Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận tại sao nói tái bảo hiểm giúp cho những công ty nhỏ, mới ra đời tồn tại và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH


Đề tài : Tại

sao nói tái bảo

hiểm giúp cho những cơng ty nhỏ, mới ra
đời tồn tại và phát triển.

GVHD: TS. Nguyễn

Tấn Hồng
SVTH :

Nguyễn Quốc Nam Bình
Huỳnh Thị Phương Dung
Nguyễn Việt Kha
Phạm Ngun Long
Phạm Lê Duy Nhân
Vũ Thị Hà Phương

Tp.Hồ Chí Minh

05/09/2016


THÀNH VIÊN THỰC HIỆN
1.
2.


3.
4.
5.
6.

Nguyễn Quốc Nam Bình- NH06
Huỳnh Thị Phương Dung- NH06
Nguyễn Việt Kha- NH05
Phạm Nguyên Long- NH06
Phạm Lê Duy Nhân- NH06
Vũ Thị Hà Phương- NH06


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................

...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................
...................................................................................................................


MỤC LỤC
I. LÝ LUẬN CHUNG............................................................................................................1
1..............................................................................Bản chất của tái bảo hiểm
..................................................................................................................................1
2.Chức năng của tái bảo hiểm.....................................................................................3
3.Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm..........................................................................3
4.Các hình thức tái bảo hiểm......................................................................................6
5.Vai trò kinh tế của các hình thức tái bảo hiểm.........................................................7
II. TÁI BẢO HIỂM- CƠ HỘI CHO CÁC CÔNG TY NHỎ, MỚI THÀNH LẬP12
1. Những khó khăn của công ty nhỏ, mới thành lập.................................................12
2. Tái bảo hiểm giúp các công ty nhỏ, mới thành lập như thế nào?.........................15

III. THỰC TRẠNG, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC.................................................17
1. Một số nét chính của thị trường............................................................................17
2.Cơ hội và thách thức đối với các công ty tái bảo hiểm Việt Nam.........................23
3. Giới thiệu tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc giaViệt Nam.........................24
KẾT LUẬN....................................................................................................................................33


I. LÝ LUẬN CHUNG
1. BẢN CHẤT CỦA TÁI BẢO HIỂM
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế. Nó bao gồm các quá trình phân phối lại nhằm đáp ứng
nhu cầu đảm bảo của xã hội. Đặc trưng của nó là việc thành lập mang tính chất tập thể một quỹ
dự trữ tài chính thông qua sự vận dụng các quy luật thống kê và nguyên tắc cân đối cũng như
việc phân phối mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để đáp ứng những nhu cầu có thể dự đoán được
trong tương lai phát sinh ra từ những sự cố bất ngờ gây thiệt hại hay xảy ra.
Phân tích sâu hơn ta thấy khái niệm bảo hiểm chứa đựng hai yếu tố cơ bản sau:
 Tính tập thể của việc thành lập quỹ dự trữ, có nghĩa là mỗi thành viên tham gia bảo hiểm
đều phải đóng góp một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm). Phí này được tính dựa trên quy luật
thống kê (bao gồm thống kê tổn thất và mức độ trung bình của các tổn thất, thống kê các đơn vị
rủi ro) và nguyên tắc cân đối (có nghĩa là tổng số phí thu phải bằng tổng số tiền chi trả bồi
thường).
 Tính riêng rẽ của việc phân phối quỹ dự trữ, có nghĩa là chỉ phân phối quỹ cho những
thành viên khi có rủi ro bất ngờ gây thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra. Những rủi ro bất
ngờ này về tổng thể phải dự đoán được và hay xảy ra.
Trên đây cũng là những yếu tố cơ bản cần phải chú ý khi tiến hành việc lập, quản lý và
phân phối quỹ tiền tệ thông qua hình thức bảo hiểm. Do có đặc thù trên nên bảo hiểm có sự đóng
góp nhất định vào việc đảm bảo tính liên tục, sự ổn định và hiệu quả của quá trình sản xuất, lưu
thông và tiêu dùng xã hội. Dựa theo các rủi ro được bảo hiểm, các ngành kinh tế khác nhau và
các quá trình tiến hành bảo hiểm được chia thành nhiều loại và được tổ chức thành một hệ thống
độc lập của nền kinh tế quốc dân (ở nhiều nước nó còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một
trong những loại hình đó là tái bảo hiểm.

Đối với các nước có nền kinh tế tập trung như Việt Nam, tái bảo hiểm là một lĩnh vực đặc
biệt của hệ thống bảo hiểm nhà nước và đồng thời cũng là một bộ phận của ngành kinh tế đối
ngoại mà chủ yếu là các quan hệ tài chính đối ngoại. Về khái niệm, tái bảo hiểm là một hình thức
bảo hiểm lại những rủi ro đã được bảo hiểm khác nhau (công ty tái bảo hiểm). Nói cách khác, tái
bảo hiểm là bảo hiểm cho người bảo hiểm. Cũng như đối với các loại hình bảo hiểm khác, việc
tiến hành nghiệp vụ tái bảo hiểm đòi hỏi phải có các điều kiện sau:
5


 Số lượng rủi ro phải đủ lớn để quy luật số đông phát huy được tác dụng và qua đó yếu tố
ngẫu nhiên được loại trừ.
 Mức độ tổn thất có thể xảy ra từ các rủi ro được bảo hiểm không được phép chênh lệch
quá lớn, cũng như không được phép có nhiều tổn thất quá lớn xảy ra trong số hợp đồng bảo hiểm
(tình trạng này dẫn đến sự không đồng nhất trong hợp đồng bảo hiểm).
 Khả năng thường xuyên xảy ra tổn thất (Nếu không có điều kiện này thì không phát sinh
nhu cầu bảo hiểm).
Ở đây cần phải phân biệt sự khác nhau của tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm. Mặc dù có
điểm giống nhau giữa tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm là cùng có nhiều công ty bảo hiểm tham
gia cho cùng một đơn vị rủi ro, nhưng giữa chúng có nhiều điểm khác nhau. Đó là:
1.1. Ký hợp đồng:
 Trong tái bảo hiểm : công ty bảo hiểm gốc đứng ra ký hợp đồng bảo hiểm với người
tham gia và sau đó phân chia trách nhiệm cho các công ty tái bảo hiểm theo sự thỏa thuận giữa
họ và các công ty tái bảo hiểm.
 Trong đồng bảo hiểm:
Việc ký hợp đồng do nhiều công ty bảo hiểm tiến hành, mỗi một công ty tham gia đồng
bảo hiểm đều phải ký tên vào giấy chứng nhận bảo hiểm.
1.2. Trả tiền bồi thường :
 Trong tái bảo hiểm : khi tổn thất xảy ra, trước hết công ty bảo hiểm gốc đứng ra bồi
thường cho người được bảo hiểm, sau đó mới đòi lại công ty tái bảo hiểm. Ở đây người được bảo
hiểm không có quan hệ trực tiếp với công ty tái bảo hiểm.

 Trong đồng bảo hiểm: khi tổn thất xảy ra các công ty tham gia đồng bảo hiểm có trách
nhiệm trả tiền bồi thường trực tiếp cho người bảo hiểm theo tỷ lệ mà mình tham gia.
Tùy theo góc độ quan sát của công ty bảo hiểm gốc hay công ty tái bảo hiểm mà người ta
phân chia tái bảo hiểm ra thành 2 phần riêng biệt. Đó là chuyển tái bảo hiểm và nhận tái bảo
hiểm:

6


 Chuyển tái bảo hiểm (tái bảo hiểm đi) : có nghĩa là một công ty bảo hiểm gốc phân tán
rủi ro cho các công ty tái bảo hiểm. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm gốc phải chuyển phí
cho các công ty tái bảo hiểm và nhận được từ họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh doanh của
mình.
 Nhận tái bảo hiểm (tái bảo hiểm nhận) : là một công ty tái bảo hiểm nhận một phần rủi
ro đã được bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm gốc khác. Trong trường hợp này, công ty tái bảo
hiểm được hưởng số phí từ công ty bảo hiểm gốc nhằm mục đích kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm.
Ngoài ra tái bảo hiểm còn bao gồm cả hình thức tái bảo hiểm tiếp (chuyển nhượng tái bảo
hiểm) có nghĩa là một công ty tái bảo hiểm phân chia tiếp phần trách nhiệm mà mình đã nhận từ
một công ty bảo hiểm gốc cho các công ty tái bảo hiểm khác.

2. CHỨC NĂNG CỦA TÁI BẢO HIỂM
Đối với các thể loại khác nhau của tái bảo hiểm chức năng của chúng cũng khác nhau.
Chức năng của tái bảo hiểm đi chủ yếu nhằm đảm bảo sự kinh doanh cho công ty bảo hiểm gốc.
Sự đảm bảo này phụ thuộc vào các dạng hợp đồng tái bảo hiểm và được thể hiện ở các mức độ
khác nhau :
 Có thể giảm một cách tuyệt đối sự chênh lệch của kết quả kinh doanh trong lúc tỷ lệ phí
và chi bồi thường vẫn giữ nguyên.
 Có thể loại trừ được những tổn thất lớn
 Cũng có thể loại trừ được những tổn thất lớn và đồng thời cân bằng được chênh lệch do

có nhiều tổn thất xảy ra.
Tái bảo hiểm đi là một nghiệp vụ tốn kém, vì trong phí tái bảo hiểm có cả phần chi quản lý
và lợi nhuận cho công ty tái bảo hiểm. Nên một điều cần phải chú ý là làm sao sử dụng được một
cách tối ưu tái bảo hiểm để vừa ổn định được kinh doanh vừa tiết kiệm được tài chính (ở các
7


nước đồng tiền không chuyển đổi được thì điều này càng quan trọng vì đó là ngoại tệ), có nghĩa
là chỉ phân tán bớt rủi ro khi thật sự cần thiết.
Ngược lại, tái bảo hiểm nhận có chức năng hoàn toàn khác với tái bảo hiểm đi. Ở đây công
ty bảo hiểm xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm nhằm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm
khác. Vì vậy chức năng của tái bảo hiểm nhận giống với chức năng của bảo hiểm đối ngoại là
kinh doanh dịch vụ bảo hiểm nhằm tăng thu ngoại tệ.
Tổng kết lại ta có thể rút ra kết luận : đối với nhà nước thì tái bảo hiểm có 3 chức năng chủ
yếu :
 Đảm bảo tính ổn định và sự chắc chắn cho quá trình KD và SX của các đơn vị kinh tế.
 Đảm bảo tính ổn định của ngân sách ngoại tệ nhà nước
 Tăng thu nhập quốc dân
Thông qua nhiệm vụ và chức năng trên ta thấy bảo hiểm có một ý nghĩa quan trọng đối với
việc phát triển kinh tế của một đất nước. Đảm bảo kinh doanh cho công ty bảo hiểm có nghĩa là
đảm bảo được sự kinh doanh và sản xuất của các đơn vị kinh tế, từ đó tạo điều kiện tốt cho họ
phát triển kinh doanh. Đảm bảo tính ổn định của ngân sách ngoại tệ nhà nước có nghĩa là đảm
bảo được kế hoạch chi tiêu ngoại tệ nhằm phát triển sản xuất một cách đồng bộ. Tăng thêm thu
nhập quốc dân tức là mở rộng được kinh doanh và sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.

3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
Như chúng ta đều biết, ngành bảo hiểm không phải là một khái niệm trùng lặp mà nó mang
tính chất giai cấp sâu sắc, vì một mặt bản chất và nhiệm vụ của nó được xác định qua những trật
tư xã hội khác nhau và quy luật kinh tế cơ bản của xã hội đó, đồng thời mặt khác hoạt động của
nó có tác dụng trở lại đối với sự phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của xã hội

đó. Vì vậy, sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng đều gắn chặt
với sự phát triển của xã hội và của nền sản xuất hàng hóa.

3.1. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm
8


Vào giai đoạn cuối cùng của thời đại trung cổ, khi ngành bảo hiểm bắt đầu phát triển và
mở rộng ở châu Âu thì nhu cầu tái bảo hiểm đã xuất hiện và ngày càng tăng nhanh cùng với sự
phát triển của nền kinh tế TBCN. Trước tiên, nghiệp vụ tái bảo hiểm được tiến hành cho loại
hình bảo hiểm vận chuyển hàng hải, sau này dần dần được mở rộng sang bảo hiểm cháy, BHNT.
Nước Ý là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm. Bản giao ước cổ
nhất được biết đến với tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm đã được ký kết tại thành
phố Genés vào năm 1370 giữa một bên là hai thương nhân hoạt động với tư cách là nhà tái bảo
hiểm với một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm. Hợp đồng tái bảo hiểm này được ký kết
nhằm đảm bảo dịch vụ bảo hiểm cho các hàng hóa gửi đi bằng đường biển từ Genés đến Bruges.
Sau này với sự phát triển rộng rãi về những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành phố
của nước Ý và giữa các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh dịch vụ tái bảo hiểm đã phát triển lên
một bước. Nhưng sau đó đã xuất hiện nhiều vụ lạm dụng có tính cách con buôn gây ra nhiều
phản ứng chống lại bản chất tái bảo hiểm. Trong những vụ này các nhà bảo hiểm đã lợi dụng
hình thức tái bảo hiểm để phân tán rủi ro nhưng theo tỷ lệ phí thấp hơn nhiều so với phí bảo hiểm
gốc để kiếm lời. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ra đời đạo luật cấm các hoạt động tái
bảo hiểm hàng hải ở nước Anh trong một thời gian dài từ 1746 đến 1864. Đạo luật này đã vô
hình chung tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức Lloyd’s phát huy ảnh hưởng của mình bằng cách
đồng bảo hiểm và sau 1864 đã nghiễm nhiên trở thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất
thế giới. Trong thời gian này các hình thức tái bảo hiểm khác cũng đã xuất hiện, ví dụ như tái
bảo hiểm cháy … Lúc đầu nghiệp vụ tái bảo hiểm được các công ty bảo hiểm tiến hành, điều đó
có ý nghĩa là họ vừa tiến hành bảo hiểm gốc vừa đồng thời tiến hành cả tái bảo hiểm. Hình thức
tái bảo hiểm duy nhất được sử dụng đó là hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn cho từng rủi ro
riêng lẻ.


3.2. Giai đoạn từ giữa thế kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ 20:
Giữa thế kỷ thứ 19 nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có những bước tiến nhảy
vọt do áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Quan hệ
thương mại giữa các nước được mở rộng và phát triển mạnh. Do đó hình thức hợp đồng tái bảo
hiểm trao đổi qua lại giữa các nhà bảo hiểm như trên không còn đáp ứng được nhu cầu. Điều
kiện này dẫn đến sự tất yếu khách quan cho việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên
nghiệp. Năm 1846 tại Kohn (Đức) công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên đã ra đời lấy tên
là công ty Tái bảo hiểm Kohn. Tiếp theo đó là một số công ty tái bảo hiểm có tên tuổi trên thị
9


trường thế giới hiện nay cũng đã được thành lập như công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (Swiss Re)
năm 1863, công ty tái bảo hiểm London (London Guarantee Reinsurance co.Ltd) năm 1869,
công ty tái bảo hiểm Munich năm 1880.
Việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp là một sự kiện có tính chất quan
trọng trong việc phát triển của ngành bảo hiểm. Qua đó các công ty bảo hiểm gốc đã có sẵn trong
tay nguồn đảm bảo đắc lực cho hoạt động kinh doanh của họ và nhờ đó các công ty bảo hiểm
gốc không còn phải e ngại hoặc lo sợ khi phải cung cấp thông tin và số liệu cho việc chào các
hợp đồng tái bảo hiểm. Từ đó khả năng cạnh tranh của các công ty bảo hiểm gốc được tăng lên.
Như vậy sự chuyên môn hóa dịch vụ tái bảo hiểm đã có thể đáp ứng được những yêu cầu của
công ty bảo hiểm gốc một cách thỏa đáng. Khả năng phục vụ của các công ty tái bảo hiểm cũng
được cải tiến thêm bằng việc mở rộng tái bảo hiểm ra các loại hình bảo hiểm khác và lan rộng ra
các thị trường bảo hiểm nước ngoài thúc đẩy ngành bảo hiểm ngày càng phát triển. Trong thời kỳ
này kỹ thuật của tái bảo hiểm cũng được cải tiến. Nhiều hình thức và phương pháp tái bảo hiểm
đã được xây dựng.
Trong giai đoạn này, hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc khủng hoảng kinh tế
và lạm phát tiền tệ đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và ngành
tái bảo hiểm nói riêng. Bị tổn hại nhiều nhất phải kể đến các công ty tái bảo hiểm Đức. Trong hai
cuộc chiến tranh thế giới này, các giới tư bản độc quyền đã lấy vốn và quỹ tiền tệ bảo hiểm

(trong đó có dự trữ phí của bảo hiểm nhân thọ) của các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm để chi
phí cho chiến tranh. Trong khi đó các công ty tái bảo hiểm của những nước không bị chiến tranh
đe dọa đã vươn lên, nắm lấy thị trường tái bảo hiểm quốc tế, ví dụ như công ty tái bảo hiểm
Thụy Sĩ đã phát triển lên thành một công ty tái bảo hiểm đồ sộ. Ngoài ra, trong thời gian này có
rất nhiều công ty tái bảo hiểm đã ra đời nhất là ở Mỹ, Thụy Sĩ.

3.3. Giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ hai:
Thế chiến II đã kết thúc năm 1945 với sự thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và phe đồng
minh đánh bại chủ nghĩa phát xít đến tận gốc rễ. Nó đã mở ra một giai đoạn mới của lịch sử loài
người cũng như nền kinh tế và ngành bảo hiểm. Hệ thống XHCN ra đời, phong trào giải phóng
dân tộc của nhiều nước thuộc địa đã giành được thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế mới, cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước đầu sỏ ngày càng gay gắt, tất cả

10


các sự kiện trên đều ảnh hưởng đến sự phát triển của tái bảo hiểm. Giai đoạn này được đặc trưng
qua các biến động lớn sau :
 Sự phục hồi nhanh chóng của các công ty tái bảo hiểm của CHLB Đức: Trong chiến
tranh thế giới lần thứ hai, các công ty tái bảo hiểm Đức đã bị cắt đứt quan hệ với quốc tế và năm
1947 lại bị cấm không cho hoạt động ở nước ngoài. Nhưng ngay sau khi lệnh cấm này được bãi
bỏ năm 1950 thì các công ty tái bảo hiểm ở CHLB Đức đã nhanh chóng khôi phục lại địa vị
truyền thống của mình và thiết lập các quan hệ quốc tế rộng rãi. Nhiều công ty tái bảo hiểm mới
được thành lập. Hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm được phát triển với tốc độ nhanh. Đến
những năm 70 tổng doanh thu phí của thị trường CHLB Đức đã chiếm vị trí thứ ba trên thế giới,
sau Nhật và Mỹ.
 Sự thành lập các công ty bảo hiểm nhà nước ở các nước XHCN : sự kiện này ảnh hưởng
lớn đến chiều hướng phát triển của tái bảo hiểm quốc tế. Các nước XHCN đã tiến hành biện
pháp độc quyền về tái bảo hiểm và hạn chế quan hệ với thị trường tái bảo hiểm tư bản chủ nghĩa.
Đồng thời ở các nước XHCN không tiến hành tái bảo hiểm cho các loại hình bảo hiểm đối nội.

 Trong những nước chậm phát triển hoặc mới giành được độc lập những tổ chức độc
quyền tái bảo hiểm, cục bộ hay toàn phần đã được thành lập nhằm bảo vệ lợi ích riêng của họ
(Achentina, Braxin, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập). Sự kiện này có tác động làm thu hẹp khả năng
hoạt động của các công ty tái bảo hiểm quốc tế ở những nước đó.
 Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập và càng ngày có nhiều công ty bảo hiểm
tiến hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm. Do đó cuộc cạnh tranh giữa họ ngày càng gay gắt và
dưới nhiều hình thức khác nhau.
 Trong thời gian này, hình thức tái bảo hiểm không theo tỷ lệ là hình thức tối ưu nhất đáp
ứng được nhu cầu đảm bảo của các công ty bảo hiểm gốc và ngày càng được phổ biến rộng rãi.
Điều này làm cho các nhà tái bảo hiểm, có khó khăn hơn trong việc tính phí phù hợp với phần rủi
ro mà họ phải gánh chịu. Thêm vào đó là khả năng xảy ra tổn thất ngày càng tăng. Vì vậy, đặc
điểm của giai đoạn này là chiều hướng ngày càng giảm của kết quả kinh doanh nghiệp vụ tái bảo
hiểm thuần túy, nhưng đồng thời chiều hướng ngày càng tăng của kết quả kinh doanh đầu tư quỹ
tiền tệ bảo hiểm thông qua lãi suất cao.

4. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
11


Sự ra đời và quá trình lịch sử phát triển của tái bảo hiểm cho thấy vào thời gian ban đầu
không có sự phân biệt rõ ràng nào về các hình thức tái bảo hiểm, bởi vì trong nhiều thế kỷ chỉ có
một hình thức tái bảo hiểm duy nhất được biết và được ứng dụng rộng rãi trên thị trường bảo
hiểm thế giới. Đó là “tái bảo hiểm lựa chọn cho từng rủi ro riêng biệt”.
Đầu thế kỷ 19, để đáp ứng nhu cầu của ngành bảo hiểm đang ngày càng phát triển mạnh
mẽ, ngành tái bảo hiểm bắt đầu phát triển nhanh chóng và lúc đó, các hình thức tái bảo hiểm mới
được tạo lập.
Dĩ nhiên trong hoạt động hàng ngày, hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (tái bảo hiểm
nhiệm ý) vẫn tồn tại, mặc dù hình thức này sau một thời gian tạm bị lu mờ, nay lại xuất hiện
thậm chí còn trở nên quan trọng hơn trước đây rất nhiều. Bên cạnh hình thức này, thị trường bảo
hiểm và tái bảo hiểm thế giới còn hình thành những hình thức tái bảo hiểm bắt buộc (tái bảo

hiểm tự động) và các hình thức này được phân thành hai phương thức chủ yếu là:
4.1.Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm tỷ lệ) bao gồm:
 Dạng tái bảo hiểm phân ngạch (số thành) : Quota Share
 Dạng tái bảo hiểm mức thặng dư (mức dôi) : Surplus
4.2. Tái bảo hiểm theo mức bồi thường bảo hiểm tái bảo hiểm không tỷ lệ) bao gồm:
Dạng tái bảo hiểm thặng dư tổn thất (tái bảo hiểm vượt mức bồi thường) : Excess of
Loss.
 Dạng tái bảo hiểm vượt mức thặng dư tổn thất ấn định năm (tái bảo hiểm vượt mức tỷ lệ
bồi thường).
Thực ra ở đây chỉ cần giới hạn sự phân biệt giữa tái bảo hiểm theo tỷ lệ và tái bảo hiểm
không theo tỷ lệ là đủ. Bởi vì trong lý thuyết cũng như thực hành, các hình thức tái bảo hiểm tùy
ý lựa chọn và tái bảo hiểm bắt buộc, cũng như sau này có thêm hình thức tái bảo hiểm kết hợp
giữa hai hình thức này gọi là tái bảo hiểm nhiệm ý – bắt buộc (tái bảo hiểm mở ngỏ) FACOBLI
cũng đều có thể thực hiện dưới một trong hai phương thức nói trên.

5. VAI TRÒ KINH TẾ CỦA CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
12


5.1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (Facultative Reins.)
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Danh từ “Tùy ý lựa chọn”
(Facultative) có liên quan đến ý niệm là trong loại tái bảo hiểm này, công ty nhượng (ceding
company) có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược lại, nhà tái bảo hiểm
(Reinsurer) có quyền nhận hay từ chối rủi ro đó. Mỗi dịch vụ bảo hiểm đem nhượng theo cơ sở
tùy ý lựa chọn là một hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà
công ty nhượng muốn nhượng cho thị trường tái bảo hiểm.
Vào thời điểm khi kết thúc một thỏa thuận thương mại nào đó thì các bên tham gia vào
thỏa thuận đó thường quan tâm đến việc quy định thật chính xác các chi tiết cần thiết của thỏa
thuận lần tới, các mục đích, nghĩa vụ của các bên đối với nhau và đặt ra các điều kiện cần thiết
để ràng buộc những nghĩa vụ và quyền lợi ấy và như vậy, chỉ có hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa

chọn là phù hợp nhất, vì nó có thể cho phép nhà tái bảo hiểm có được một ý niệm đúng về những
rủi ro mà mình phải gánh chịu trước khi tham gia hợp đồng.
 Thủ tục để tiến hành thực hiện một hợp đồng tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn như sau:
 Trước hết công ty nhượng thông báo cho tái bảo hiểm một dịch vụ nào đó mà họ cần
phải tái bảo hiểm dưới hình thức một phiếu đề nghị (slip), trong đó có ghi các đặc điểm chính
của rủi ro được tái bảo hiểm như : tên và địa chỉ của người được bảo hiểm, tính chất của rủi ro
được bảo hiểm, ngày bắt đầu và chấm dứt của thời gian bảo hiểm, số tiền được bảo hiểm, phí bảo
hiểm, phần giữ lại của công ty nhượng, tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm…
 Sau khi nhận được phiếu đề nghị này, nhà tái bảo hiểm có toàn quyền tự do để lựa chọn
toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hay bằng một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro được đề nghị.
Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình thông thường bằng cách ghi trực tiếp vào bản
thứ hai, của phiếu đề nghị và gửi trả lại cho công ty nhượng. Tuy nhiên để đảm bảo tính thời
gian, việc xác nhận có thể thực hiện bằng điện tín hay qua điện thoại, nhưng sau đó vẫn phải xác
nhận bằng văn bản để đảm bảo tính pháp lý của hợp đồng. Dĩ nhiên, nhà tái bảo hiểm có quyền
khước từ tham gia vào hợp đồng nếu họ không muốn. Theo tập quán thì việc nhà tái bảo hiểm im
lặng không trả lời không thể được xem như là một sự chấp nhận.
 Trước khi chính thức có ý kiến nhận hay khước từ, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu biết
thêm những chi tiết khác để đánh giá rủi ro mà mình sẽ nhận. Ví dụ có thể xin bản sao hợp đồng
bảo hiểm gốc, hoặc những chi tiết về việc định giá phí bảo hiểm… Cuối cùng, chỉ khi nào nhận
được thông báo chấp nhận của nhà tái bảo hiểm thì dịch vụ theo hình thức tùy ý lựa chọn mới coi
13


như hoàn thành , trừ khi có sự thỏa thuận nào khác giữa hai bên. Dịch vụ tái bảo hiểm này cũng
sẽ tự động chấm dứt hiệu lực nếu như đến ngày mãn hạn của hợp đồng bảo hiểm gốc mà không
có sự tái lập hợp đồng; tuy nhiên dù hợp đồng bảo hiểm gốc có tái lập, thì cũng không có nghĩa
là nhà tái bảo hiểm buộc phải tiếp tục nhận hợp đồng tái bảo hiểm cho đến thời hạn kế tiếp, mà
họ có quyền tự do lựa chọn tiếp tục nhận hay từ chối không tham gia tiếp nữa, trừ khi có sự giao
kết nào khác. Hơn nữa, hợp đồng tái bảo hiểm theo hình thức này không có sự ràng buộc là nhà
tái bảo hiểm phải chấp nhận những thay đổi, sửa đổi về nội dung, điều kiện hay giá phí mà đã

thỏa thuận ban đầu giữa họ và công ty nhượng. Mọi thay đổi như vậy đều phải được thông báo
trước và phải có sự thỏa thuận của nhà tái bảo hiểm.
 Với những điều kiện trên, hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn có nhiều mặt giống như
nghiệp vụ bảo hiểm trực tiếp, đòi hỏi công ty nhượng phải cung cấp các thông tin nhanh, đầy đủ
và chính xác, đồng thời các nhà tái bảo hiểm phải có nhiều kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn
cao và có khả năng xét đoán rủi ro chuẩn xác, kịp thời.
 Ưu nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
 Ưu điểm:
 Giúp công ty nhượng, nhất là các công ty bảo hiểm của các quốc gia đang phát triển và
non trẻ, có kinh nghiệm ít có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro ở địa
phương mà có giá trị bảo hiểm lớn, vượt quá khả năng tài chính thông thường của mình bằng
việc sử dụng chuyên môn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế.
 Giúp công ty nhượng có điều kiện lựa chọn để duy trì kim ngạch bảo hiểm của mình
được cân đối, tức là giúp cho công ty nhượng có thể loại bỏ được những rủi ro đặc biệt lớn hoặc
nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị rủi ro này xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của mình trong năm kế hoạch ở một nghiệp vụ bảo hiểm riêng biệt nào đó. Đối với
các nước đang phát triển, hình thức tái bảo hiểm này càng tỏ ra thích hợp khi mà ở đó có các
công trình lớn cần được bảo hiểm như: đê đập, tổ hợp công nghiệp, công trình liên doanh… mà
có giá trị lớn hơn rất nhiều so với các loại rủi ro khác ở nước đó. Đặc biệt đối với lĩnh vực bảo
hiểm cho các rủi ro công nghiệp, số tiền bảo hiểm được gia tăng không ngừng, sự tập trung giá
trị tài sản được bảo hiểm ngày càng tăng và kéo dài, thời gian đảm bảo ngày càng thịnh hành
bằng việc ghép các loại bảo hiểm với nhau như bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm thiệt hại về lợi
nhuận, khai thác… do đó buộc phải áp dụng hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn.

14


 Giúp cho công ty nhượng có quyền chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm phục vụ
nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi ro mà có thể không được chấp nhận trong
các hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc truyền thống của mình như rủi ro về động đất, ngập lụt, đình

công, bạo loạn, chiến tranh…
 Tạo điều kiện cho công ty nhượng có thể nhờ vào hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
trước khi tận dụng khả năng các hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc của họ, tức là có điều kiện để
cải thiện sự thăng bằng của các hình thức tái bảo hiểm bắt buộc, cải thiện vận may rủi trong việc
đạt được những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các hợp đồng tái bảo hiểm đó của
họ. Ví dụ điều kiện về chia lãi, thủ tục phí tái bảo hiểm tính theo thang lũy tiến, thủ tục phí tái
bảo hiểm theo lãi…
Nhược điểm:
 Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ chi tiết của nghiệp vụ bảo hiểm gốc nghĩa là khi
áp dụng hình thức này nhiều lần thì nhà tái bảo hiểm thường xuyên cần phải tiếp xúc và biết
được ý đồ bên trong của các hợp đồng bảo hiểm gốc và kim ngạch bảo hiểm của công ty nhượng
dẫn đến có thể bị tiết lộ những thông tin có lợi cho sự cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm gốc.
 Không đảm bảo thời gian tính trong việc phân tán rủi ro tái bảo hiểm, tức là công ty
nhượng không có sự đảm bảo chắc chắn của thị trường tái bảo hiểm khi họ nhận bảo hiểm một
rủi ro nào đó, công ty nhượng sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm nếu như ở thị trường đó có công
ty bảo hiểm khác có khả năng phục vụ tốt hơn, hoặc không có khả năng để nhận bảo hiểm cho
rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm cho công ty nhượng mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời
người được bảo hiểm.
 Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém làm giảm thu nhập kinh doanh, ít lãi.
 Thường xuyên phải đàm phán tái lập hợp đồng tái bảo hiểm trước khi ký kết bảo hiểm
gốc với khách hàng mà trong nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay hủy bỏ
hợp đồng đã ký đó.
 Trong trường hợp khi khả năng tiếp nhận rủi ro của thị trường tái bảo hiểm quốc tế đã
gần đạt tới mức tối đa (dày đặc), hoặc khi phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của
thị trường thì hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn chỉ có thể thực hiện được với một mức phí
cao hơn so với mức phí gốc hoặc buộc phải giảm bớt mức thủ tục phí tái bảo hiểm. Trong trường
15


hợp này, mức sai biệt đó sẽ do công ty nhượng tự gánh chịu, hoặc nếu không muốn vậy, công ty

nhượng buộc phải giảm bớt phần trách nhiệm mà mình cam kết trong bảo hiểm gốc.
5.2. Tái bảo hiểm bắt buộc (Obligatory):
Hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là sự thỏa thuận giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm
mà trong đó công ty nhượng tự bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi
ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã quy định trước trong hợp đồng cho tới một hạn mức trách nhiệm
ngang với số tiền hạn mức tối đa đã được thỏa thuận từ trước. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng
tự bắt buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi ro đó. Với hình thức này, công ty nhượng có
toàn quyền tự do chấp nhận và định giá phí bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro mà người được
bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm và không cần phải tham khảo ý kiến trước của nhà tái bảo hiểm.
Mặt khác, công ty nhượng cũng đơn phương thanh toán các vụ tổn thất có liên quan đến
những rủi ro được bảo hiểm đó với mục đích bảo vệ quyền lợi chung giữa công ty nhượng và
nhà tái bảo hiểm; tức là: trong mọi quyết định của mình, công ty nhượng đều phải quan tâm đến
quyền lợi của nhà tái bảo hiểm lẫn quyền lợi của chính mình. Trong hình thức tái bảo hiểm bắt
buộc, nhà tái bảo hiểm sẽ hoàn toàn chia sẻ những vận may rủi với công ty nhượng và sẽ chấp
nhận thanh toán cho tổn thất thuộc phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm đã thỏa thuận mà công ty
nhượng thay mặt cho họ giải quyết. Tuy nhiên, nhà tái bảo hiểm sẽ không bị ràng buộc bởi
những hành động hoặc sơ xuất của công ty nhượng mà đi ngược lại với quyền lợi của họ. Như
vậy, hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là thỏa ước ràng buộc các bên với nhau một cách chặt chẽ
hơn là những dịch vụ bảo hiểm nhượng theo hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn.
Với hình thức này, nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu được số phí lớn nhất, phù hợp với
nguyên tắc “Quy luật số đông” (law of large numbers) giúp cho nhà tái bảo hiểm thực hiện được
tốt vai trò kinh tế quốc dân của họ về đẩy mạnh những tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng
việc chấp nhận những rủi ro mới và các dạng bảo hiểm mới.
5.3. Tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc (Fac – Obli.)
Tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc (bảo hiểm để ngỏ – open cover) là một hình thức tái bảo
hiểm mà công ty nhượng thường cố gắng thu xếp mỗi khi những rủi ro cần tái bảo hiểm trong
một ngành kinh tế lên tới một mức độ nào đó.
Trong hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả
những dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm, nhưng ngược lại nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận
16



các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó phải
phù hợp với nội dung và điều khoản đã quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm thỏa thuận. Như vậy,
so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn, nhà tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền
được từ chối không nhận những rủi ro mà một khi họ không muốn.
Để bù đắp thiệt thòi nói trên, trong hình thức tái bảo hiểm này, nhà tái bảo hiểm có điều
kiện thu nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với hình thức tái bảo
hiểm tùy ý lựa chọn. Tuy nhiên, trong hình thức này, tỷ lệ thủ tục phí bảo hiểm thường cao hơn
so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Trong hình thức tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc vẫn
có điều kiện đặt ra là nội dung của hình thức tái bảo hiểm này không có nghĩa chỉ có những rủi
ro có khả năng dễ xảy ra tổn thất nhất thì đưa vào hợp đồng. Công ty nhượng không được lợi
dụng hình thức tái bảo hiểm này để lựa chọn rủi ro nhằm mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái
bảo hiểm. Để phòng ngừa trường hợp khả năng này có thể xảy ra, nhà tái bảo hiểm phải nắm
vững ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và
thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thỏa ước mà mình đã ký kết.
Sử dụng hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng có điều kiện để đem chào tái bảo
hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho một nhà tái bảo hiểm
duy nhất hay cho một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay cho việc phải đem phân
chia tất cả các phần thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho các nhà tái bảo hiểm nếu như
đem tái bảo hiểm theo hình thức bắt buộc. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế thường chỉ có
thể thực hiện được bằng cách chào cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực lớn vì họ là những nhà
tái bảo hiểm có khả năng nhận các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao và như vậy sẽ không đòi hỏi
phải phân tán cho quá nhiều nhà tái bảo hiểm, đỡ tốn kém chi phí.
Trường hợp công ty nhượng có nhiều đơn vị rủi ro cần phải đem tái bảo hiểm thì chi phí
hành chính cho việc áp dụng hình thức tái bảo hiểm này sẽ rất tốn kém vì những rủi ro cần tái
bảo hiểm đó thường đòi hỏi các điều kiện tái bảo hiểm khác nhau, công tác tính toán phí và sổ
sách kế toán sẽ phức tạp và khó khăn hơn.

17



II. TÁI BẢO HIỂM- CƠ HỘI CHO CÁC CÔNG TY NHỎ MỚI THÀNH LẬP
1. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC CÔNG TY NHỎ, MỚI THÀNH LẬP
1.1.Vốn
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định điều kiện để được cấp giấy phép thành lập
doanh nghiệp bảo hiểm là: có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định (mức
vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300 tỉ đồng, kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ: 600 tỉ đồng). Ngành bảo hiểm phi nhân thọ với đòi hỏi về nguồn vốn
pháp định thấp hơn luôn là lựa chọn của đa số các công ty bảo hiểm mới thành lập. Tuy nhiên,
tính đến hết tháng 6/2010, tổng số doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường là 50 đơn vị, trong đó
có 28 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, nên các doanh
nghiệp mới thành lập sẽ gặp không ít khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo
hiểm lâu năm và có uy tín trên thị trường.
Có thể nói, lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm tiềm năng có được do năng lực khai thác bảo
hiểm, nhưng lợi nhuận thật sự phụ thuộc vào mức độ và hình thức giữ lại. Hiện nay, phí giữ lại
của thị trường bảo hiểm Việt Nam khá thấp so với tổng phí thu được: 64,83% (2007) và 68,14%
(2008). Nếu không kể các nghiệp vụ hầu như không phải tái bảo hiểm có tỷ trọng doanh thu lớn
như: bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người, thì phí giữ lại thấp hơn 50%.
Theo quy định của Thông tư 155/2007/TT-BTC thì mức giữ lại có thể là 10% vốn chủ sở hữu
(tối thiểu 300 tỷ đồng theo quy định), tương đương 1,8 triệu USD. Thực tế, phần lớn doanh
nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ chỉ giữ lại ở mức 100.000 đến 500.000 USD
do nhiều yếu tố không đáp ứng được như: chưa có chiến lược kinh doanh hoặc chiến lược kinh
doanh chưa rõ ràng, một số ít doanh nghiệp chưa góp đủ vốn pháp định, khả năng thanh toán có
vấn đề do tình hình nợ đọng và đầu tư dài hạn nhiều hơn quy định, doanh thu ít và cơ cấu thu
không hợp lý, tỷ lệ tổn thất cao, biên khả năng thanh toán không vững chắc... Hơn nữa, quy định
mức giữ lại 10% vốn chủ sở hữu là quá cao trong tình hình Việt Nam hiện nay. Theo tài liệu của
Singapore College of Insurance thì mức giữ lại thông thường chỉ khoảng 0,5% đến 2,5% vốn chủ
sở hữu hoặc không hơn 20% vốn lưu động.
1.2. Hoạt động kinh doanh

Doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm lại không đến từ hoạt động bảo hiểm: Hoạt
động bảo hiểm phi nhân thọ gần như không mang lại khoản lợi nhuận đáng kể nào cho các doanh
nghiệp, do chi phí bồi thường cao. Lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm vẫn tập trung vào hoạt
động đầu tư, trong đó chủ yếu là đầu tư vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Do không phải trả
18


chi phí lãi cho các khoản phí bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng nguồn này cho hoạt
động đầu tư tài chính. Vì thế, hoạt động này mang lại lợi nhuận chính cho các doanh bảo hiểm
chứ không phải ngành hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Để có nguồn cho hoạt động tài chính,
nhiều doanh nghiệp đứng trước sức ép phải tăng doanh thu. Trong khi đó, việc tăng doanh thu
nhiều khi đồng nghĩa với hạ phí, mở rộng điều kiện bảo hiểm, chấp nhận nghiệp vụ bảo hiểm có
rủi ro cao. Như vậy, nếu so sánh đầu tư tài chính và kinh doanh bảo hiểm là hai vế mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp, thì có vẻ các daonh nghiệp đang bị lệch về một bên. Đặc biệt đối với
các doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập với vốn thấp và không có kinh nghiệm đánh gái rủi ro
của các hoạt động tài chính sẽ đối mặt với nguy cơ mất vốn.
Mặc dù đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng hiệu quả kinh doanh từ lĩnh vực
bảo hiểm vẫn là thách thức lớn nhất đối với các DN hiện nay. Doanh thu và lợi nhuận của các
DN bảo hiểm vẫn chủ yếu đến từ hoạt động đầu tư tài chính. Sở dĩ hoạt động kinh doanh chính
chưa mang lại nhiều lợi nhuận là do không ít DN chạy theo doanh thu, hạ phí bảo hiểm, mở rộng
điều kiện bảo hiểm và chưa kiểm soát tốt khâu bồi thường. Theo đánh giá của Hiệp hội Bảo hiểm
Việt Nam (AVI), hạ phí bảo hiểm thì dễ, nhưng tăng phí là việc vô cùng khó khăn. Một doanh
nghiệp bảo hiểm tăng phí đi liền với giảm doanh thu, mất khách hàng, nếu đồng loạt tăng phí thì
vi phạm Luật Cạnh tranh.
Hiện tượng trục lợi bảo hiểm vẫn diễn ra phổ biến. Chẳng hạn, đối với bảo hiểm thân tàu
và trách nhiệm dân sự chủ tàu khai báo tàu bị mất tích đang là vấn đề nổi cộm. Đối với sản phẩm
bảo hiểm y tế, hiện tượng trục lợi vẫn xảy ra khi các doanh bảo hiểm chưa thể kiểm soát chặt chẽ
khâu điều trị như có người vẫn đi làm mà vẫn có được hồ sơ nằm viện, có người cho người thân
mượn thẻ điều trị chất lượng cao mà chưa được kiểm soát... Đây cũng là thách thức không nhỏ
cho các công ty bao hiểm nhỏ khi nguồn nhân lực và tài chính eo hẹp cộng với kinh nghiệm quản

lý chưa cao.
Trong khi thị trường chứng khoán diễn biến không thuận lợi, hoạt động đầu tư tài chính
khó lòng thu được lợi nhuận cao. Tình trạng cạnh tranh khốc liệt cũng khiến hoạt động kinh
doanh bảo hiểm bị thu hẹp thị phần. Trong khi đó, các doanh nghiệp bảo hiểm được nhận định là
đối mặt với thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra nhiều hơn trong những tháng cuối năm.
Bảo hiểm là một hoạt động có sử dụng ngoại tệ để tái bảo hiểm ra nước ngoài cũng như
đảm bảo bồi thường bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhận tiền bồi thường bằng
ngoại tệ như các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các doanh nghiệp mà hoạt động của họ gắn
liền với bên ngoài như xuất nhập khẩu, tàu biển, hàng không, dầu khí, các DN mà tài sản của họ,
Việt Nam không sản xuất được... Trong tình trạng hiện nay, các công ty bảo hiểm khó có thể tự
cân đối ngoại tệ. Khó khăn chính của hoạt động bảo hiểm là ngoại tệ tái ra nước ngoài luôn
nhiều hơn tiền bồi thường thu về, vì phải đảm bảo lợi nhuận hợp lý cho các công ty tái bảo hiểm.
Các công ty trong nước thì hầu như trả bằng VND. Đối với những dự án, dịch vụ lớn có thể bảo
19


hiểm bằng ngoại tệ, vì rủi ro lớn và tính chất phức tạp nên phần lớn ngoại tệ được chuyển cho
các nhà tái bảo hiểm để họ đảm nhận rủi ro đó. Để có ngoại tệ tái bảo hiểm, các công ty bảo
hiểm thường phải mua ngoại tệ từ ngân hàng, mà việc này không hề dễ dàng. Một số công ty
phải mua qua thị trường tự do. Chênh lệch tỷ giá là một tổn thất không nhỏ của hoạt động tái bảo
hiểm.
1.3.Uy tín và thương hiệu
Không giống bất cứ một loại tài sản nào, không phải là khối vật chất có thể cầm, nắm
trong tay và tài sản thương hiệu rất dễ bị bào mòn nếu không biết cách gìn giữ nó, có khi chỉ một
sơ xuất trong kinh doanh mà dẫn đến sự hao mòn mất mát không thể kể hết, khiến cho khách
hàng mất lòng tin ở doanh nghiệp, huỷ bỏ hợp đồng, giảm lượng khách hàng tham gia hợp đồng
mới, không có khách hàng tái tục hợp đồng…. Trong nền kinh tế hội nhập, thương hiệu của các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn luôn bị đe doạ bởi các doanh nghiệp khác - nhất là các
doanh nghiệp nước ngoài, cùng lĩnh vực kinh doanh luôn tìm cách hạ thấp thương hiệu doanh
nghiệp của đối thủ để chiếm vị trí thống lĩnh của mình. Mặt khác, tâm lý người Việt Nam ta hay

“sính ngoại” đây cũng là yếu tố có lợi cho các thương hiệu ngoại và là rào cản mà các thương
hiệu của doanh nghiệp Việt Nam phải tìm cách vượt qua.
Tính đến thời điểm hiện tại, thị trường Việt Nam đã có mặt 27 thương hiệu bảo hiểm của
các doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh, và ngoài ra còn có sự góp mặt của khoảng 30 thương
hiệu bảo hiểm khác là các Văn phòng đại diện và các tổ chức bảo hiểm nước ngoài (đang tìm
kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam). Mặc dù thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có đông đảo các
thương hiệu bảo hiểm trong và ngoài nước, nhưng hầu hết người dân và không ít các khách hàng
bảo hiểm khi nói đến bảo hiểm là nghĩ đó là Bảo Việt, các thương hiệu bảo hiểm khác như:
Prudential, Bảo Minh, Pjico,… mới chỉ một bộ phận người dân biết đến gần đây. Tuy nhiên với
sự có mặt của đông đảo các thương hiệu bảo hiểm “nội” và “ngoại”điều này chứng tỏ rằng thị
trường bảo hiểm Việt Nam từ vài năm nay đã trở nên nhộn nhịp và vấn đề gìn giữ, phát triển
thương hiệu của các doanh nghiệp bảo hiểm đã trở thành mối quan tâm của không ít các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước. Đã có không ít tác giả đề cập đến thương hiệu của doanh nghiệp,
tuy nhiên phần lớn các bài viết đều được khai thác ở góc độ làm sao để có thể xây dựng thương
hiệu có uy tín trên thị trường. Tuy nhiên cần phải hiểu thương hiệu với ý nghĩa là tài sản vô hình
của doanh nghiệp bảo hiểm, và làm cách nào để gìn giữ, phát triển thương hiệu của các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập.
Đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, sản phẩm của doanh nghiệp là vô hình - sản phẩm
là những cam kết .Vì vậy thương hiệu được coi là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, thương

20


hiệu phải có độ tin cậy cao, có uy tín với khách hàng… Tuy nhiên, thương hiệu phải trải qua quá
trình xây dựng lâu dài có khi tới hàng chục năm mới có được.
1.4. Nguồn nhân lực
Theo sự cảnh báo của các chuyên gia, nguồn nhân lực đang là một trong những điểm yếu
của ngành bảo hiểm Việt Nam. Nhìn vào chất lượng đào tạo cũng dễ nhận thấy khoảng cách
tương đối lớn giữa kiến thức sinh viên được học ở trường đại học và công việc thực tế khi đi
làm. Theo đánh giá của nhiều DN trong ngành bảo hiểm, tại các trường đại học chương trình đào

tạo vẫn chưa bám sát nhu cầu của ngành, còn rất nặng các môn học về bảo hiểm bắt buộc trong
khi nhu cầu về kiến thức về bảo hiểm thương mại rất nhiều. Nhu cầu nhân lực tài chính được đào
tạo bài bản, có trình độ tối thiểu là đại học cộng thêm kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng phân
tích tài chính thực thụ, lại quá nhỏ. Trong tổng số 1.000 sinh viên chuyên ngành tài chính phía
Nam ra trường hàng năm chỉ có khoảng 1/3 có khả thích ứng ngay với công việc.
Bên cạnh chất lượng đào tạo còn yếu thì số lượng đào tạo cũng rơi vào tình trạng thiếu
hụt. Hoạt động đào tạo chính quy và chuyên sâu về bảo hiểm thương mại được thực hiện tại một
số trường đại học và học viện có đào tạo về tài chính với khả năng đào tạo khoảng 300-400
người/năm như: Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Đại học Kinh tế TP.HCM, Học viện Tài
chính. Riêng ở TP.HCM, những địa chỉ đào tạo cung ứng nguồn nhân lực chuyên ngành tài chính
- ngân hàng chỉ tập trung ở Trường đại học Kinh tế, Đại học Ngân hàng và mới đây có thêm
Trường Quản lý Pháp Việt (CFVG), khoa kinh tế Đại học Quốc gia TP.HCM và một số bộ môn
của khoa quản trị kinh doanh thuộc các trường dân lập nhưng số lượng không nhiều.
Mặt khác, một trong những khó khăn làm đau đầu các lãnh đạo doanh nghiệp bảo hiểm
trong nước là tình trạng "chảy máu chất xám". Chế độ đài thọ đối với người lao động tại các
công ty nước ngoài thường cao hơn so với công ty trong nước. Do đó, không có gì là khó lý giải
khi các công ty nước ngoài đang ngày càng lôi kéo được nguồn nhân lực có chất lượng cao từ thị
trường nhân lực.Trước tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính nói chung và ngành
bảo hiểm nói riêng thì cơn sốt nguồn nhân lực ngành nghề đặc thù này càng gay gắt hơn.
2. TÁI BẢO HIỂM GIÚP CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ, MỚI THÀNH LẬP NHƯ
THẾ NÀO?
Người ta thường nói "tái bảo hiểm chính là bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm" bởi những tổn
thất mà các công ty bảo hiểm phải gánh chịu đã được dàn trải ra. Vì vậy tái bảo hiểm tạo tâm lý
an toàn cho các công ty bảo hiểm, cân bằng các dịch vụ bảo hiểm, bảo vệ các dịch vụ đó khỏi
ảnh hưởng của các sự cố lớn có tính thảm họa, đảm bảo tài chính cho các công ty bảo hiểm. Đặc
biệt là đối với các công ty bảo hiểm nhỏ mới ra đời bởi các công ty này mới thành lập thì tiềm
lực về tài chính còn yếu, khả năng thanh khoản thấp. Do đó khi thực hiện các hợp đồng đồng
21



bảo hiểm lớn thì khả năng gặp rủi ro của nó là rất lớn. , khi xảy ra rủi ro, khoản tiền bồi thường
sẽ vô cùng lớn, mà nguồn lực tài chính hạn hẹp sẽ làm cho doanh nghiệp bảo hiểm đó gặp khó
khăn trong việc kinh doanh. Thậm chí, khoản bồi thường lớn này còn dẫn đến việc kinh doanh
thua lỗ do quy mô nhỏ. Vì vậy,tái bảo hiểm giúp ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm
gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả
năng tài chính của mình.
Ví dụ : Một công ty bảo hiểm A chỉ có khả năng thanh toán tiền bồi thường tối đa là 1 triệu
US$, muốn bảo hiểm cho một chiếc tàu chở một khối lượng hàng hóa lớn trị giá 10 triệu US$.
Nếu giả sử không có tái bảo hiểm thì công ty bảo hiểm A không thể ký hợp đồng bảo hiểm với
chủ tàu đó được, vì khi không may có tổn thất toàn bộ xảy ra công ty bảo hiểm A sẽ bị phá sản.
Nhưng do có hình thức tái bảo hiểm nên công ty bảo hiểm A vẫn ký được hợp đồng bảo hiểm với
chủ tàu bảo hiểm cho con tàu trị giá 10 triệu US$. Sau khi ký hợp đồng, công ty bảo hiểm A
dùng phương pháp tái bảo hiểm phân tán bớt mức trách nhiệm mà mình phải gánh chịu. Trong
trường hợp này, công ty bảo hiểm A chỉ giữ lại 10%, còn 90% của 10 triệu US$ công ty bảo hiểm
A chuyển cho các công ty tái bảo hiểm khác, ví dụ như 50% cho công ty tái bảo hiểm B và 40%
cho công ty tái bảo hiểm C.
Như vậy tái bảo hiểm đã phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm
gốc cho một tập thể những công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng được một cách tối
ưu các quy luật thống kê. Đồng thời, tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm
gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả
năng tài chính của mình.
Qua đó ta thấy được tái bảo hiểm đã giải quyết được khó khăn lớn nhất của các công ty bảo
hiểm nhỏ, mới thành lập đó chính là vốn, tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận các hợp
đồng bảo hiểm vượt quá khả năng tài chính của mình.
Hơn nữa tái bảo hiểm còn giúp các doanh nghiệp bảo hiểm chủ động trong mọi tình huống,
doanh nghiệp có thể tránh sự biến động trong các khoản chi trả bồi thường cho khách hàng trong
một năm và qua nhiều năm thông qua việc tái bảo hiểm. Đây có thể coi là một trong những cách
làm an toàn nhất đối với các công ty bảo hiểm nhỏ mới ra đời.
Ngoài ra tái bảo hiểm còn khắc phục được hiện tượng các doanh nghiệp nhỏ vì không đủ
vốn theo quy định của Thông tư 155/2007/TT-BTC về mức được giữ lại đã nhận bảo hiểm trên

mức được giữ lại và thực hiện tái lại phần giữ lại vượt mức (Retrosession) cho các công ty bảo
hiểm khác. Việc làm này không đúng luật, vì hoạt động tái lại tạo ra một rủi ro mới (nếu công ty
22


bảo hiểm nhận tái lại không có khả năng trả bồi thường thì công ty tái lại phải chịu trách nhiệm)
nhưng không có vốn đảm bảo.
Ngày nay hầu như doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm không đến từ việc kinh doanh
bảo hiểm mà từ việc đầu tư tài chính vào các kênh đầu tư khác : đầu tư vào trái phiếu cổ phiếu.
Do đó nếu thị trường chứng khoán có biến động thì doanh thu của doanh nghiệp cũng bị ảnh
hưởng không nhỏ. Đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ thường chạy đua trên thị trường chứng khoán
với hy vọng tạo cho mình một nguồn vốn lớn hơn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Nếu rủi ro xảy ra
vào lúc này thì doanh nghiệp này với tiềm lực kinh tế còn yếu sẽ không vượt qua nổi. Nhưng tái
bảo hiểm giúp các công ty này chủ động trong việc huy động nguồn lực tài chính từ công ty nhận
bảo hiểm khác.
Bảo hiểm là một hoạt động có sử dụng ngoại tệ để tái bảo hiểm ra nước ngoài cũng như
đảm bảo bồi thường bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhận tiền bồi thường bằng
ngoại tệ như các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các doanh nghiệp mà hoạt động của họ gắn
liền với bên ngoài như xuất nhập khẩu, tàu biển, hàng không, dầu khí, các DN mà tài sản của họ,
Việt Nam không sản xuất được... Trong tình trạng hiện nay, các công ty bảo hiểm khó có thể tự
cân đối ngoại tệ. Khó khăn chính của hoạt động bảo hiểm là ngoại tệ tái ra nước ngoài luôn
nhiều hơn tiền bồi thường thu về, vì phải đảm bảo lợi nhuận hợp lý cho các công ty tái bảo hiểm.
Các công ty trong nước thì hầu như trả bằng VND. Đối với những dự án, dịch vụ lớn có thể bảo
hiểm bằng ngoại tệ, vì rủi ro lớn và tính chất phức tạp nên phần lớn ngoại tệ được chuyển cho
các nhà tái bảo hiểm để họ đảm nhận rủi ro đó. Như vậy doanh nghiệp có thể tránh được tình
trạng khó khăn khi mua ngoại tệ và khoản thiệt hại do chênh lệch tỷ giá hối đoái.
Thương hiệu cũng là một vấn đề hết sức nan giải cho các công ty bảo hiểm nhỏ, mới thành
lập. Với thời gian hoạt động ngắn ngủi, cùng với kinh nghiệm non trẻ của mình, các công ty bảo
hiểm nhỏ, mới thành lập khó kiếm được một chổ đứng cho mình trong thị trường cạnh tranh
khốc liệt như hiện nay. Nếu giải quyết vấn đề này bằng các hình thức khuyến mại, quảng cáo thì

chi phí kinh doanh sẽ tăng cao, doanh thu thấp sẽ dẫn đến dẫn đến kết quả kinh doanh thấp là
điều tất yếu. Với việc nhận tái bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm gốc sẽ giải quyết được triệt để
vấn đề nêu trên.Các công ty bảo hiểm lớn thường nhận được nhiều hợp đồng bảo hiểm,và với
mục đích phân tán rủi ro đồng thời cân bằng hoạt động kinh doanh, các công ty này sẽ tiến hành
nhượng bảo hiểm cho các công ty khác, đây chính là cơ hội cho các công ty nhỏ, mới thành lập
có được nguồn thu giúp nó tồn tại và tìm kiếm cơ hội phát triển.
III. THỰC TRẠNG – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC.
1. MỘT SỐ NÉT CHÍNH CỦA THỊ TRƯỜNG
1.1. Kinh tế và thị trường bảo hiểm thế giới.
Kinh tế thế giới
23




Khủng hoảng tài chính thế giới đã để lại nhiều khó khăn đối với toàn bộ các ngành kinh
tế trong đó ngành bảo hiểm cũng chịu nhiều tổn thất không kém.



Các giải pháp kích thích kinh tế của chính phủ mỗi quốc gia tác động lớn đến ngành bảo
hiểm cũng như tái bảo hiểm.



Thị trường mua, bán và sát nhập đang có những biến đổi lớn.



Thái độ lạc quan, thận trọng và quá trình phục hồi của nền kinh tế thế giới.


Thị trường bảo hiểm thế giới


Sự sụt giảm thị trường vốn và lãi suất trái phiếu.



Tổn thất và chi phí dịch vụ gia tăng.



Lạm phát làm giảm giá trị vốn.



Đối mặt với vấn đề bảo hiểm dưới giá trị.



Xu hướng tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính, đồng thời thắt chặt các điều khoản,
điều kiện trong lĩnh vực bảo hiểm.



Lợi tức hoạt động sụt giảm (lỗ) ở hầu hết các công ty bảo hiểm.

1.2. Kinh tế - Xã hội Việt Nam.
Chỉ tiêu
Tăng trưởng GDP (%)


2005

2006

2007

2008

2009

8.40

8.17

8.46

6.18

5,3

Tăng trưởng vốn đầu tư phát triển (%)

25.2

20.3

15.8

22.5


Tăng trưởng giá trị SX công nghiệp(%)

17.2

17.0

17.1

13.9

Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)

32.20

39.60

48.56

62.70

51.3

Kim ngạnh nhập khẩu (tỷ USD)

36.9

44.41

62.7


80.7

61.

Vốn FDI đăng ký (tỷ USD)

3.89

7.56

17.86

64.01

19.

Vốn ODA giải ngân (Tỷ USD)

1.75

1.78

2.10

2.20

Thu ngân sách nhà nước (Nghìn tỷ)

217.000


270.982

320.459

411.115

357.94

Chi ngân sách nhà nước (Nghìn tỷ)

262.500

319.130

380.631

474.387

419.57

8.3

7.5

8.3

22.97

6.8


· Một số chỉ tiêu chính:

Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) %



Kinh tế đã vượt qua khủng hoảng nhưng chậm chuyển dịch về cơ cấu.



Lạm phát có nguy cơ tái phát



Tiếp tục đối mặt với các khó khăn, thách thức mới.
24

7.


1.3. Thực trạng phát triển ngành bảo hiểm ở Việt Nam (2005-2009).
Phạm vi – Quy mô của thị trường

Chỉ tiêu
Doanh thu phí BH

Năm

Năm


Năm

Năm

2005

2006

2007

2008

Năm

T/trưởng

2009

BQ

13,616

14,928

17,650

21,253

25,510


16.1%

-Phi nhân thọ

5,535

6,445

8,213

10,950

13,661

24.55%

-Nhân thọ

8,081

8,483

9,437

10,303

11,849

9.09%


Tỷ trọng phí BH/GDP

1.62

1.42

1.55

1.75

2.

Đầu tư trở lại nền K/tế

25,724

30,661

46,549

58,643

3
66,913

Bồi thường bảo hiểm

4,469


5,690

6,627

9,401

9,721

Dự phòng nghiệp vụ

23.440

27.707

35.685

40.804

49.134

Phí bảo hiểm và tỷ trọng/GDP
Đơn vị: tỷ đồng

25

28.66%


×