Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam trong thời gian vừa qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.86 KB, 99 trang )

CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chiến lược mở cửa để đưa dần nền kinh tế nước ta hơn nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện cách đây hơn 13 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chính
sách mở cử là chủ trương thu hút vốn đầu tư của nước ngoài và đặc biệt
quan trọng là chính sách thu hút vốn trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực
sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò then chốt trong chiến lược phát triển
kinh tế của Việt Nam.
Thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển hàng xuất khẩu
không chỉ nhằm tăng thêm vốn cho đầu tư phát triển sản xuất mà còn tạo
thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nước những
máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt
hàng có chất lượng cao, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của đất nước,
tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần ổn định nền tài chính tiền tệ quốc gia,
thúc đẩy kinh tế phát triển …
Chính vì vậy, việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn
đầu tư thị trường của nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam trước
thềm thế kỷ 21. Đồng thời cũng là nhân tố quan trọng để đưa đất nước ta từ
một quốc gia nghèo nàn lạc hậu trở thành 1 nước công nghiệp để đưa chủ
trương của Đảng ta xây dựng 1 nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công
bằng văn minh sau trở thành hiện thực.
2. Mục đích chuyên đề
Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá khái quát và phân tích tổng thể
về đặc điểm, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất
hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng, xác định tiềm năng xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp có vốn Đầu tư trực tiếp nước


1


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

ngoài tại Việt Nam nói riêng. Từ nội dung nghiên cứu về những thuận lợi
và khó khăn trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá để rút ra những bài
học thực tiễn góp phần nhỏ bé vào công cuộc hàng xuất khẩu của nước nhà.
Qua đây làm sáng tỏ quá trình thu hút có kết quả vốn Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam.
Chuyên đề phân tích cụ thể môi trường đầu ở nước ta, chủ trương tăng
cường hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước nói chung và xuất khẩu của
các doanh nghiệp có vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Qua đó
nhằm đưa ra những đề xuất phát triển của các doanh nghiệp có vốn Đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề được xây dựng và trình bày trên cơ sở các phương pháp
nghiên cứu khoa học xuất nhập khẩu hàng hoá. Dùng phương pháp phân
tích tổng hợp, thống kê và khái quát hết đối tượng nghiên cứu để đạt được
mục tiêu đề ra.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo…
chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Những lý luận chung về vai trò của đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian
vừa qua.
Chương III: Các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong

thời gian tới.
Trong quá trình thực hiện đề tài này em đã luôn nhận được sự giúp đỡ
chỉ bảo tận tình của TS. Lê Thị Anh Vân; TS. Đào Văn Hải cùng các cô chú
công tác tại Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn
2


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

chân thành tới các cô, các chú. Kính chúc các cô, các chú có sức khoẻ và
công tác tốt.
Chương I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
HÀNG HOÁ
I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1 Khái niệm.
 Khái niệm đầu tư.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đầu tư
Có quan niệm cho rằng
Đầu tư theo nghĩa rộng, có thể hiểu là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả
tiền, nguồn lực, thời gian trí tuệ, công nghệ…) để đạt được mục đích hay
mục tiêu nhất định nào đó. Những mục tiêu này có thể là mục tiêu chính trị,
kinh tế, văn hoá xã hội …và cũng có khi chỉ là qúa trình bỏ vốn (tiền, nhân
lực, nguyên liệu, công nghệ… )vào các hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây được xem như bản chất cơ bản của hoạt
động đầu tư. Có thể nói trong hoạt động kinh tế không có kinh nghiệm đầu
tư không vì lợi nhuận.
Các nhà kinh tế cho rằng:

Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định tương lai, lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là lao động và
trí tuệ
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền,
vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…) tài sản trí tuệ (trình độ văn
3


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật. ..) và nguồn nhân lực có điều kiện để
làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội.
Cho dù đầu tư được quan niệm như thế nào thì bản chất đích thực của
hoạt động đầu tư vẫn là sự ứng trước một lượng vốn nhất định (dưới dạng
tiền hay hiện vật, hoặc sáng chế phát minh, dây chuyền công nghệ…) để
tạo các yếu tố vật chất và lao động, hoàn thành nên hoạt động kinh doanh:
mua máy móc thiết bị, nguyên liệu, thuê mướn nhân công…nhằm thu hút
lại một lượng lớn sau hơn một khoảng thời gian nhất định. Đây là hoạt
động thường xuyên của mọi nền kinh tế và là nền tảng của sự phát triển của
xã hội loại người.
Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào
trong nước vốn dưới dạng tiền hoặc hiện vật được nước nhận đầu tư chấp
nhận để sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận.
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Disect Investmert)
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực
tiếp vào qúa trình điều hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh, chịu trách
nhiệm về kết quả, cùng hưởng lợi và cùng chia sẽ rủi ro tuỳ theo kết quả
của hoạt động kinh doanh và phân vốn góp. Đây là loại hình đầu tư khá phổ

biến hiện nay.
Hay theo điều 1 chương I của luật đầu tư nước ngoài ngày 12/11/1996
quy định: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự
quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm
về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi cao, khống có những ràng buộc
về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho kinh tế.

4


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp
liên doanh tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp cận
được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý… là
những mục tiêu mà các hình thức khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của
chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động của
nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng
dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ
sở, các chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
Chỉ có điều ở đây chủ đầu tư phải đóng góp một lượng vốn đủ lớn, đủ để
họ có quyền tham gia vào việc quản lý doanh nghiệp và chịu trách nhiệm

về kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
1.2 Lợi thế do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại
Như đã nói ở trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đem lại lợi
ích cho cả hai bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Tuy nhiên do tính chất của đề
tài nên bài viết chỉ tập trungvào phân tích ưu thế do đầu tư trực tiếp nước
ngoài mang lại cho bên nhân đầu tư .
 Đầu tư trực tiếp nứơc ngoài tại Việt Nam góp phần chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế đất nước.
Nền kinh tế nước ta vốn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là
chính và đất nước phải trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài đã làm cho đời
sống cuả nhân dân vô cùng khó khăn, gian khổ.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương “Đổi mới” nền kinh
tế xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá mang nặng tính tập trung quan liêu
bao cấp sang chế độ kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
thì nền kinh tế trong nước đã dần dần biến đổi. Trước đây nước ta là một
5


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

nước chủ yếu sống bằng nông nghiệp mà hàng năm vẫn thiếu ăn, từ khi
thực hiện “ đổi mới” nền kinh tế đã có biến đổi to lớn… Nhân dân không
còn cảnh đói cơm, rách áo mà đất nước lại có lương thực dư thừa để xuất
khẩu…Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động tích cực đến tích cực đến
nền kinh tế nước ta, góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhạp
cho người dân lao động, góp phần thực hiện các chương trình kinh tế lớn
của Đảng và Nhà nước đạt kết quả tích cực, trong đó có chương trình
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế đất nước.
Chuyển dịch cơ cáu kinh tế có một vai trò hết sức quan trọng trong
chiến lựơc phát triển kinh tế lâu dài của một quốc gia là một giải pháp được

xây dựng ở tầm vĩ mô mà công cụ chủ yếu là những biện pháp mạnh mẽ
của Nhà nước thông qua những chủ trương, chính sách và pháp luật. Bên
cạnh đó muốn cho chuyển dịch cơ câú kinh tế thành công thì những yếu tố
như: Vốn đầu tư, máy móc kỹ thuật và công nghệ, nhân tố của con người…
cần được quan tâm và phát triển. Những yêu tố giúp cho việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế thành công một mặt phải dựa vào nội lực của đất nước là
chính, song bên cạnh đó cũng cần tranh thủ những đièu kiện thuận lợi từ
bên ngoài để phát triển kinh tế đất nước xu thế này không chỉ được nước ta
vận dụng mà còn được nhiều quốc giá trên thế giới triển khai.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ có chuyển dịch cơ cấu theo
ngành nghề mà còn chuyển dịch cơ cấu theo vùng lãnh thổ để sao cho sự
phát triển giữa các vùng trong một nước được đồng đều, tạo những yếu tố
để các vùng phát huy hết những tiềm năng sẵn có, góp phần vào việc chung
của cả nước.
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần tăng vốn cho đầu
tư phát triển và tăng thu nhập quốc dân.
Theo nguyên lý chung, muốn có tăng trưởng cao phải có đầu tư cao
hay nói cách khác: đầu tư quyết định tăng trưởng. Một số quốc gia khi tiến
hành đầu tư để phát triển kinh tế đều phải dựa vào 2nguồn chủ yếu là
6


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

nguồn vốn trong nước và nguồn vốn của nước ngoài. Nguồn vốn trong
nước là do tích luỹ từ nội tại nền kinh tế có được; nguồn vốn từ bên ngoài
là do đi vay của các nước và các tổ chức tài chính quốc tế, nguồn viện trợ
không hoàn lại và nguồn quan trọng nhất là từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần trang bị kỹ thuật
và công nghệ tiên tiến cho nền kinh tế quốc dân.

Khả năng vốn có của đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những đóng
góp quan trọng cho việc phát triển nền kinh tế Ban chấp hành trung ương
khoá VII có nêu: “Ưu tiên cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là những
công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia tầm cỡ thế giới để tranh thủ chuyển
giao công nghệ hiện đại, khả năng điều hành tiên tiến mở lối vào thị trường
khu vực và quốc tế…” (1)
Để cụ thể hoá luật đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996, Nghị định
12CP ngày 18./12/1997 có nêu: “ Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam tạo
điều kiện thuận lợi và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của bên chuyển
giao công nghệ đặc biệt là công nghệ tiên tiến….(14)
Phía đối tác Việt Nam tham gia các dự án liên doanh phần góp vốn
của phía Việt Nam chủ yếu là đất đai, nhà xưởng mà phần nhà xưởng khi
góp lại ở tình trạng cũ nát và một phần rất nhỏ là vốn bằng tiền.
Ngược lại đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài phần vốn góp
vào liên doanh lại chủ yếu là hiện kim bằng ngoại tệ hiện vật là thiết bị,
máy móc kỹ thuật và công nghệ, bảo quyền, bằng phát minh sáng chế.
Phần đóng góp của nước ngoài nêu trên là những lĩnh vực mà nền
kinh tế Việt Nam vốn rất thiếu và rất cần đựoc bổ sung để thực hiện chiến
lược CNH và HĐH đất nước.
Phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là con đường ngắn
nhất và hiệu quả nhất để phát triển kinh tế đất nước. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tài Việt Nam hiện nay được mở rộng với nhiều hình thức đầu tư như
hình thức hợp tác liên doanh gồm phía đối tác Việt Nam và một hoặc nhiều
7


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

đối tác nước ngoài hay một đối tác phía Việt Nam; hình thức đầu tư với
100% vốn là của nước ngoài...

Khi các dự án đầu tư được thực hiện thì cũng là lúc các nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài đưa các thiết bị kỹ thuật dây chuyền máy móc và công
nghệ …vào Việt Nam để sản xuất - kinh doanh. Đi liền với máy móc hiện
đại là quy trình công nghệ tiên tiến để vận hành sản xuất kinh doanh.
Những người tiếp quản để thực hiện sản xuất kinh doanh ấy có một số rất ít
là người nước ngoài, số còn lại hầu hết là người Việt Nam. Đây là một thời
cơ quan trọng để lực lượng lao động của chúng ta tiếp cận với thiết bị máy
móc hiện đại và công nghệ kỹ thuật tiên tiến của thế giới
Trang thiết bị hiện đại, quy trình công nghệ tiên tiến đã giúp cho các
liên doanh sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ cho xuất khẩu. Đây là một đóng góp
tích cực của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam vào chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu mà Đảng
và Nhà nước ta đề ra
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần đào tạo nhân lực,
tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã có tác động mạnh
mẽ tới mọi tầng lớp trong xã hội nước ta, từ các cơ quan nhà nước các đơn
vị sản xuất kinh doanh đến những người lao động …Để dần phù hợp với cơ
chế thị trường thì việc tổ chức lại bộ máy làm việc, đặc biệt tổ chức lại bộ
máy trong sản xuất kinh doanh đã được các đơn vị quan tâm giải quyết.
Từ thực tế của việc chuyển đổi cơ chế quản lý trong những năm qua
cho thấy:
- Thứ nhất: Khi sắp xếp lại tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh cho
phù hợp với cơ chế thị trường đã dẫn tới một tình hình chung cuả các đơn
vị này là một lượng lao động đáng kể đưa ra mà các đơn vị không có khả
năng bố trí được.
8



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

- Thứ hai: Để thực hiện chủ trương bình đẳng trong sản xuất kinh
doanh, Nhà nước không thể tiếp tục bù lỗ cho các đơn vị làm ăn kém hiệu
quả mà có hướng để các đơn vị này sát nhập hoặc tuyên bố phá sản và như
vậy tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng một số lớn lao động sẽ không có việc làm.
- Thứ ba: Một mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị
trường đối với các doanh nghiệp và người lao động của Việt Nam ta còn
hết sức mới mẻ nhu cầu đào tạo trang bị những kiến thức cần thiết cho
người lao động, từ cán bộ quản lý đến những người lao động có tay nghề
chuyên môn sao cho phù hợp với cơ chế thị trường là một nhu cầu đòi hỏi
có tính chất khách quan và cấp bách của nền kinh tế nước ta.
Để đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế, trong đó có việc
tạo công ăn việc làm cho người lao động, đào tạo một lớp người mới có
trình độ nghiệp vụ, có tay nghệ kỹ thuật phù hợp với đòi hởi của nhiệm vụ
sản xuất , kinh doanh theo cơ chế thị trường thì đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam trong thời gian vừa qua được triển khai cho thấy đã góp pàn
đắc lực vào việc đào tạo một đội ngũ đông đảo những nhà quản lý, những
người lao động có trình độ kỹ thuật, có tay nghề cao và giải quyết được
nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Từ chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mở ra những cơ hội mới để lực lượng lao
động trong nước ta tiếp cận với phương thức quản lý và điều hành theo cơ
chế thị trường. Đồng thời người lao động nước ta cần được đào tạo, trang
bị những kỹ năng vận hành đối với các loại máy móc và quy trình công
nghệ hiện đại của thế giới mà trước đó chưa có điều kiện biết tới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài triển khai đã thu hút hàng trăm nghìn lao
động có việc làm cổn định, có thu nhập bình quân khá cao so với thu nhập
bình quân của nười lao động khác trong nước, tạo ra sự ổn định về đời sống
kinh tế xã hội nước nhà.


9


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm qua đã đóng
góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước.
Thực hiện quản lý theo cơ chế thị trường, nguồn thu về tài chính bổ
sung vào ngân sách nhà nước đã có nhiều thay đổi. Phần lớn những khoản
nộp vào ngân sách trước đây của các doanh nghiệp nay đã thay bằng các
loại thuế. Để duy trì từ mọi hoạt động của cơ quan nhà nước bao gồm các
cơ quan chính quyền từ TW đến cấp quản lý phường xã ; duy trì hoạt động
của các lực lượng vũ trang đến các hệ thống giáo dục đào tạo, dạy nghề, hệ
thống an ninh xã hội…tất cả phần lớn đều trông chờ vào nguồn thu ngân
sách quốc gia.
Nguồn thu ngâ sách nhà nước không những trang trải cho các nhu cầu
trên mà còn đóng góp một phần đáng kể vào vốn đầu tư nhà nước đầu tư
cho các công trình xây dựng cơ bản , công trình cơ sở hạ tầng, góp phần
vào công cuộc phát triển đất nước.
Theo niên giám thống kê năm 1999 cho thấy nguồn thu vào ngân sách
nhà nước gồm những nguồn lớn như: Nguồn thu từ thuế chiến một tỷ trọng
lớn, thuế từ khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, thuế từ
kinh tế TW và kinh tế địa phương, thu từ các ngành: sản xuất nông nghiệp,
xuất nhập khẩu …Đặc biệt khoản thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài những năm gần đây đã dần dẫn chiếm tỷ lệ đáng kể
trong tổng các khản thu từ ngân sách nhà nước ta. Năm 1997 chiếm 7% và
năm 1998 chiếm 8,4%.
2. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1 Khái niệm.

Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực
hiện các hoạt động kinh tế trên thị trường nhằm mục đích làm tăng giá trị
tài sản của chủ sở hữu.

10


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là doanh nghiệp sử
dụng vốn dưới dạng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức cá nhân nứơc ngoài
vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
2.2 Phân loại doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư nước ngoài được thông qua nhiều hình thức như hợp đồng hợp
tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài; hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT); hợp
đồng phân chia sản phẩm (PSC) cho thuê thiết bị.
Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài còn được đầu tư vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao dưới các hình thức hợp đồng hợp
tác kinh doanh, liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Dưới đây sẽ là hai loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài phổ biển nhất.
 Liên doanh: Là hình thức đầu tư do 2 bên cùng nhau góp vốn theo 1
tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và
ban giám đốc điều hành riêng và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, ăn chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ
vốn góp.
Về thực chất đây là sự chung vốn giữa nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
với nhà đầu tư nước sở tại để hình thành nên một doanh nghiệp thống nhất
về cơ cấu tổ chức, kinh tế kỹ thuật. Nói cụ thể hơn, đó là sự góp riêng

thành một vốn chung, tạo nên một cơ sở vật chất chung để thực hiện một
nhiệm vụ chung, cùng hưởng lãi và chia sẽ rủi ro theo phần vốn góp.
Hình thức này thường được tiến hành khi cả 2 bên cùng có lợi. Đó là
lúc mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cần dựa vào đối tác nứơc sở tại để
có thể tiếp xúc với môi trường đầu tư mới khi mà họ chưa thật sự hiểu biết
nhiều về nó, một nơi mà tuy hứa hẹn nhiều tiềm năng nhưng rất có thể cũng
ẩn chứa nhiều rủi ro và nguy cơ.

11


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Hình thức liên doanh cũng giúp cho các chủ đầu tư trực tiếp nước
ngoài có thể nhanh chóng giải quyết các thủ tục cần thiêts cho việc đầu tư.
Có thể nói bằng hình thức nàu họ đã tạo ra được một ‘tay trong”, người am
hiểu về luật pháp, thông lệ và tập quán của nước sở tại, và là một yếu tố
quan trọng giúp họ nhanh chóng thực hiện được nguyện vọng đầu tư của
mình, điều mà một mình họ khó có thể thực hiện được. Còn nhà đầu tư
trong nước cần đủ vón để họ được phép kinh doanh trong những ngành
nghề có mức vốn tối thiểu theo quy định cần khoa học công nghệ và cả
kinh nghiệm quản lý, thông tin về thị trường, về bạn hàng.. .Do đó hình
thức hùn vốn kinh doanh là hình thức được cả 2 bên lựa chọn, đặc biệt là
khi bắt đầu đầu tư vào thị trường mới. Chính phủ các quốc gia chậm phát
triển rất coi trọng hình thức này vì nó giúp nước sở tại tiến bộ rất nhanh về
nhiều mặt như tạo thêm công ăn việc làm giúp tiếp thu công nghệ mới,
phương pháp quản lý hiện đại, ý thức tổ chức kỹ thuật và tác phong làm
việc công nghiệp. Hơn nữa, sự có mặt trực tiếp của thành viên nước sở taị
trong hội đồng quản trị cùng tham gia điều hành trực tiếp doanh nghiệp, mà
chính phủ nước sở tại có thể nắm bắt được ý đồ đầu tư của các chủ tư bản

nước ngoài và kịp thời điều chỉnh nếu hoạt động của doanh nghiệp này làm
phương hại đến lợi ích quốc gia, đến lợi ích của người lao động nước
mình… đồng thơì cũng thông qua hoạt động điều hành quản lý doanh
nghiệp mà có thể nhanh chóng nắm bắt được thị trường, được bạn hàng
quen của các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài để có thể vươn lên làm chủ
trong tương lai.
 Đầu tư độc lập, tạo ra các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây
là hình thức độc lập đầu tư của các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài, là việc
các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ 100% vốn, xây dựng doanh nghiệp
của mình trên lãnh thổ của nước sở tại và chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết
quả hoạt động kinh doanh cũng như tự mình gánh chịu mọi rủi ro nếu có.
Nước sở tại không góp vốn nhưng cung cấp cho bên nước ngoài các dịch
12


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

vụ cần thiết và cho thuê đất đại, lao động… Tuy nhiên doanh nghiệp loại
này cũng có nhiều loại: có loại hoạt động như một doanh nghiệp nội địa có
loại hoạt động trong KCX, KCN, khu công nghệ cao, khu mậu dịch tự do.
Mỗi loại hình đầu tư nói trên có những mặt ưu điểm và nhược điểm
nhất định đối với nhà đầu tư cũng như đối với nước chủ nhà. Các nhà đầu
tư thường thích hình thức độc lập, tức là bỏ 100% để hoàn thành doanh
nghiệp. Nhưng đôi khi độc lập cũng sẽ bị gây khó khăn và có khi phải gánh
chịu nhiều rủi ro đặc biệt khi đầu tư vào một môi trường mới, mà ở đó mọi
luật lệ chưa rõ ràng hoặc hay thay đổi. Trong trường hợp này nhà đầu tư
thường chọn biện pháp mềm dẻo hơn đó là liên doanh.
Tuy nhiên khi những tính toán này không được các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài chấp nhận sẽ dẫn đến tỷ trọng bên đối tác nước ngoài rút
lại, đi tìm thị trường đâù tư khác thông thoáng hơn có lợi cho họ hơn và

như vậy mục tiêu đề ra là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ không thực
hiện được. Vì thế phải tính toán sao cho cả hai bên cùng có lợi.
3. Hoạt động xuất nhập khẩu
3.1. Khái niệm
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá và dịch
vụ của nước này đối với nước khác và ngoại tệ được lấy làm phương tiện
thanh toán. Sự mua bán trao đổi này là hình thức của mối quan hệ xã hội và
phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá
riêng biệt của các quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu đối với một quốc gia là cần thiết vì lý do cơ
ban là khai thác đựơc lợi thế so sánh của các nước xuất khẩu và mở ra tiêu
dùng trong nước nhập khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm
vi quốc tế có điều kiện không gian và thời gian. Nó không phải là hành vi
mua bán riêng lẻ mà nó có một hệ thống các quan hệ mua bán trong một
nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài song hoạt động mua
13


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

bán ở đây có những sự khác biệt phức tạp hơn mua bán trong nước, các chủ
thể thực hiện hành vi mua bán có các quốc tịch khác nhau và hàng hoá để
mua bán được đưa tới một quốc gia khác.
Một thực tế cho thấy một quốc gia cũng như một cá nhân không thể
sống riêng lẻ tự cung tự cấp mà có thể đầy đủ. Nền thương mại quốc tế có
tính chất sống còn cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng để có số
lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn, có thể tiêu thụ cùng với ranh giới của
khả năng sản xuất trong nước cao hơn khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp
không buôn bán.

Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn
hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu
của con người ngày một nhiều hơn, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nước cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu
mậu dịch và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất
nếu không có hoạt động trao đổi mua bán với quốc gia khác. Chuyên môn
hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của quy luật lợi thế so sánh.
Quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất , coi đó là
chìa khoá của các phương thức thương mại. Quy luật này cũng khẳng định:
nếu mỗi nước chuyên môn hơn vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế
tương đối hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại có lợi cho
cả hai bên.
Sự khác biệt nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được phần nào
việc buôn bán giữa các nước, nên sẽ có lợi thế khi mỗi nước chuyên môn
hoá để sản xuất các mặt hàng thích hợp cho xuất khẩu và nhập khẩu những
mặt hàng cần thiết từ các nước khác. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho
chi phí sản xuất giảm.
Hoạt động xuất nhập khẩu có thị trường khá rộng lớn, khó kiểm soát
thành phần trung gian trong hoạt động xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá
lớn hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới cửa khẩu. Các quốc gia khi
14


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu đều phải tuân theo các tập quán
thông lệ quốc tế cũng như các quy định ở địa phương nơi họ đưa hàng hoá
đến. Đồng thời thanh toán thường là ngoại tệ mạnh hoặc đổi lại hàng hoá.
Hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta là một trong những vấn đề được
coi trọng hàng hoá đầu trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Do vậy Đảng

và nhà nước đã có chủ trương mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại trong đó
chú trọng đến lĩnh vực vật tư và thương mại hàng hoá dịch vụ.
3.2 Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với kinh tế quốc dân
Trước thập kỷ 80, Việt Nam và một số nước đã có lúc xem vấn đề độc
lập về kinh tế như một mục tiêu để phấn đấu nhưng thực tế đã chứng minh
không một quốc gia nào lại có thể phát triển nếu không có sự tham gia của
thương mại quốc tế. Cuối thập kỳ 80 nhận thấy sự sai lầm trong đường lối
phát triển kinh tế cũng như sự phát triển toàn diện của đất nước, Việt Nam
đã thay đổi cách nghĩ và đổi mới đường lối phát triển kinh tế. Đó là đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
Việt Nam mong muốn được làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng
cùng có lợi quan hệ ngoại giao với 165 quốc gia và có quan hệ buôn bán
với trên 100 nước hợp tác đầu tư với hơn 50 nước. Trong quá trình phát
triển đường lối kinh tế đối ngoại, Việt Nam rất coi trọng quan hệ xuất nhập
khẩu, bởi: xuất khẩu là biểu hiện tích cực của nền kinh tế, nhờ có xuất khẩu
mà kích thích sản xuất trong nước phát triển, thu được ngoại tệ nhằm phục
vụ cho thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ cho CNH - HĐH đất nước.
Xuất nhập khẩu sẽ phát huy tính năng động sáng tạo của con người, chuyên
môn hoá được hình thành và phát triển.
Dựa trên nguyên lý lợi thế so sánh thì một quốc gia phải được tiến
hành song song đồng bộ với nhau. Có như vậy thì nền kinh tế quốc dân mới
phát triển đồng bộ, bền vững.
3.3 Các yếu công tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu
15


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Yếu tố pháp luật: Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra với sự tham gia

của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. ở mỗi một quốc gia đều có
những bộ luật riêng, trình độ lập pháp hành pháp, tư pháp phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế ở các quốc gia đó. Các yếu tố luật pháp không
chỉ chi phối hoạt động kinh doanh ở trên chính các quốc gia đó mà nó còn
ảnh hưởng tới các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Đã có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì trước hết
doanh nghiệp phải hiểu rõ môi trường pháp luật ở chính quốc gia mình và
quốc gia của đối tác cùng các thông lệ quốc tế hiện hành, vì chính các yếu
tố pháp luật có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo
ra các cơ hội mới cho doanh nghiệp để tăng doanh số bán hàng, tăng lợi
nhuận kinh doanh, khải thác được các cơ hội trong kinh doanh, mở rộng
hoạt động trên thị trường thế giới.
 Yếu tố kinh tế: Yếu tố kinh tế bao gồm các yếu tố sau: Chính sách
tiền tệ, chính sách tài chính,vấn đề lạm phát, thuế quan. Yếu tố kinh tế có
tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Ở tầm vi mô, yếu tố kinh tế ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức và hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Còn ở tầm vĩ mô, yếu tố kinh tế tác động đến đặc
điểm và sự phân bố của các cơ hội kinh doanh quốc tế và quy mô thị
trường quốc tế.
 Yếu tố khoa học công nghệ: Một doanh nghiệp muốn có những sản
phẩm đạt chất lượng cao để tự khẳng định mình khi tham gia vào qúa trình
thương mại quốc tế thì không thể không áp dụng những thành tựu của khoa
học vào quá trình sản xuất .
Các yếu tố khoa học - công nghệ có mối quan hệ khó chặt chẽ với các
yếu tố kinh tế nói chung và tới hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Khi
khoa học công nghệ phát triển sẽ cho phép doanh nghiệp thực hiện công

16



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

việc chuyên môn hoá ở mức cao hơn, tay nghề của người lao động ngày
càng được củng cố và nâng cao.
Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có được sự nhạy
bén trong việc nhận biết các thông tin, sự kiện đang xảy ra xung quanh.
Khoa học công nghệ phần nào giúp cho doanh nghiệp hiểu được thị hiếu,
nhu cầu kịp thời với sự biến đổi của thị trường.
Khoa học công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính, điện gia
dụng, các sản phẩm giải trí và hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu đã làm
tăng khả năng truyền đạt nhận biết các thông tin về ý tưởng cải tiến hoặc
đổi mới sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp có khả năng bắt kịp với sự phát
triển chung, đẩy lùi lạc hậu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Khoa học công nghệ giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu và nắm bắt chính
xác về bạn hàng, khách hàng, đối tác làm ăn về các phương diện để từ đó
có thể hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
Hơn nữa, doanh nghiệp có thể áp dụng thành tựu của khoa học vào
việc thiết kế, thử nghiệm, cái tiến sản phẩm, phân tích và dự báo xu hướng
biến động của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
 Yếu tố chính trị: Yếu tố chính trị có thể là yếu tố khuyến khích hoặc
yếu tố hạn chế quá trình xuất nhập khẩu.
Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thiết lập các quan
hệ là sự tác động mang tính tích cực, làm tăng cường sự liên kết các thị
trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu.
Chính sách của chính phủ đặt ra để bảo vệ các doanh nghiệp trong
nước và thị trường nội địa bởi sự cạnh tranh của nứơc ngoài với chính sách
kinh tế có lợi cho doanh nghiệp trong nước bằng các hình thức như hàng
rào thuế quan. Nhưng ngược lại, sự không ổn định về chính trị sẽ làm chậm
tốc độ tăng trưởng kinh tế và kìm hãm các mối quan hệ quốc tế.
Nhiều nơi trên thế giới hiện nay, sự bất ổn định về chính trị và các

cuộc chiến tranh sắc tộc diễn ra liên tục. Tại đây sự an toàn trong kinh
17


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

doanh là không cao hoặc không có. Điều này để làm cho các doanh nghiệp
đang hoạt động tại đó phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh của mình. Họ
phải đánh giá lại các cơ hội liên doanh trên thị trường và phân bổ lại nguồn
lực sang các thị trường khác nơi có độ an toàn cao hơn.
Một xã hội phát triển khi mà chính phủ thể hiện sự quan tâm của mình
tới đời sống của nhân dân. Cũng như vậy, các doanh nghiệp muốn đạt được
mục tiêu kinh tế thì phải thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng. Do
đó sự quan tâm của xã hội được thể hiện qua mục tiệu về xã hội như nhà
nước tăng cường các quy định về cạnh tranh, các quy định về tiêu chuẩn
sản phẩm nhãn hiệu, an toàn vệ sinh kinh tế thị trường, Việt Nam cũng như
các nước tiến hành “mở cửa” nền kinh tế với thị trường. Sự chuyển đổi
này ảnh hưởng tới cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang hoạt
động và mở ra các cơ hôị kinh doanh mới trong các thị trường bị hạn chế
trước đây. Các doanh nghiệp không có phép linh hoạt sẽ chịu quy luật đào
thài của sự cạnh tranh.
Vậy các yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến việc mở rộng phạm vi tiêu
thụ sản phẩm và mở ra các cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp. Song
chính các yếu tố hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
 Yếu tố văn hoá xã hội: Các yếu tố văn hoá xã hội có thể là: lối sống,
phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, thị hiếu…của người
tiêu dùng.
Các yếu tố văn hoá xã hội có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu thị
trường làm nền tảng cho sự xuất hiện thị hiếu tiêu dùng, nó có tính chất
quyết định đến hoạt động xuất nhập khẩu của các đơn vị.

Hoạt động xuất nhập khẩu được coi là hoạt động hết sức phức tạp vì
hoạt động xuất nhập khẩu chịu sự tác động của nền văn hoá -xã hội của
nhiều quốc gia có quan hệ ngoại thương.
 Yếu tố thuộc về doanh nghiệp: Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp
tới hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
18


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Ban lãnh đạo doanh nghiệp: Đây là bộ phận đầu não của doanh
nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp để đề ra
các mục tiêu, chiến lược phát triển công ty đồng thời giám sát, kiểm tra và
đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề ra. Ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu khi ra chiến lược kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức bộ máy: Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ loại trừ sự bất
hợp lý cùng các nhiều trong sự truyền tải thông tin từ ban lãnh đaọ đến các
thành viên trong doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức này cũng có thế sửa đổi bổ
sung lượng thông tin kịp thời, chính xác, đúng vị trí một cách nhanh chóng.
Đồng thơì cơ cấu tổ chức cũng ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong kinh
doanh bởi cách tổ chức theo từng loại cơ cấu như: Trực tuyến chức năng,
trực tuyến tham mưu… Cơ cấu tổ chức phải tìm được cách tổ chức hợp lý
sao cho phát huy được hết sức mạnh của từng ban ngành, bộ phận tạo hiệu
quả kinh doanh cao nhất.
Nguồn lực của công ty: Hoạt động xuất nhập khẩu chỉ có thể tiến hành
tốt khi đã có sự nghiên cứu thị trường. Do đó vấn đề ở đây là phải có được
đội ngũ cán bộ kinh doanh có chuyên môn trong lĩnh vực này, có kiến thức
về thị trường quốc tế cũng như cách giải quyết các thủ tục hành chính trong
hoạt động xuất nhập khẩu .
Ngoài ra, một doanh nghiệp hoạt động được tốt thì cũng cần có hệ

thống cơ sở vật chất hoàn chỉnh như văn phòng, nhà xưởng, trang thiết bị…
phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh .
 Yếu tố về sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một loại sản
phẩm được sản xuất ra đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Nhà sản
xuất phải biết thị trường cần gì, trên cơ sở đó sản xuất kịp thời để phục vụ.
Doanh nghiệp phải thực hiện theo phương châm sản xuất cái gì mà thị
trường cần chứ không phải sản xuất cái gì mà nhà sản xuất có. Có như vậy
thì hàng hoá của doanh nghiệp mới có thể thu hút được khách hàng.

19


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

 Yếu tố đồng tiền thanh toán: Phương thức thanh toán luôn gắn liền
với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoại tệ mạnh là phương tiện thanh toán
chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế. Nếu đồng ngoại tệ biến động thì
cũng sẽ ảnh hưởng đến các bên tham gia. Một hoặc một số các bên tham
gia sẽ bị thiệt cũng như lợi tuỳ theo đồng tiền giao dịch mất gía hay được
giá so với đồng tiền của mình. Đồng tiền giao dịch cần được ổn định để cho
các bên tham gia cũng có lợi.
II. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá:
1. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu nói riêng ở Việt Nam trong
thời gian qua.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động xuất khẩu, ngay từ
thời gian đầu thực hiện đường lối "Đổi mới" nền kinh tế với 3 chương trình
kinh tế lớn trong đó có chương trình sản xuất hàng xuất khẩu. Tại văn kiện
hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành TW khoá 7 đã khẳng định. "Thực hiện

chiến lược về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả…" hay "…xuất khẩu càng phát
triển, khả năng thu hút đầu tư nước ngoài càng lớn…" (1) đã cho ta thấy
một chủ trương nhất quán, một quyết tâm mạnh mẽ mong muốn đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu hàng hoá để phát triển kinh tế đất nước.
 Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng cường thêm
nguồn vốn cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
Với bất cứ một chương trình kinh tế nào được đề ra, muốn đạt được
hiệu quả thì việc đòi hỏi đầu tiên là một hệ thống chủ trương chính sách và
pháp luật được đề ra một cách đồng bộ và hoàn chỉnh phù hợp với điều
kiện kinh tế trong nước và xu hướng phát triển của thế giới, mặt khác phải
có tài chính để triển khai thực hiện chương trình kinh tế đó. Cũng như các
chương trình kinh tế khác, chương trình sản xuất hàng xuất khẩu cũng cần
20


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

rất nhiều vốn, vốn cho đầu tư máy móc kỹ thuật và công nghệ, vốn cho đào
tạo nhân lực, vốn cho xúc tiến thương mại.
Trong bối cảnh nền kinh tế của Việt Nam nhiều khó khăn, nhất là thiếu
vốn cho nhiều nhu cầu của nền kinh tế thì việc dành vốn cho chương trình
sản xuất hàng xuất khẩu là một việc không đơn giản. Do đó Nhà nước ta đã
có chủ trương kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành sản
xuất hàng xuất khẩu. Chính vì ưu tiên cho chương trình sản xuất hàng xuất
khẩu cho nên trong các điều khoản của đường lối chính sách đã quy định
các mức độ khác nhau về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy ở thị trường Việt Nam có một
đội ngũ lao động hùng hậu, có trình độ văn hoá, có tay nghề ở mức chấp

nhận được và có mức lương khá thấp so với các nước trong khu vực. Mặt
khác Việt Nam có ưu thế là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên ưu đãi, có
vị trí địa lý thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán và có chế độ chính trị ổn
định. Đây là những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của thị trường đầu tư Việt
Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu, Nhà nước Việt Nam đã dành
nhiều ưu tiên cho các nhà đầu tư nước ngoài như ưu đãi về thuế xuất nhập
khẩu, ưu đãi về các khoản trích nộp lợi nhuận…Nhà nước đã thành lập ra
các KCX, các KCN với một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, như: đường giao
thông, hệ thống điện nước, thông tin liên lạc…và các biện pháp quản lý
thông thoáng để các nhà đầu tư triển khai sản xuất, gia công, lắp ráp các
sản phẩm để dành cho xuất khẩu. Kết quả của các biện pháp khuyến khích
trên đã tạo nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất
hàng xuất khẩu ở Việt Nam và doanh số xuất nhập khẩu không ngừng ra
tăng trong khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu đã có tỷ trọng ngày càng lớn
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước nhà.
21


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

 Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp
vào hoạt động xuất khẩu bằng cách tăng thêm mặt hàng xuất khẩu và mở
rộng thị trường xuất khẩu mới của nước nhà.
So với trình độ và kinh nghiệm của doanh nghiệp sản xuất trong nước,
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu thế hơn hẳn,
những ưu thế đó thường về vốn, trình độ máy móc kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến, trình độ về đào tạo và quản lý, trình độ cung cấp các dịch vụ và
một thị trường bạn hàng xuất nhập khẩu…

Từ việc nắm bắt các nhu cầu của thị trường thế giới một cách nhanh
nhậy đã giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạch định và đề ra một chiến
lược sản xuất có hiệu quả cao. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam thường là vệ tinh, các chi nhánh của các công ty,
tập đoàn nước ngoài, do vậy việc bao quát, nắm bắt thị trường thế giới có
rất nhiều thuận tiện, việc đầu tư vào thị trường Việt Nam nhằm sản xuất
kinh doanh ngành hàng gì, mặt hàng gì…là nằm trong chiến lược sản xuất kinh doanh của các công ty, tập đoàn nước ngoài, ngoài mục đích chiếm
lĩnh thâm nhập thị trường nước ta, còn có nhu cầu sản xuất để xuất khẩu và
như thế phù hợp với mục đích khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu cuả
ta, sự gặp gỡ đó đã là một trong những điều kiện để giúp cho các liên
doanh đi đến thành công.
Bằng những máy móc kỹ thuật và công nghệ cao, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã sản xuất ra nhiều mặt hàng
mới có chất lượng cao, đóng góp thêm phong phú các mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Trong bối cảnh cạnh tranh đang diễn ra một cách quyết liệt
trên thương trường quốc tế, yếu tố chất lượng sản phẩm có một vai trò vô
cùng quan trọng, khi kết hợp với yếu tố về giá thành sản phẩm thấp hơn sẽ
có nhiều cơ hội thành công.
Thị trường xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp có nhiều lợi thế so với đa phần các doanh nghiệp trong nước, bởi lẽ họ
22


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

nắm bắt được nhu cầu của thị trường thế giới, do vậy họ dễ dàng đề ra một
chiến lược sản xuất và tiếp cận thị trường hợp lý. Trong điều hành sản xuất
họ áp dụng biện pháp quản lý tiên tiến, hợp lý hoá mọi công đoạn của quá
trình sản xuất và bao tiêu sản phẩm để mang lại hiệu quả kinh tế cao…cùng
với những ưu thế về vốn , máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ (như

đã trình bày ở phần trên) đã là một cơ sở vững chắc để cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đóng góp một cách
có hiệu quả vào chương trình phát triển xuất khẩu của nước nhà.
 Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
đã đóng góp cho tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta ngày một gia
tăng, đặc biệt là đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu, làm lành mạnh cán cân
thanh toán thương mại.
Khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
đi vào thực hiện thì cũng là lúc các nhà đầu tư triển khai các lĩnh vực hoạt
động đặt nền móng cho việc làm ăn lâu dài tại Việt Nam, các lĩnh vực đó
bao gồm. Triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà xưởng điện nước…bỏ
vốn ra nhập khẩu máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ, nhập khẩu
nguyên nhiên vật liệu mà tại nước ta chưa có điều kiện để đáp ứng…Như
vậy ngay từ đầu khi bắt tay vào triển khai dự án đầu tư, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã tham gia vào hoạt động
nhập khẩu, số kim ngạch nhập khẩu này được tính chung cho tổng số kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam mà Nhà nước ta không phải bỏ hết tổng số
ngoại tệ nhập khẩu , đây là một ưu điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
mang lại cho nước được nhận đầu tư. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không nhằm để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
trong nước mà nhằm để sản xuất ra hàng hoá phục vụ tiêu dùng và xuất
khẩu. Khi Nhà nước ta có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp
hướng mạnh về xuất khẩu như giảm thuế và một số khoản đóng góp, có
quỹ hỗ trợ xuất khẩu…Các nhà đầu tư nước ngoài đã tranh thủ các ưu đãi
23


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

của Nhà nước ta để đẩy mạnh xuất khẩu. Do có ưu thế hơn các doanh

nghiệp trong nước, nên kết quả xuất nhập khẩu đã nhanh chóng đạt được
những kết quả đáng khích lệ, nhất là kim ngạch xuất khẩu bởi sản phẩm có
sức cạnh tranh cao trên thương trường quốc tế.
Chỉ tiêu một thời gian ngắn triển khai các dự án đầu tư, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã từng bước tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài và đã đóng
góp ngày càng tăng đáng kể vào tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam.
Tuy kim ngạch xuất khẩu chưa tương xứng với kim ngạch nhập khẩu,
thời gian đầu kim ngạch xuất khẩu tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam chưa có và kim ngạch nhập khẩu lại ra tăng
nhanh chóng, đến những năm gần đây kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng và
đồng thời kim ngạch xuất khẩu hình thành và ra tăng với tốc độ nhanh hơn
so với tốc độ của kim ngạch nhập khẩu, đây là một tín hiệu đáng mừng, nó
chứng minh cho một điều là tăng nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng
nhập khẩu thiết bị máy móc để phát triển sản xuất, tăng nhập khẩu nguyên
nhiên vật liệu ở trong nó chưa có điều kiện đáp ứng để sản xuất ra hàng hoá
phục vụ tiêu dùng xã hội và tham gia xuất khẩu. Khi kim ngạch xuất khẩu
được gia tăng tương xứng sẽ là bằng chứng cụ thể để đánh giá hiệu quả cuả
nhập khẩu. Bước tiếp theo của phát triển phát triển xuất khẩu nhằm phát
triển sản xuất trong nước và phát triển sản xuất để đẩy mạnh xuất khẩu, đây
là một chu trình có quan hệ hữu cơ và quan hệ nhân quả với nhau. Thực
tiễn hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần làm sáng tỏ luận cứ này.
Tăng cán cân xuất khẩu là góp phần giảm thâm hụt thương mại, tiến
tới cân bằng và thặng dư trao đổi mậu dịch quốc tế của nước nhà, đây là
một định hướng đúng đắn mà nền kinh tế Việt Nam cần hướng tới, khi có

24



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

sự trợ giúp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam thì định hướng này ngày càng có cơ sở để thực hiện.
Tăng kim ngạch xuất khẩu nói chung và của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng sẽ tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại
tệ cho quốc gia, góp phần ổn định tài chính tiền tệ, tạo môi trường lành
mạnh để phát triển kinh tế đất nước.
Ngoài những đóng góp vào tăng kim ngạch xuất nhập khẩu như đã
nêu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam còn
cung cấp những dịch vụ có chất lượng cao góp phần đáng kể vào thúc đẩy
công tác xuất nhập khẩu của nước nhà, những dịch vụ đó bao gồm:
- Dịch vụ tài chính ngân hàng, giúp cho việc thanh toán quốc tế được
dễ dàng thuận tiện, tạo lòng tin cho khách hàng có quan hệ buôn bán với
Việt Nam.
- Dịch vụ vận tải chuyên chở , đây cũng là một lĩnh vực các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đóng góp bổ xung
cho công tác dịch vụ vận tải chuyên chở của nước nhà, tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Dịch vụ bảo hiểm: đây là một yêu cầu quan trọng của công tác xuất
nhập khẩu, bởi thực hiện bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu tốt, sẽ góp
phần tránh những rủi ro tổn thất cho các nhà xuất nhập khẩu và góp phần
phát triển kinh tế đất nước.
- Ngoài ra còn có các dịch vụ tư vấn về pháp luật, cung cấp thông tin,
marketging thị trường…hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xuất nhập khẩu của
nước nhà.
2. Ví dụ minh hoạ một số nước:
* Hơn ba thập kỷ qua, Malaixia được xem là một trong rất ít các nước
đang phát triển thành công trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để tăng

sản lượng quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động đến sản lượng
của toàn ngành công nghiệp. Các nghiên cứu thực nghiệm đã sử dụng
25


×