luyện nhiều trong mọi tình huống

không chỉ cần trong tiết luyện nói của phân môn tập làm văn không mà cả trong các
tiết dạy rồi trong thực tế sinh hoạt đời thường, giao tiếp. Đến khi đó các em mới mạnh
và tự tin nói trước đông người được.
Nguyên nhân khách quan:
Phần lớn học sinh đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, điều kiện tiếp
xúc với chỗ đông người còn hạn chế nên các em thiếu tự tin, e dè, ngại ngùng và hồi
hộp khi nói trước tập thể.
Đôi khi học sinh chuẩn bị bài nói rất kĩ nhưng vì thiếu tự tin, hồi hộp quá nên các
em cũng không nói được bài nói của mình.
Khi tham gia luyện nói, lời nói của các em không tự nhiên, nói lủng củng ngập
ngừng không rõ ràng, không nói được điều muốn nói, không kết hợp được các yếu tố
phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượng…
Trong bài nói thường sử dụng nhiều từ địa phương ở vùng quê của các em, điều
ấy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này.
Học sinh chuẩn bị bài nói chưa kĩ khiến các em không chủ động trong việc trình
bày bài nói điều đó cũng dẫn đến việc học sinh nói ngập ngừng, ấp úng.
Thời gian 45 phút cho một tiết luyện nói không đủ để giáo viên có thể cho số
lượng học sinh lên nói được nhiều, vì lớp học có sĩ số đông.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Sách giáo viên chưa có định hướng rõ ràng trong việc giúp người dạy dễ dàng
khi dạy các tiết luyện nói.
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
*Mục tiêu của giải pháp:

- Giúp học sinh phát huy tốt kĩ năng giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày đăc
biệt là trong các giờ học Ngữ văn.
- Để mỗi giáo viên đều có một định hướng chung trong việc dạy và soạn tiết luyện nói
trong phân môn tập làm văn.
- Đưa ra những việc làm cụ thể, khả thi trong khi vận dụng các phương pháp
dạy tiết luyện nói trong phân môn tập làm văn.
- Cách vận dụng các giải pháp đó như thế nào và đạt hiệu quả ra sao?
* Mục tiêu của biện pháp thực hiện:
- Muốn thực hiện tốt tiết luyện nói này, giáo viên cần nắm vững mục tiêu bài dạy
luyện nói là:
+ Luyện kĩ năng nói là chính (chú trọng về ngôn ngữ diễn đạt của học sinh)
+ Còn nội dung bài luyện nói cần xếp sau kĩ năng nói. (Chú trọng đến bố cục
bài nói đã là đủ)
- Giáo viên luyện từ chỗ học sinh nói còn ngập ngừng, vấp váp đến chỗ nói lưu loát,
ngừng nghỉ đúng chỗ, hơn nữa nói có kết hợp với ánh mắt cử chỉ, thái độ, tình cảm...
Đặc biệt, ở mỗi một lớp, mỗi khối học, giáo viên yêu cầu mức độ nói khác nhau (lớp
lớn yêu cầu cao hơn lớp nhỏ) để làm thế nào từ lớp 6 đến lớp 9 kĩ năng nói của các
em được dần dần nâng cao hơn.
- Trong đề tài này đối tượng là học sinh lớp 9 nên đòi hỏi đã hoàn thiện với yêu cầu kĩ
năng của một bài luyện nói chứ không còn ở mức độ tập nói vì các lớp dưới đã được
học tiết luyện nói rồi.
Bên cạnh xác định được mục tiêu trên, để chuẩn bị cho tiết luyện nói đạt
kết quả tốt thì ta cần phải đưa ra nội dung và cách thức thực hiện cụ thể và tiến hành
với các biện pháp nào?
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
* Nội dung:
Để hoàn thành những định hướng đã đặt ra, dựa trên thực tế đã làm, tôi xin
trình bày những nội dung và cách thức chính mà tôi đã áp dụng như sau:
- Dạy tiết luyện nói phải kết hợp lí thuyết và thực hành, coi trọng thực hành về
nói. Muốn cho học sinh nói được nhiều, giáo viên phải chuẩn bị từ khi ra đề, hướng

dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà cho đến khi tiến hành thực hành luyện nói trên lớp.
- Dạy luyện nói phải gây hứng thú học tập của học sinh, phát huy tính tích cực,
độc lập, sáng tạo của học sinh. Giờ luyện nói là giờ thể hiện cá tính, là giờ học sinh


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

được làm chủ mình hơn cả, giáo viên đừng gò bó các em, đừng vội vàng phê phán các
biểu hiện chưa tốt của các em, vấn đề là phải tạo những điều kiện cần và đủ để các em
nói.
- Dạy luyện nói phải kết hợp việc rèn luyện kĩ năng với việc giáo dục
tư tưởng, tình cảm, tư duy cho học sinh, giáo dục lòng yêu mến tự hào về tiếng Việt,
tự hào về dân tộc ta.
- Dạy luyện nói không chỉ dạy lời nói, dáng điệu nói….mà phải dạy chiều
sâu của tâm hồn, tư tưởng của học sinh mà cụ thể hơn là dạy nếp sống có văn hóa, nói
năng tốt, chống lại nói năng xấu đang có nguy cơ lan tràn trong học sinh hiện nay như
nói tục, nói trống không, nói tiếng lóng... chứ không chỉ chú trọng đến nói về môn học
của mình không.
* Cách thực hiện giải pháp, biện pháp:
1. Về phương pháp dạy tiết luyện nói trong phân môn tập làm văn:
Biện pháp thứ nhất:
Xác định yêu cầu của một tiết luyện nói.
Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết dạy, chúng ta phải hiểu rằng đây là
tiết học giúp học sinh “Luyện nói” thì học sinh phải được nói.
Phải thực sự luyện trên lớp cho từng em được nói và nói một cách lưu loát.
Giáo viên phải nêu thật rõ yêu cầu luyện nói, nếu cần ghi tóm tắt lên bảng.
Khi học sinh trình bày, giáo viên phải nắm bắt để nhận xét đúng khả năng,

thành tích đạt được của các em trong quá trình trình bày một vấn đề bằng miệng.
Đồng thời giáo viên hướng cho học sinh đi đúng yêu cầu, nói chứ không phải là đọc.
Đã nói thì phải vận dụng đúng ngôn ngữ nói thể hiện rõ nhất là ngữ điệu trong
sử dụng thành văn. Ngoài ra, các em còn biết thể hiện qua cử chỉ, nét mặt, sắc thái
tình cảm, thái độ khi trình bày.
Biện pháp thứ 2: Chuẩn bị cho tiết luyện nói:
Bước 1: Chuẩn bị trước đề tài luyện nói:
Muốn một giờ luyện nói đạt kết quả tốt, ngoài việc hướng dẫn học sinh đi đúng
yêu cầu của một giờ luyện nói trên lớp thì việc cho các em chuẩn bị bài ở nhà cũng rất
quan trọng.
Muốn các em chuẩn bị bài tốt, có chất lượng thì sự chuẩn bị, hướng dẫn của
giáo viên cũng phải chu đáo. Trong sách giáo khoa thường có một số vấn đề, đề bài
gợi ý để giáo viên lựa chọn, vậy nên chọn đề nào cho phù hợp, để có hiệu quả cao cho
đối tượng học sinh của mình dạy theo ý chủ quan của giáo viên.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Giáo viên xem trước chương trình để dặn dò các em chuẩn bị bài luyện nói
trước.
Khi đã chọn được đề phù hợp rồi, giáo viên phải phân việc cụ thể cho từng đối
tượng học sinh (có thể phân theo dãy bàn, theo tổ, theo nhóm) để học sinh chuẩn bị kĩ
lưỡng, tránh đối phó qua loa, đại khái.
Giáo viên cần dặn trước từ 5 đến 7 ngày , vì lớp học phần lớn là học sinh có lực
trung bình (chưa kể học sinh yếu, kém) nên dù có căn dặn trước một tuần nhưng vẫn
có em không chuẩn bị ở nhà, điều này làm cho giờ luyện nói khó có thể mà thành
công được.

Minh họa cho biện pháp 2:
Trong chương trình ngữ văn 9 phân môn tập làm văn cụ thể:
Tiết 65: Luyện nói: Tự sự kết hợp miêu tả nội tâm.
Trong sách giáo khoa yêu cầu 3 đề và tôi cho học sinh lựa chọn sau đó chốt lại
ghi tên các đề tài của các nhóm tổ đã chọn để tiện quá trình tiến hành kiểm tra sự
chuẩn bị đề tài.
Ví dụ 1:
Đề bài:
Dựa vào nội dung phần đầu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
(Từ đầu...nhưng việc trót đã qua rồi). Hãy đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện
và bày tỏ niềm ân hận.
Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị cụ thể như sau:
Phân tích đề :
- Học sinh phải xác định kiểu bài cho tiết luyện nói:
+ Tự sự sáng tạo sắm vai nhân vật
- Yêu cầu của văn bản tự sự sáng tạo
+ Là văn bản tự sự đảm bảo các yếu tố để tạo thành một câu chuyên:
+ Sự việc
+ Nhân vật
+ Cốt truyện...
- Có sử dụng yếu tố nghị luận và miêu tả nội tâm phù hợp
Dàn bài:
Mở bài: Trương Sinh tự giới thiệu về mình và tình huống xảy ra câu chuyện.
Thân bài: Diễn biến sự việc.
- Trương Sinh đi lính
- Trương Sinh trở về
- Nghe lời con trẻ nghi oan cho vợ là thất tiết dẫn đến cái chết oan của
vợ.
- Sau khi hiểu ra nỗi oan của vợ: Tâm trạng đau đớn, dày vò, ân hận,
day dứt.



Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Kết bài: Bài học rút ra từ câu chuyện: Về cách cư xử trong mối quan hệ vợ
chồng.
Ví dụ 2:
Tiết 140: Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
Đề bài: Bếp lửa sưởi ấm một đời - Bàn về bài thơ bếp lửa của Bằng Việt.
Giáo viên cần nhắc học sinh chuẩn bị như sau:
Phân tích đề:
- Kiểu bài: Nghị luận về bài thơ
- Nội dung: Bếp lửa sưởi ấm một đời. (Bếp lửa từ trong kỉ niệm của tuổi thơ
luôn sưởi ấm tâm hồn, nâng đỡ con người trên chặng hành trình dài của
cuộc đời )
Dàn bài:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
- Khái quát giá trị của bài thơ và hình ảnh Bếp lửa
Thân bài: Nghị luận về vấn đề trong bài thơ
+ Hình ảnh Bếp lửa khơi nguồn cho những cảm xúc về bà:
- Sự liên tưởng từ hình ảnh thân thương, ấm áp: Bếp lửa
- Bếp lửa của tuổi thơ nhọc nhằn gian khổ sống bên bà
+ Bếp lửa sưởi ấm tâm hồn tuổi thơ thơ
- Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp
- Bếp lửa gợi những liên tưởng trong kỉ niệm về bà
+ Bếp lửa với những suy ngẫm về bà

- Bà là người nhóm lửa, người giữ lửa.
- Ngọn lửa trở thành kỉ niệm thân thương, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu
- Ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin nâng bước cháu trong suốt chặng
đường dài của cuộc đời.
+ Bếp lửa - hình tượng thơ đặc sắc:
- Vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng
Kết bài:
- Khẳng định giá trị của hình tượng bếp lửa
- Suy nghĩ của bản thân về hình ảnh Bếp lửa
Giáo viên phải phân cho học sinh như sau:
+ Nhóm chuẩn bị phần đặt vấn đề
+ Nhóm chuẩn bị phần kết thúc vấn đề
+ Ba nhóm chuẩn bị phần thân bài với 4 ý trên.
Có bước chuẩn bị chu đáo chi tiết thì tiết luyện nói mới thành công được.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Vì thế mà bước chuẩn bị đề tài để luyện nói là rất quan trọng làm tiền đề cho
sự thành công của tiến trình luyện nói.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -


Bước 2: Kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh:
- Khi giao nhiệm vụ cụ thể mà không kiểm tra thì học sinh sẽ không coi
trọng và từ đó không chú ý đến tiết học này nên giáo viên cần chú ý.
- Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh qua một số tiết dạy trên lớp.
- Trong quá trình kiểm tra, giáo viên nói các nội dung cơ bản phần thân bài
của bài luyện nói cho học sinh biết về chỉnh sửa bài chuẩn bị của mình.
- Để thuận lợi cho việc kiểm tra, giáo viên nên phân chia đối tượng học sinh
( Giỏi - khá- trung bình - yếu) và yêu cầu nội dung chuẩn bị cụ thể cho từng đối tượng
để học sinh chuẩn bị tốt, đảm bảo thời gian cho tiết luyện nói.
Biện pháp thứ 3: Tiến hành tiết luyện nói:
Đến phần luyện nói trên lớp, giáo viên cho học sinh xem lại bài chuẩn bị của
mình trong 4-5 phút sau đó đến luyện nói (có thể luyện nói cá nhân, theo nhóm hay
thi giữa các tổ) tùy theo đối tượng và điều kiện của lớp học.
Trong bước thực hành luyện nói thì tôi thường vận dụng luyện nói theo tổ
nhóm và thực hiện như sau:
Các bước vận dụng cho tiết luyện nói:
+ Bước một:
Giáo viên: Ghi đề tài luyện nói lên bảng (Các nhóm đã chọn ở tiết trước)
Học sinh: Nhắc lại yêu cầu của một tiết luyện nói:
Mục đích chính của tiết luyện nói
Phương pháp sử dụng trong tiết luyện nói?
Cách thực hiện cần đảm bảo bố cục như thế nào?
Yêu cầu của bài nói có đặc điểm ra sao? Về hình thức và nội dung?
+ Bước hai:
Giáo viên: Kiểm tra việc chuẩn bị và triển khai theo yêu cầu của đề tài được phân
công luyện nói cần chú ý cả nội dung và hình thức.
Nội dung: Bài nói phải đủ 3 phần:
Mở đầu: Giới thiệu tên, lớp, bài nói của mình cho thầy cô và các bạn nghe.
Nội dung chính:
+ Khi nói có kết hợp giọng điệu, nét mặt, ánh mắt cử chỉ phù hợp nội dung bài nói để

bài nói thêm sinh động và hấp dẫn hơn.
Kết thúc: Có lời cảm ơn “cảm ơn thầy, cô; các bạn đã lắng nghe”.
Hình thức: Bài văn đủ ý ngắn gọn rõ ràng, câu văn đúng ngữ pháp, không cầu kì như
bài văn viết trên giấy.
+ Bước ba: Bước tiến hành luyện nói :
Qua quá trình giảng dạy thì tôi thường vận dụng phương pháp tập luyện nói
trước nhóm sau đó đại diện nhóm nói trước lớp.
Cơ bản của bước thực hành luyện nói như sau:
Đầu tiên thực hiện luyện nói trước nhóm: (5 phút)


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Cử đại diện của nhóm nói trước nhóm để trong nhóm nghe và đóng góp ý kiến
cho bài nói được hoàn chỉnh (5 phút)
Tiến hành thực hiện luyện nói trước lớp (20 phút)
Trong khi tiến hành luyện nói trước lớp giáo viên cần chú ý đối tượng học sinh
để lần lượt gọi các em lên trình bày tránh tình trạng chỉ gọi các em giỏi - khá của các
nhóm đó.
Đối với học sinh yếu - trung bình giáo viên nên cho học sinh thực hiện nói từng
phần (mở bài, các ý trong phần thân bài hoặc kết bài).
Đối với học sinh khá - giỏi nên cho các em nói toàn bài để xem mức độ tiếp thu
của các em nói đến đâu, ở các trình độ khác nhau.
+ Bước bốn: Đánh giá bài luyện nói của học sinh đã trình bày.
Học sinh: Mỗi lần một học sinh nói xong bài nói của mình, giáo viên gọi một vài học
sinh khác nhận xét bài của bạn. Cũng có thể các em tự chấm điểm cho bạn mình.
Giáo viên

Lời nhận xét này giáo viên coi như là một bài luyện nói nhỏ (có đầy đủ các yêu
cầu về nội dung và hình thức).
Nhận xét ưu điểm - nhược điểm về bài của học sinh.
Cuối cùng giáo viên chốt lại, động viên, khích lệ tinh thần học tập (Bằng tràng
vỗ tay) và ghi điểm hoặc phần thưởng cho học sinh (nhóm)
Lưu ý rằng, cách đánh giá điểm cũng là một biện pháp, cần có những con điểm
mang tính khích lệ, động viên cao.
+ Bước năm: Nhắc nhở rút kinh nghiệm sau tiết luyện nói:
Sau khi học sinh trình bày giáo viên củng cố, chốt lại một lần nữa các yêu cầu
cần đạt của tiết luyện nói.
Cách làm này, khiến cho tiết học sôi nổi, học sinh hứng thú không còn sợ sệt và
e ngại như trước. Các em tự nhiên nói được nhiều hơn, lưu loát hơn và ngày càng tự
tin hơn.
Tôi tin tưởng rằng nếu tổ chức theo hướng trên, chắc chắn giáo viên sẽ nhận
được những bài nói từ học sinh đó là giọng nói rõ ràng, tác phong chững chạc không
còn là lời ấp úng, ngập ngừng, rụt rè như trước nữa.
Vấn đề còn phụ thuộc vào đặc thù của mỗi lớp, giáo viên cũng nên linh động để
áp dụng cho từng đối tượng học sinh, từng lớp.
Trên đây là các bước dạy bài luyện nói còn soạn tiết luyện nói thì thế nào?
2. Cách thức soạn một giáo án cụ thể của một tiết luyện nói:
Việc làm đầu tiên của người giáo viên là nghiên cứu để soạn giáo án cho
tiết dạy của mình. Đặc thù tiết luyện nói lại chưa có một mẫu chung thống nhất


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

Qua quá trình tham khảo bạn bè đồng nghiệp từ các trường trong thành phố tôi

nhận thấy rất trăn trở nhưng trong đề tài này tôi đã mạnh dạn đưa ra mẫu giáo án như
sau:
Giáo án:
Tiết 139 - 140:
LUYỆN NÓI
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ.
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1 Kiến thức: Giúp HS
- Có kĩ năng trình bày miệng một cách mạch lạc, hấp dẫn những cảm nhận đánh giá
của mình về một tác phẩm văn học. Cụ thể là về một đoạn thơ bài thơ
- Luyện tập cách lập ý, lập dàn ý và cách dẫn dắt vấn đề khi bình luận về một tác
phẩm văn học.
2. Kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng nói trước đông người
3. Thái độ: Giáo dục tình cảm thái độ yêu văn học.
Thái độ tự tin, mạnh dạn trước tập thể.
4.Tích hợp: Kĩ năng sống: Ra quyết định, trình bày ý kiến.
B. CHUẨN BỊ:
Giáo viên: Phương pháp, kĩ thuật, phương tiện:
- Phương pháp: Thực hành vận dụng.
- Kĩ thuật: Trình bày miệng
- Phương tiện: Bảng nhóm chép dàn bài
Học sinh:
- Soạn đề tài luyện nói
- Bảng phụ ghi dàn bài của tổ nhóm.
C. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP:
1. Ổn định tổ chức: Kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ: Giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh về đề tài đã giao.
3. Bài mới:
Hoạt động 1: Giáo viên giới thiệu tầm quan trọng của tiết luyện nói
Hoạt động của thầy và trò

Nội dung
Hoạt động 2:
I. Chuẩn bị
Phần chuẩn bị đã giao trước 1 tuần
1. Khái niệm:
H/s nhắc lại cách làm bài nghị luận…
Cách làm bài nghị luận về một
HS đọc đề bài mà giáo viên giao ở tuần đoạn thơ bài thơ.
trước.
? Em hãy phân tích yêu cầu của đề bài trên.
Hoạt động 3:


Sáng kiến kinh nghiệm
2015
Nêu đề tài đã chuẩn bị trước, phân tích đề
và lập dàn ý .
Bước 1: Tìm hiểu đề:
- Thể loại: Nghị luận về một đoạn thơ, bài
thơ
- Nội dung:
+ Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ
+Vấn đề nghị luận: Tâm nguyện thiết tha
của Thanh Hải, được cống hiến cho đất
nước
Bước 2: Lập dàn ý:
HS: Nêu dàn ý đã chuẩn bị trước.
Các nhóm trình bày dàn ý vào bảng phụ
GV: Trình bày dàn ý lên bảng phụ
Mở bài :

- Giới thiệu tác giả: Thanh Hải một nhà thơ
cách mạng, suốt đời cống hiến cho sự
nghiệp chung của Tổ quốc
- Giới thiệu bài thơ: Bài “Mùa xuân nho
nhỏ” được viết vào tháng 11-1980 lúc tác
giả đang nằm trên giường bệnh, tác giả
nguyện góp “Mùa xuân nho nhỏ” vào mùa
xuân lớn của đất nước
Thân bài :
1- Cảm nhận về mùa xuân:
- Ở vẻ đẹp: “Dòng sông xanh”,
“Bông hoa tím”
- Ở niềm vui: Tiếng chim hót vang, một bức
tranh xuân sinh động như khúc hát mùa
xuân
- Cảm xúc về mùa xuân: tiếng chim hót –
từng giọt – đưa tay hứng.
2- Nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng mùa
xuân đất nước:
- “Người cầm súng”, làm nhiệm vụ bảo vệ
đất nước trong vòng là ngụy trang
- “Người ra đồng” làm nhiệm vụ sản xuất
xây dựng đất nước
- Lịch sử đất nước: Đất nước với bao thử

Năm h ọc 2014 -

2. Đề bài:
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là
những lời tâm nguyện thiết tha, cảm

động của nhà thơ Thanh Hải. Hãy
phân tích bài thơ để thấy những tình
cảm đó.

3. Dàn ý đại cương : (Bảng nhóm)


Sáng kiến kinh nghiệm
2015
thách chồng chất
3- Sự cống hiến của mỗi người:
- Mỗi người là một mùa xuân nho nhỏ thật
am thầm, lặng lẽ không phô trương
- Cống hiến suốt cả cuộc đời,không ngừng,
không nghỉ từ tuổi thanh xuân cho đến khi
tóc bạc
4- Tiếng hát mùa xuân:
- Khúc hát của quê hương đất nước là một
khúc hát của sự trường tồn, bất diệt
Kết bài :
- Bài thơ là lời tâm tình của nhà thơ. Đây là
lời trăn trối, lời nhắn nhủ sau cùng của tác
giả đối với thế hệ trẻ
- Bài thơ chan hòa cả màu sắc, âm thanh của
thiên nhiên, đất trời cùng sức trẻ đầy sôi
động
Hoạt động 4:
Tiến hành luyện nói trên lớp.
HS: Dựa vào dàn bài đã chuẩn bị để tiến
hành luyện nói.

GV: Cho học sinh 5 phút để chuẩn bị
- Tổ chức HS hoạt động nhóm, luyện nói.
- GV hướng dẫn HS lời giới thiệu trước khi
trình bày bài nói của mình.
H/S: Tiến hành nói cá nhân trong nhóm
HS: Luyện nói trước nhóm (mỗi nhóm
2HS).
Các bạn trong nhóm nhận xét bổ sung để
hoàn thành bài nói
GV gọi đại diện HS trong nhóm lên trình
bày trước lớp.
Hoạt động 5:
Đánh giá - cho điểm
GV: Nhắc lại yêu cầu của tiết luyện nói
HS : Nhận xét cách trình bày của bạn :
- Có tự nhiên, rành mạch, rõ ràng, hướng tới
người nghe không?
- Chú ý phát âm, giọng điệu có chuẩn

Năm h ọc 2014 -

II/ Thực hành luyện nói trên lớp:
1. Luyện nói trước tổ :

2. Luyện nói trước nhóm:

3. Thực hành nói trước lớp:

III/ Đánh giá kết quả
và cho điểm :



Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

không?
- Cả lớp theo dõi, nhận xét, rút kinh
nghiệm, bổ sung.
GV: Nhận xét, tuyên dương , khen thưởng
hoặc cho điểm cho các bài luyện nói của các
nhóm tổ.
4. Củng cố: - GV nhận xét tiết học có thành công hay không?
- Nhấn mạnh ôn tập văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
5.Dặn dò: - HS về nhà hoàn thành bài tập luyện nói thành bài văn hoàn chỉnh.
- Soạn bài: Những ngôi sao xa xôi.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp biện pháp:
Để thực hiện tốt các giải pháp, biện pháp phải tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
của từng trường, đối tượng học sinh, năng lực của người giáo viên.
Vấn đề còn phụ thuộc vào đặc thù của mỗi lớp, giáo viên cũng nên linh động để
áp dụng cho từng đối tượng học sinh, từng lớp.
Với trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai có đầy đủ điều kiện để thực hiện
việc vận dụng phương pháp trên để dạy một tiết luyện nói trong dạy học các phân
môn học nói chung và phân môn tập làm văn 9 nói riêng.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Giữa giải pháp và biện pháp có mối quan hệ hữu cơ, qua lại khăng khít với
nhau. Có giải pháp mà không có biện pháp thực hiện thì vô ích, ngược lại có biện
pháp mà không có giải pháp thì không thể làm được gì.
Vì vậy, giữa giải pháp và biện pháp có mối quan hệ không thể tách rời thì hiệu

quả của việc vận dụng các biện pháp dạy và soạn tiết luyện nói mới được nâng lên
không chỉ còn trong khuôn khổ văn chương và rộng hơn sẽ nói về những vấn đề liên
quan đến đời sống xung quanh ta…
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học:
Trong thời gian tôi sử dụng các phương pháp này vào giảng dạy môn Ngữ văn nói
chung, phân môn tập làm văn và cụ thể là “Tiết luyện nói ”nói riêng. Tôi thấy kết quả
thật đáng mừng. Ở các tiết luyện nói, học sinh đã hứng thú hơn, sau khi áp dụng
những phương pháp như đã nêu trên thì học sinh có sự chuyển biến khá tốt đó là:
+ Các em không còn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đông để
luyện nói mà thêm vào đó là sự tự tin, thái độ cởi mở hơn.
+ Không khí lớp học có sự hào hứng, sôi nổi, các em thích được học những tiết
luyện nói hơn.


Sáng kiến kinh nghiệm
2015

Năm h ọc 2014 -

+ Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em không có sự ngập
ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài nói đều hoàn
chỉnh hơn lúc trước.
+ Kĩ năng nói của các em đã có sự tiến bộ, các em biết chào khi mở đầu biết
giới thiệu đề tài, cách nói cũng trôi chảy, gãy gọn, đúng chính âm, kết hợp cử chỉ, nét
mặt, thái độ và khi kết thúc biết cảm ơn.
Và kết quả môn Ngữ văn những lớp tôi dạy so với năm học trước có chuyển
biến rõ rệt theo chiều hướng tốt hơn. Cụ thể:
Năm học 2011 - 2012:
Kết quả khảo sát đầu năm học:
Tổng

Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Lớp
Giỏi
Khá
TB
Yếu Tỉ lệ (%)
số
(%)
(%)
(%)
9A
37
1
8
20
10
2,7
21,1
52,6
26,3
Năm học 2012 - 2013:
Khi đã vận dụng sáng kiến:
Tổng
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Lớp
Giỏi

Khá
TB
Yếu Tỉ lệ (%)
số
(%)
(%)
(%)
9A
37
4
16
17
10,5
43
44,7
0
Năm học: 2012-2013 đặc biệt môn Ngữ văn các lớp tôi dạy đạt tỉ lệ học sinh
giỏi các cấp tương đối cao.
Kết quả cụ thể:
+ Cấp trường: Tham gia 06 em. Kết quả đạt: 1 giải nhất; 3 nhì; 2 khuyến khích.
+ Cấp thành phố: Tham gia 06 em. Kết quả đạt: 1 giải nhì; 2 giải ba; 1khuyến
khích, 2 giải công nhận HSG.
Năm học 2012 - 2013:
Kết quả khảo sát đầu năm
Tổng
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Lớp
Giỏi

Khá
TB
Yếu Tỉ lệ (%)
số
(%)
(%)
(%)
9B
35
1
7
22
05
2,8
20
57
14
Năm học 2013 - 2014:
Khi đã vận dụng sáng kiến:
Học kì I:
Tổng
Tỉ lệ
Lớp
Giỏi
số
(%)
9A
35
03
19,0


Khá

Tỉ lệ
(%)

TB

Tỉ lệ
(%)

Yếu

Tỉ lệ (%)

13

37

14

40

05

14


Sáng kiến kinh nghiệm
2015


Năm h ọc 2014 -

Học kì I: Năm học 2013 - 2014 chất lượng môn Ngữ văn cụ thể là khả năng nói đạt
hiệu quả cao nên từ đó đã đẩy mạnh được chất lượng mũi nhọn của bộ môn Ngữ văn.
Kết quả cụ thể:
+ Học sinh giỏi cấp trường: 03 em dự thi. Kết quả đạt: 01 giải ba; 2 giải khuyến
khích.
+ Học sinh dự thi cấp huyện 03 em (trong đó 1 em đạt giải khuyến khích, 2 em được
công nhận HSG).


×