Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

tom tat luan an v lễ hội truyền thống của người m’nông preh huyện krông nô, tỉnh đăk nông trong xã hội đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.32 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Lê Khắc Ghi

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH
HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG
TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 9229041

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN

Hà Nội - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Ánh
Phản biện1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Viện
Họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Số 32, phố Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi ......, ngày


tháng

năm 2018.

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam;
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội truyền thống M’Nông Preh là sinh hoạt cộng đồng tiêu
biểu và quy mô nhất của cư dân bản địa. Đây là những hoạt động
mang tính tổng hợp của tín ngưỡng tâm linh, sinh hoạt văn hóa, trao
truyền kỹ năng sống, hoạt động vui chơi, giải trí; đồng thời xây dựng
tinh thần cố kết cộng đồng, giữ cho cộng đồng tồn tại và phát triển
qua hàng ngàn đời.
Trước sự thay đổi mau chóng của đời sống xã hội, kinh tế phát
triển đã tác động đến cuộc sống sinh hoạt của người M’Nông Preh.
Môi trường sống đã bị bó hẹp, xa rừng - nơi hình thành nên cốt lõi
của văn hóa truyền thống. Nguy cơ hơn là việc cải đạo, giảm sút thực
hành tín ngưỡng, sự xúi giục của Tin lành Đê Gar loại bỏ sinh hoạt lễ
hội, nghi lễ trong đời sống cộng đồng, do đó ảnh hưởng đến việc phục
hồi lễ hội truyền thống.
Xuất phát từ thực tiễn, tôi đi đến xác định và lựa chọn đề tài
nghiên cứu: Lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện
Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại.
2. Mục đích nghiên cứu

- Thông qua việc giới thiệu tổng quan lễ hội truyền thống người
M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông nhằm chỉ ra tổng thể
hình ảnh đời sống văn hóa cộng đồng, nêu được những giá trị văn hóa
truyền thống thông qua sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là lễ hội.
- Nêu ra những nhân tố tác động làm thay đổi lễ hội truyền
thống, chỉ ra những tác động của việc phục hồi lễ hội đến đời sống
cộng đồng M’Nông trong xã hội đương đại. Đề xuất những giải pháp
cụ thể để phục dựng lễ hội trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đảm
bảo hài hòa giữa bảo tồn và phát triển văn hóa ở đại phương.


2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Lễ hội truyền thống
M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong bối cảnh chung
của lễ hội và sinh hoạt cộng đồng M’Nông tại tỉnh Đăk Nông. Khi
tiếp cận nghiên cứu đối tượng trên, luận án sẽ nghiên cứu giới thiệu
tổng thể và những thành tố của lễ hội truyền thống M’Nông Preh
huyện Krông Nô. Mặt khác, lễ hội truyền thống M’Nông Preh cũng
được đặt trong bối cảnh hiện nay với sự phát triển đời sống xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: là không gian lễ hội của cộng đồng
M’Nông Preh thuộc huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông; trong đó tập
trung khảo sát tại một số bon trên mười tám bon có những điều kiện
kinh tế xã hội khác nhau như bon KTăh xã Quảng Phú; bon Ol, Giang
Trum xã Đăk Rô; bon Ja Răh, R’Cập xã Nâm Nung; bon Jor Linh,
Dru, Brói thị trấn Đăk Mâm. Qua đó so sánh, đối chiếu để làm rõ
những yếu tố thay đổi của lễ hội trong đời sống cộng đồng.

Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu thực tế tổ chức lễ hội
truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô từ năm 2004 (sau khi
thành lập tỉnh Đăk Nông), có đề cập đến thời gian trước và sau năm
1975 khi Tây Nguyên được giải phóng, đất nước thống nhất để nhìn
thấy quá trình chuyển biến trong việc tổ chức lễ hội truyền thống.
4. Giả thuyết nghiên cứu
-Sự cởi mở, đổi thay của điều kiện kinh tế xã hội có sự tác động
đến đời sống cộng đồng. Tuy nhiên với lối sống không còn gắn bó với
rừng, từ canh tác nương rẫy sang canh tác cây công nghiệp, sinh hoạt
tôn giáo đã ảnh hưởng tiêu cực đến tín ngưỡng dân gian dẫn đến thay
đổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng làm thay đổi lễ hội truyền thống.


3

- Sự hạn chế của tổ chức lễ hôi truyền thống hoặc những thay đổi
của lễ hội truyền thống đã có những tác động tiêu cực và ảnh hưởng
đến sinh hoạt văn hóa truyền thống.
- Lễ hội truyền thống người M’Nông Preh là sinh hoạt cộng
đồng hết sức tích cực nếu như các giá trị truyền thống được giữ vững
và các sinh hoạt cộng đồng được bảo tồn.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chính của luận án là phân tích, lý giải: tại
sao lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô,
tỉnh Đăk Nông lại có sự thay đổi như vậy. Sự thay đổi diễn ra như thế
nào, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi và hệ quả của quá trình thay đổi
này ra sao. Những thay đổi trong việc tổ chức lễ hội truyền thống đã
nói lên điều gì trong điều kiện có sự hỗ trợ của nhà nước, các cấp
chính quyền trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, vận động xây
dựng nông thôn mới.

6. Phương pháp nghiên cứu
-Văn hóa học, văn hóa dân gian, tư liệu đã xuất bản, điền dã dân
tộc học để tham dự, phỏng vấn sâu, quan sát, ghi chép, ghi âm, ghi
hình; phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và đánh giá thông tin.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Trên cơ sở cái nhìn tổng quát về lễ hội truyền thống của người
M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông và việc phục hồi trong
xã hội đương đại.
- Góp phần vào việc nhận thức của chủ thể văn hóa, của xã hội
về nguy cơ của một loại hình văn hóa đang bị mai một, từ đó thay đổi
cách nhìn, ý thức trong bảo tồn văn hóa truyền thống.
- Từ cơ sở lý thuyết của đề tài ứng dụng vào thực tế của địa
phương nhằm phục hồi lễ hội truyền thống theo tâm nguyện của cộng
đồng và chính quyền địa phương.


4

8. Bố cục luận án
Ngoài Mở đầu (13 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo
(17 trang), Phụ lục (31 trang), nội dung luận án chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (42
trang)
Chương 2: Phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh
ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông (69 trang)
Chương 3: Nhận định về sự phục hồi lễ hội truyền thống trong
xã hội đương đại (58 trang)
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trường Sơn - Tây Nguyên là vùng văn hóa đa dạng, phong phú,
trong đó văn hóa M’Nông là một trong những chủ thể nền văn hóa đã
cuốn hút nhiều nhà nghiên cứu. Trước năm 1954, những công trình
nghiên cứu liên quan đến người M’Nông phần lớn là của một số học
giả người Pháp. Trước hết phải nói đến H. Bernard với tác phẩm:
Những cư dân mọi ở Đắk Lắk; Henri Maitre với khảo cứu đồ sộ Rừng
người Thượng: Vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam. Có
thể nhận thấy các công trình này chủ yếu phác thảo và giới thiệu khái
quát về người M’Nông trong cộng đồng các dân tộc thiểu số cao
nguyên miền Trung Việt Nam; chủ thể văn hóa của những vùng cao
nguyên rộng lớn này.
Sau năm 1954, có một số công trình nổi bật như Minority group
in the Republic of Viet Nam (Các nhóm thiểu số ở Việt Nam cộng hòa)
(Shrock II and others) hay Son of the mountains; Ethnohistory of the
Vietnamese Central Highlands to 1954 (Những người con của núi
rừng: lịch sử tộc người ở Cao Nguyên Việt Nam đến năm 1954). Đáng
chú ý là công trình của G. C. Hickey Free in the forest: Ethnohistory


5

of the Vietnamese Central Highlands 1954 -1976 (Tự do trong rừng:
lịch sử tộc người ở Cao Nguyên Việt Nam 1954-1976)... Đặc biệt là
công trình nghiên cứu về người M’Nông Gar của Georges
Condominas Nous avons mangé la forêt xuất bản năm 1974 lần đầu
tiên ở Pháp. Vào năm 2003 và năm 2008 ở Việt Nam, công trình được
Nhà xuất bản Thế giới ấn hành với tựa đề Chúng tôi ăn rừng đá Thần Gôo và tiểu tựa (Hii saa Brii Mau-Yaang Gôo) Biên niên sử về
làng Sar Luk của người M’Nông Gar (Bộ tộc tiền Đông Dương trên
cao nguyên miền Trung Việt Nam). Bên cạnh đó, với cách tiếp cận

liên ngành xã hội học, dân tộc học và ngôn ngữ học, Georges
Condominas đã rất thành công trong các bài biên khảo ở Việt Nam và
Đông Nam Á từ năm 1953 đến năm 1976 được ấn hành năm 1978 với
tên gọi L’Espace social. A propos de l’Asie du Sud-Est, cho đến năm
1997 công trình này được dịch ra bản tiếng Việt với tựa đề Không
gian xã hội vùng Đông Nam Á được đánh giá khá cao, là tư liệu khảo
cứu có giá trị.
Trước năm 1975, những học giả, nhà khoa học ở miền Nam Việt
Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về người M’Nông như
Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam; nguồn gốc và phong tục
(1970) của Nguyễn Trắc Dĩ; một số bài báo của Nghiêm Thẩm in trên
Nguyệt san Quê Hương năm 1961 như: “Tìm hiểu đồng bào
Thượng”,“Nền kinh tế của đồng bào Thượng Trung nguyên Trung
phần”; hay một số bài “Phong quang tỉnh Đắk Lắk” (Hồ Xuân Đàm,
1969); “Đồng bào sơn cước tại Việt Nam cộng hòa” (Lê Đình Chi,
1972); “Việt Nam chí lược: Cao nguyên miền Thượng” (1974) của
Cửu Long Giang - Toan Ánh… Những công trình nghiên cứu văn hóa
tộc người M’Nông vào thời điểm trước năm 1975 đã có sự chú ý đầu
tư, nhưng người M’Nông được đề cập chỉ mang tính khái lược và giới
thiệu chưa có tính chuyên sâu và hàm lượng khoa học còn hạn chế.


6

Sau năm 1975, với sự quan tâm và tập trung của các nhà khoa học,
cơ quan nghiên cứu, đặc biệt là Viện Dân tộc học, người M’Nông đã
được đề cập chuyên sâu trong các công trình khoa học. Tiêu biểu là
công trình: Các dân tộc ít người ở Việt Nam- các tỉnh phía Nam (1984)
của Viện Dân tộc học; Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (1999)
của nhóm tác giả Hoàng Văn Trụ, Đặng Văn Lung, Sông Thao; Lưu

Hùng với Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên (1996); Văn hóa các dân tộc
Tây Nguyên, thực trạng và những vấn đề đặt ra (2004) do Trần Văn
Bính chủ biên; Công trình Những khía cạnh của văn hóa dân gian
M’Nông Noong (2001) của Đỗ Hồng Kỳ; Văn hóa, xã hội và con người
Tây Nguyên (2007) Nguyễn Tấn Đắc; Những mảng màu văn hóa Tây
Nguyên (2007) của Ngô Đức Thịnh… Đây là những công trình nghiên
cứu có đầu tư với hàm lượng khoa học cao về người M’Nông, khái quát
về tộc người với những đặc điểm chung về dân số, địa bàn cư trú, đời
sống vật chất, tinh thần; trong đó đã khảo tả tương đối cụ thể về văn
hóa của tộc người M’Nông đề cập đến lễ hội của cư dân bản địa. Ngoài
ra còn có nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu một
vài khía cạnh cụ thể trong đời sống văn hóa xã hội và lễ hội của cộng
đồng M’Nông.
* Nhận xét về tình hình nghiên cứu các vấn đề đã được đề cập tới
Thông qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu về con người
và văn hóa M’Nông có thể cho thấy một bức tranh tổng thể về đời
sống xã hội, với những vấn đề về lịch sử, thành phần dân tộc, địa bàn
sinh sống, sản xuất đến các sản phẩm văn hóa. Có thể nhận thấy khá
rõ về những nét tiêu biểu về văn hóa tinh thần của các nhóm địa
phương của tộc người M’Nông phản ánh các sinh hoạt tín ngưỡng, lễ
hội và các sinh hoạt văn hóa cộng đồng khác; đặc biệt các nghi lễ, lễ
hội tiêu biểu của người M’Nông, trong đó có người M’Nông Preh.
Bên cạnh nghi lễ vòng đời người, nghi lễ vòng cây trồng đã cho thấy
một số lễ hội tiêu biểu của người M’Nông nói chung và người


7

M’Nông Preh nói riêng, tiêu biểu là tác giả Condominas, Ngô Đức
Thịnh, Đỗ Hồng Kỳ, Tô Đông Hải...

Một số tác giả đã tập trung nghiên cứu phục hồi di sản văn hóa
Tây Nguyên và chỉ ra những tồn tại trong xã hội đương đại, trong đó
có việc giao lưu ảnh hưởng về văn hóa, đứt gãy về văn hóa truyền
thống, đồng hóa tự nhiên về văn hóa và xu hướng phục hồi văn hóa
truyền thống.
Điểm lại các công trình nghiên cứu về lễ hội truyền thống, sự phục
hồi lễ hội truyền thống người M’Nông trong đó có người M’Nông Preh
ở huyện K’rông Nô thật sự chỉ dừng ở mức độ hạn chế. Các công trình
nghiên cứu và bài viết cũng còn ít ỏi về lễ hội, về phục hồi lễ hội của
tộc người M’Nông, đặc biệt là người M’Nông Preh và đây là một
khoảng trống, một thực tế cần phải quan tâm và tác giả đã chọn vấn đề:
Lễ hội truyền thống người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk
Nông trong xã hội đương đại làm đề tài luận án của mình.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
Có nhiều cách hiểu về lễ hội, những nhà nghiên cứu trong nước
đã gọi tên khác nhau như: lễ hội dân gian, lễ hội cổ truyền, lễ hội
truyền thống, hội hè. Lễ hội truyền thống với các tác giả Lê Trung
Vũ, Lê Hồng Lý, Bùi Hoài Sơn, Thạch Phương, Ngô Đức Thịnh; lễ
hội dân gian với các tác giả Đinh Gia Khánh, Lê Trí Đức; lễ hội cổ
truyền với các tác giả Nguyễn Chí Bền, Thu Linh, Đặng Văn Lung,
Lê Trung Vũ; hội hè có các tác giả Toan Ánh, Đặng Quốc Vượng,
Trương Thìn.
Tuy nhiều nhà khoa học dùng từ lễ hội trong các khái niệm khác
nhau nhưng với ý nghĩa chỉ một hình thức diễn xướng tâm linh trong
tương quan với các loại hình, hoạt động văn hóa truyền thống. Qua
tìm hiểu lễ hội người M’Nông mà chúng tôi nhận thấy, chỉ có một số
nghi lễ quan trọng: “cầu mưa”, “mừng mùa”, “bến nước”, “cầu an”...



8

thì sẽ trở thành lễ hội. Do vậy, chúng tôi nhận thấy rằng: Lễ hội là
một chỉnh thể gồm cả nghi lễ lẫn sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nhưng
yếu tố quyết định vẫn là lễ và những nghi lễ nào được cộng đồng
tham gia với các sinh hoạt đa dạng và phong phú, thì lễ đó theo thời
gian trở thành lễ hội.
Khái niệm về truyền thống (tradition) “là thói quen hình thành đã
lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang
thế hệ khác”. Theo Từ điển tiếng Việt của Hội ngôn ngữ học Việt Nam
từ “phục hồi” là trả lại, hồi lại. Trong tác phẩm Xây dựng năng lực thiết
kế, triển khai và đánh giá các dự án bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể:
“Phục hồi di sản phi vật thể là việc dựa trên các tư liệu khoa học và
nhân chứng hồi ức lịch sử để tái tạo lại một phần hoặc toàn bộ nội dung
và hình thức thể hiện của di sản phi vật thể đã mất”. Hay có thể hiểu
một nghĩa cụ thể hơn thì phục hồi lễ hội truyền thống là làm hồi sinh
hay sống lại các di sản cộng đồng, đồng nghĩa với việc tái hiện, thực
hành các nghi lễ và các thành tố trong lễ hội truyền thống.
1.2.2. Lý thuyết tiếp cận vấn đề
Lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống người M’Nông Preh
huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong thời kỳ hiện đại là một đề tài
khá hấp dẫn các nhà nghiên cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn quan
tâm để nghiên cứu và sử dụng nhiều trường phái lý thuyết, quan điểm
khác nhau, nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra cho phù hợp với từng
chuyên ngành. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi sẽ sử dụng cơ
sở lý thuyết, quan điểm học thuật trong ngành khoa học văn hóa dân
gian, nhân học văn hóa làm phương pháp tiếp cận mong muốn rằng từ
góc độ tiếp cận về văn hóa học, văn hóa dân gian và nhân học văn
hóa, chúng tôi sẽ sử dụng quan điểm học thuật về phục hồi di sản văn
hóa phi vật thể để giải quyết các mục tiêu đặt ra của luận án.

* Quan điểm học thuật về phục hồi di sản văn hóa phi vật thể


9

Việc phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh,
huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc
tổ chức phục hồi lễ hội truyền thống đang phải đối diện với những
khó khăn, thách thức to lớn của đời sống có nhiều thay đổi trong xã
hội đương đại. Dựa trên các nguyên tắc bảo vệ di sản phi vật thể nói
chung và lễ hội truyền thống nói riêng thì đảm bảo bốn đặc tính cơ
bản: tính chỉnh thể, tính bình đẳng, tính cộng đồng và tính biến đổi.
Do vậy, khi soi chiếu về việc nghiên cứu, phục hồi các lễ hội truyền
thống, những đặc tính đó đều có giá trị quan trọng trong việc tái tạo
và thực hành các thành tố trong lễ hội truyền thống.
Vấn đề phục hồi những di sản văn hóa nói chung và lễ hội truyền
thống nói riêng đã phát sinh những quan điểm khác nhau trong vấn đề
nhận thức, quản lý, tổ chức; sự đồng thuận của cộng đồng và chính
quyền các cấp. Theo quan điểm phục hồi văn hóa phi vật thể của
Công ước về bảo vệ văn hóa phi vật thể UNESCO năm 2003, di sản
được xác định vẫn còn hiện diện trong đời sống cộng đồng và trong kí
ức của các thành viên, đặc biệt là lễ hội truyền thống là đối tượng của
hoạt động phục hồi.
Tính bình đẳng là tiêu chí quan trọng để nhận diện vị trí ngang
bằng của văn hóa các dân tộc. Đó là một trong bốn đặc tính cơ bản
của di sản văn hóa phi vật thể mà tính bình đẳng đã được đề cao.
Biến đổi cũng là thuộc tính của di sản văn hóa phi vật thể trong
một xã hội luôn có sự thay đổi và phát triển không ngừng. Cộng đồng
vừa giữ gìn những di sản truyền thống vừa phải chấp nhận sự thay đổi
cho phù hợp với điều kiện sống của một xã hội hiện đại.

Với việc áp dụng quan điểm học thuật về phục hồi di sản văn
hóa phi vật thể chúng tôi sẽ nghiên cứu cụ thể những nội dung sau:
- Nghiên cứu cách thức cộng đồng, bon làng đã phục hồi như thế
nào trong việc thực hiện các nội dung, các quy định và cách thức tổ
chức quản lý lễ hội.


10

- Nghiên cứu việc thực hành lễ hội (các nghi lễ, nghi thức...) và
việc tái tạo lễ hội truyền thống triển khai như thế nào.
- Nghiên cứu những yếu tố tác động đến quá trình phục hồi và
chủ thể văn hóa (cộng đồng) này làm những gì, yếu tố bên ngoài
(khách quan, chủ quan) tác động như thế nào.
- Nghiên cứu hệ quả của việc phục hồi lễ hội truyền thống về văn
hóa, xã hội và di sản cộng đồng có gì sai hay không, có phù hợp và
tương thích với xã hội đương đại.
1.3. Người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông
1.3.1. Đặc điểm tự nhiên và dân cư
Người M’Nông Preh là một nhánh của tộc người M’Nông, là cư
dân sinh sống lâu đời ở vùng đất này.
1.3.2. Sinh hoạt văn hóa vật chất
Kinh tế truyền thống của người M’Nông Preh là kinh tế nương
rẫy, hái lượm và săn bắt. Kinh tế nương rẫy chiếm vị trí quan trọng
đối với người M’Nông, họ khai phá các khu rừng để làm rẫy theo kiểu
luân khoảnh-“ăn rừng”; nhưng ngày nay họ từng bước chuyển đổi
chuyên canh cây công nghiệp như: cà phê, hồ tiêu, cao su.
1.3.3. Sinh hoạt văn hóa tinh thần
Người M’Nông có kho tàng văn hoá dân gian đồ sộ, đa dạng,
phong phú. Nghệ thuật dân gian M’Nông được cộng đồng sáng tạo từ

kiến trúc bon, nhà ở, trang trí đến âm nhạc, múa đều có nét khác biệt,
tinh tế và độc đáo. Với tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” và “đa thần”,
hồn, tô tem-vật tổ nên người M’Nông cho rằng hầu hết cuộc sống con
người do thần linh chi phối; do đó con người phải tôn thờ thần linh và
cúng tế thần linh để được sự che chở, chuộc tội lỗi và cầu mong cuộc
sống bình yên. Với hai hệ thống lễ nghi chính là: lễ nghi nông nghiệp
và lễ nghi vòng đời người. Cộng đồng M’Nông Preh có những lễ hội
dân gian sau: Mừng mùa (Bư brah bă), Sum họp cộng đồng (R’nglăp


11

bon), Cúng bến nước (Bư brah dơrâm dăk), Cầu mưa (Bư brah qual
mih), Cầu an (Tăm blang m’prang bon).
Tiểu kết
Những vấn đề tiếp cận có tính chất nền tảng đã làm sáng tỏ một
số khái niệm cơ bản về lễ hội truyền thống cũng như việc phục hồi
trong xã hội đương đại, giúp cho người nghiên cứu, tiếp cận và giải
quyết các vấn đề đã đặt ra trong luận án. Trên cơ sở các khái niệm đã
được làm sáng tỏ, chúng tôi đã nhận thấy những nét khác nhau trong
nội hàm ý nghĩa của các khái niệm về lễ hội của người M’Nông Preh
trong nền cảnh chung của xã hội Tây Nguyên.
Với những nét khái quát của đời sống xã hội của người M’Nông
Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông đã cho thấy bức tranh tổng
thể về địa bàn cư trú, hoạt động kinh tế xã hội, sinh hoạt văn hóa cộng
đồng trong đó có đời sống tâm linh, tín ngưỡng và lễ hội truyền thống.
Chương 2
PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG
PREH Ở HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG
2.1. Các lễ hội truyền thống

2.1.1. Đặc trưng của lễ hội M’Nông Preh
Lễ hội truyền thống là nơi hàm chứa tri thức bản địa, các nguyên
tắc ứng xử, đạo đức con người, sự khôn khéo và tình cảm của cộng
đồng, điều chỉnh các mối quan hệ; đồng thời lễ hội nhằm cố kết cộng
đồng. Cộng đồng M’Nông Preh sống ở môi trường rừng núi với khí
hậu đặc trưng đã tạo nên chu kỳ sinh trưởng của cây trồng hình thành
nhịp điệu sản xuất với hoạt động canh tác nương rẫy hết sức riêng
biệt; cư dân bản địa đã tạo dựng nên những sinh hoạt văn hóa cộng
đồng hết sức độc đáo trong đó có lễ hội; phản ánh rõ nét những giá trị
văn hóa của cộng đồng sống với rừng và canh tác nương rẫy.
Người M’Nông Preh có quan hệ mật thiết với các nhánh
M’Nông khác nhau và các tộc người Tây Nguyên, tuy cộng đồng


12

M’Nông chủ yếu định cư ở vùng Đăk Nông nhưng người M’Nông
sống gần gũi với các tộc người khác như Mạ, Ê Đê và S’tiêng nên có
sự ảnh hưởng của văn hóa của các tộc người này.
2.1.2. Khái quát các lễ hội
Người M’Nông Preh có những lễ hội như: Mừng mùa (Bư brah
bă), Sum họp cộng đồng (R’nglăp bon), Cúng bến nước (Bư brah
dơrâm dăk), Cầu mưa (Bư brah qual mih), Cầu an (Tăm blang
m’prang bon).
2.1.3. Lễ hội Cầu an (Tăm blang m’prang bon)
Lễ hội Tăm blang m’prang bon là lễ hội truyền thống của người
M’Nông Preh ở xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông.
Theo giải thích của người M’Nông Preh tăm là trồng, blang là cây
gạo, m’prang là cúng. Tăm blang m’prang bon là lễ cúng cầu mong an
lành cho bon làng. Theo tục lệ cứ mỗi lần đâm trâu người M’Nông lại

trồng 1 cây gạo trong bon để ghi nhớ. Sau khi du canh hay du cư lúc
quay về có dấu hiệu để nhận biết bon cũ họ đã từng sinh sống. Lễ hội
được bốn bon phối hợp tổ chức tại vị trí giáp ranh của bon Ja Răh,
bon Yok Ju, bon R’Cập và bon Rung thộc xã Nâm Nung. Lễ hội ăn
một trâu đực trưởng thành, 2 heo và gà để tế và cúng trong các nghi lễ
lớn của lễ hội và 7 ché yăng n’dranh lớn gạo nếp và gạo lúa rẫy. Kinh
phí tổ chức là 40 triệu đồng do chính quyền tài trợ.
2.2. Chủ thể và khách thể với lễ hội
2.2.1. Vai trò của cộng đồng
Chủ thể của lễ hội truyền thống là cộng đồng M’Nông Preh, họ đã
sáng tạo, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Cộng đồng tự xây dựng chương
trình, sắp xếp bố trí công việc, lựa chọn cách thức tổ chức. Sự phát triển
kinh tế xã hội làm thay đổi niềm tin, tín ngưỡng và của từng bon làng
đã tác động mạnh mẽ đến việc duy trì các nghi lễ truyền thống và tiến
hành tổ chức lễ hội. Cộng đồng ngày nay có thể giàu có hơn ngày xưa
nhưng việc ý thức bảo tồn văn hóa truyền thống khó đoán định; không


13

có ai chèo lái, đứng mũi chịu sào có thể huy động được nhân lực, vật
lực từ cộng đồng; chưa thể đánh thức tính tự giác, vô tư của họ đảm bảo
cho việc phát triển văn hóa theo suốt hàng ngàn đời.
Việc phục hồi lễ hội truyền thống là việc làm có ý nghĩa và cộng
đồng là người triển khai thực hiện như thế nào với di sản của mình.
2.2.2. Vai trò của già làng, nghệ nhân
Trong xã hội truyền thống, già làng giữ vai trò hết sức quan trọng,
là người điều hành, dẫn dắt cộng đồng, là người quyết định mọi vấn đề
đối với sự phát triển, tổ chức các hoạt động văn hóa trong đó có tổ chức
lễ hội. Già làng, nghệ nhân là lực lượng cốt cán của cộng đồng, là

những người nắm cơ bản, vững chắc về văn hóa truyền thống lại bị
động chịu sự điều hành quản lý, do đó việc tổ chức triển khai thực hiện
cũng gặp hết sức khó khăn, mâu thuẫn diễn ra thường xuyên.
2.2.3. Chính quyền và cán bộ cơ sở
Do điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, nhất là cộng đồng
M’Nông Preh còn khó khăn, do đó việc phục hồi các lễ hội truyền
thống đang được tổ chức tại địa phương luôn được bảo trợ của chính
quyền, của nhà nước. Chính quyền cơ sở đã “dài tay” trong việc phục
hồi các lễ hội truyền thống, do họ nhìn nhận với vai trò là người quản
lý xã hội, do đó cũng là người trực tiếp quản lý, chỉ đạo các hoạt động
văn hóa cơ sở, trong đó có lễ hội.
2.3. Tình hình tổ chức phục hồi lễ hội truyền thống ở huyện
Krông Nô, tỉnh Đăk Nông
Tuy chịu sự khốc liệt của chiến tranh nhưng cộng đồng M’Nông
Preh cố gắng giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông, việc
tổ chức các sinh hoạt văn hóa truyền thống cũng được duy trì, trong
đó có lễ hội; nhưng tính quy mô đã được thu gọn cho phù hợp với
điều kiện chiến tranh. Sau năm 1975, đất nước được giải phóng, cộng
đồng M’Nông Preh bắt tay xây dựng đời sống mới, khắc phục hậu quả
chiến tranh; điều kiện để tổ chức lễ hội cũng gặp không ít khó khăn.


14

Những năm của đất nước đổi mới, cộng đồng các dân tộc Tây
Nguyên cũng chịu sự tác động của việc mở rộng sản xuất, việc di cư ồ
ạt của người Kinh và các tộc người phía Bắc lên Tây Nguyên đã làm
đảo lộn cuộc sống nơi đây. Trong điều kiện đó, việc lấn đất, phá rừng,
nhịp sống mới với những tiện ích của khoa học kỹ thuật và văn hóa
Kinh, văn hóa ngoại lai đã bắt đầu nhen nhóm trong cộng đồng các

tộc người thiểu số tại chỗ. Các tôn giáo mới (Tin lành Đê gar) đã len
lỏi trong đời sống bon làng, hủy hoại văn hóa truyền thống. Do chịu
sự chi phối lớn của văn hóa mới và những vấn đề tiêu cực đã tác động
nên hầu như các lễ hội và nghi lễ ít khi được tổ chức trong cộng đồng.
- Năm 2004, tỉnh Đăk Nông được tái lập, được sự hỗ trợ của
chính quyền các cấp, cộng đồng M’Nông Preh ở huyện Krông Nô đã
tổ chức phục dựng được 20 lễ hội và nghi lễ của dân tộc M’Nông,
trong đó có 5 lễ hội M’Nông Preh ở huyện Krông Nô.
Qua thực tế, lễ hội đã được khôi phục cộng đồng hồ hởi, phấn
khởi tham gia nhưng không tránh khỏi những đổi thay hết sức phiền
phức cho cộng đồng, đặc biệt là già làng và các nghệ nhân, chủ thể
loại hình văn hóa này. Nhìn chung, so với những mục tiêu đặt ra trong
việc phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh đã đạt được
những vấn đề cơ bản còn lưu giữ trong ký ức cộng đồng.
Tiểu kết
Lễ hội truyền thống là một hiện tượng văn hóa mang tính phổ
biến và giữ vị trí quan trọng trong đời sống cộng đồng. Đây là loại
hình sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng cao, nhưng lễ hội truyền
thống hàm chứa những nét đặc trưng riêng biệt, phản ánh những giá
trị văn hóa tốt đẹp được thể hiện qua các nghi lễ truyền thống, lễ vật
dâng cúng, diễn xướng và trò chơi dân gian hết sức độc đáo, phản ánh
đầy đủ những ứng xử hết sức tinh tế và hài hòa giữa con người với
con người, con người với tự nhiên, con người với các đấng thần linh.


15

Lễ hội truyền thống M’Nông Preh đã phản ánh những giá trị văn
hóa của cộng đồng sống với rừng và canh tác nương rẫy. Nét đặc
trưng cơ bản của lễ hội dễ nhận diện là ăn trâu, dựng cây nêu, trồng

cây Blang, cố kết cộng đồng và hướng về cội nguồn. Phân tích và làm
sáng tỏ từ góc độ văn hóa để thấy sự riêng biệt, sự sáng tạo không
ngừng của cộng đồng qua hàng ngàn đời, giúp cho người nghiên cứu
có cái nhìn tổng thể hơn về cộng đồng cư dân và đặc biệt là sức sáng
tạo về văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội, để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu phục hồi lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại.
Chương 3
NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI
3.1. Những vấn đề xung quanh việc phục hồi lễ hội
3.1.1. Sự thay đổi thời gian, không gian lễ hội
Lễ hội được tổ chức khi cộng đồng đã thu hoạch xong nương
rẫy, thông thường tổ chức từ tháng 1 cho đến tháng 3 vào thời điểm
mùa khô ở Tây Nguyên. Ngày nay, để phục vụ cho việc phát triển
kinh tế xã hội và hướng đến kỷ niệm các ngày lễ lớn của địa phương
thì cộng đồng được khuyến khích tổ chức lễ hội vào những ngày,
những thời điểm diễn ra những sự kiện chính trị và văn hóa. Sân lễ
này không những cho một bon có thể liên kết 3 bon, 5 bon phục vụ
cho nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ ổn định xã hội và phát triển văn hóa
cơ sở.
3.1.2. Về nghi lễ
Nghi lễ trong những ngày tổ chức lễ hội thì cộng đồng đều coi là
lễ trọng. Những nghi lễ là lòng thành kính, tri ân gửi gắm, tin tưởng
với các vị thần Brah cầu mong cho sự an lành, may mắn và hạnh
phúc; cho nên nghi lễ là một trong những hoạt động thiêng nhất trong
các lễ hội của người M’Nông Preh.Việc hủy bỏ không “ăn trâu” kéo
theo hàng loạt các nghi thức độc đáo, nhân văn, hài hòa trong lễ hội


16


như: cột trâu, khóc trâu, đâm trâu, cúng đầu trâu, cúng cầu may cho
người đâm trâu... đã không còn nữa; do đó lễ hội cũng kém vui, ít
trang trọng hơn.
3.1.3. Về lễ vật và những vật cúng có liên quan
Những lễ vật, vật cúng theo quan niệm truyền thống của người
M’Nông Preh là những sản vật được chuẩn bị, họ thu hoạch qua quá
trình sản xuất, chăn nuôi, săn bắt hái lượm để dâng lên thần linh trong
các dịp tế lễ. Trong lễ vật dâng cúng ngày nay cũng xuất hiện một số
nông sản của xã hội đương đại như các cây trồng công nghiệp trong
đó có cà phê, ca cao, hồ tiêu và một số cây ăn trái.
3.1.4. Về văn nghệ, trò chơi dân gian
Người M’Nông Preh tổ chức đám rước lễ hội hết sức hoành
tráng. Trò chơi dân gian thực chất là các trò chơi được cộng đồng ưa
thích và sinh hoạt trong các bon làng, thường tổ chức trong các lễ hội
và có điều kiện tái hiện. Ngày nay ban tổ chức đã đưa một số trò chơi
mới trong các lễ hội như uống rượu thi và không quản lý được việc
chè chén dẫn đến say rượu, mâu thuẫn, va chạm thậm chí đánh nhau
trong lễ hội là chuyện đã từng diễn ra.
3.1.5. Vấn đề sân khấu hóa
Trong tổ chức lễ hội truyền thống việc thực hành các nghi lễ, các
nghi thức có lúc, có nơi còn nặng về hình thức sân khấu hóa và sáng
tạo truyền thống theo cách chỉ đạo chưa có sự đồng thuận cao của
cộng đồng mà đôi lúc bản thân họ cảm thấy xa lạ, không thỏa mãn với
những suy nghĩ và ước nguyện của cộng đồng.
3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi của lễ hội
3.2.1. Sự thay đổi môi trường sống
Môi trường sống là nơi cộng đồng tồn tại và phát triển, các loại
hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng được tạo dựng và dẫn truyền từ đời
này sang đời khác; môi trường là yếu tố quyết định đến bản sắc văn

hóa vì nó là nền tảng của mọi hoạt động của tiến trình phát triển cộng


17

đồng. Sau 10 năm thành lập tỉnh dân số tăng gấp đôi, diện tích đất
rừng của Đăk Nông giảm đi 150.000 ha, một con số quá lớn đối với
một tỉnh miền núi mà người dân bản địa sống dựa vào rừng. Thực tế,
rừng như biến mất hoàn toàn với không gian sống, các bon ngày nay
sống tách biệt với rừng. Mất đi môi trường sống là mất dần niềm tin
và tín ngưỡng dân gian, đầu mối của các nghi lễ và lễ hội truyền
thống của cộng đồng.
3.2.2. Sự thay đổi sở hữu đất đai và canh tác cây trồng
Đến năm 2017 theo báo cáo của UBND tỉnh Đắk Nông dân số đã
tăng lên 624.000 người. Cộng đồng các dân tộc định cư ở địa phương
đã tăng lên đáng kể, đến nay có 41 dân tộc anh em sinh sống trên vùng
đất Đăk Nông là một sự trở ngại rất lớn cho việc định cư, định canh,
sản xuất bố trí công ăn việc làm, phát triển và ổn định đời sống xã hội.
Tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất đai, mua bán đất trái phép đã diễn ra
hằng ngày; nhất là rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn, vùng đồng bào
dân tộc tộc thiểu số nơi họ đã định cư lâu đời. Ngày nay, người
M’Nông Preh trồng cây công nghiệp như: cà phê, ca cao, hồ tiêu.
3.2.3. Sự thay đổi đời sống xã hội
Bên cạnh cộng đồng các dân tộc thiểu số, người Kinh có một vai
trò quan trọng trong việc đem đến cái mới trong đời sống và sinh hoạt
văn hóa, trong quan hệ với các tộc người thiểu số tại chỗ, có sức ảnh
hưởng rất lớn trong mọi mối quan hệ xã hội, nhất là lối sống hiện đại.
Nhà văn hóa cộng đồng một thiết chế văn hóa ở cơ sở được xây dựng
đều khắp trên các bon theo những khuôn mẫu nhất định, theo ý chí
chủ quan của lãnh đạo địa phương và cơ quan nhà nước đặc biệt là

ngành văn hóa. Việc xây dựng nhanh chóng không tham khảo ý kiến
cộng đồng, không lưu ý đến công năng sử dụng; mặt khác vị trí xây
dựng không phù hợp (có khi đặt khá xa bon), trang thiết bị thiếu thốn,
hoạt động nghèo nàn không thu hút người dân đôi lúc còn xa lạ với
văn hóa truyền thống.


18

Phần lớn tri thức dân gian được lưu giữ trong lực lượng "trí thức
của làng bon" như: thầy cúng, già làng, nghệ nhân. Những con người
được cho là "tinh hoa" của cộng đồng đều có trí nhớ tốt, có năng lực
và được cộng đồng quý trọng, đề cao nhưng hiện tại ít được coi trọng.
Tri thức dân gian là nguồn tri thức quý giá trong cộng đồng, những
giá trị thực tế của nó mặt nào đó còn nguyên giá trị, được cộng đồng
tiếp cận và phát huy trong thời đại ngày nay.
3.2.4. Vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo
Vấn đề tôn giáo ở Tây Nguyên là vấn đề lớn, ảnh hưởng rất
mạnh trong đời sống cộng đồng. Đối với người M’Nông Preh họ là
những cư dân bản địa quen với những tập tục truyền thống và tín
ngưỡng đa thần cũng đã chịu tác động mạnh mẽ của các tôn giáo, tôn
giáo mới.
Việc thực hành tín ngưỡng truyền thống bị giảm sút, hiện tượng
cải đạo trong cộng đồng trở nên phổ biến kéo theo những xáo trộn xã
hội. Nghiêm trọng hơn là các tôn giáo mới như Tin lành Đề ga và một
số tôn giáo mới khác đã cấm đoán, lừa bịp tín đồ, cộng đồng dân tộc
thiểu số không tổ chức các sinh hoạt văn hóa truyền thống.
Cộng đồng say sưa với niềm tin mới, một lòng phụng sự đấng tối
cao, Chúa Trời và dần quên diễn tấu cồng chiêng, các sinh hoạt văn
hóa truyền thống, các nghi lễ thành kính trong mùa lễ hội; các vị thần

hỗ trợ cộng đồng bấy lâu: Thần Sông, Thần Suối, Thần Lúa...thật gần
gũi với bon làng bỗng chốc trở nên xa lạ.
3.3. Hệ quả của quá trình thay đổi của lễ hội
Do đó, việc bảo tồn và phát triển đời sống văn hóa đã trở thành
những chủ đề nóng bỏng trong cuộc tranh luận, hội thảo khoa học và
chính sách phát triển của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên nói
chung và người M’Nông Preh nói riêng. Sự lãng quên dần hay mai
một văn hóa truyền thống là điều báo động và hết sức nghiêm trọng,
cảnh báo một thời kỳ mới với nhiều hệ lụy trong việc bảo tồn văn hóa


19

truyền thống, mà lễ hội là sinh hoạt văn hóa cộng đồng quy mô nhất
của người M’Nông Preh.
3.4. Giá trị văn hóa lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội
đương đại
Lễ hội truyền thống M’Nông Preh là sinh hoạt văn hóa mang
tính hệ thống, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm các
hoạt động nghi lễ, diễn xướng dân gian và các hoạt động vui chơi giải
trí. Tính đa diện và tổng thể của lễ hội đã mang lại những nét đặc
trưng cơ bản, tạo dựng một hình ảnh hoành tráng của các loại hình
sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Trong xã hội đương đại, lễ hội truyền thống vẫn có những giá trị
văn hóa hết sức cao đẹp, luôn hướng con người đến chân, thiện, mỹ.
Chính vì lẽ đó, lễ hội truyền thống còn tồn tại lâu dài trong cộng đồng
và có giá trị nhất định trong xã hội đương đại.
3.5. Xu hướng phát triển của lễ hội M’Nông Preh trong thời
gian tới
Có khi nào cộng đồng tự đặt dấu hỏi về lễ hội truyền thống ngày

nay đã thay đổi đến mức độ nào. Thực tế, văn hóa truyền thống theo
thời gian có sự thay đổi, đó là quy luật tất yếu của sự vận động và
phát triển của xã hội. Nhưng những yếu tố tích cực hay tiêu cực qua
xu hướng thay đổi có để lại những hệ lụy với cộng đồng hay không,
hay đem đến những giá trị văn hóa mới phù hợp với điều kiện sống
trong nền cảnh phát triển chung của xã hội ngày nay.
Việc nhận thức đúng đắn công tác giữ gìn văn hóa truyền thống
không phải là lưu giữ bằng cách cất giữ, niêm phong mà phải được
khơi dậy, tái hiện, trình diễn. Văn hoá lễ hội là văn hóa thực hành, văn
hóa dân gian, nó phải được sống trong môi trường dân gian, trong
cộng đồng.


20

3.6. Vấn đề bảo tồn, phát huy lễ hội truyền thống
Trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội của cộng đồng làng bon
hiện nay đã cho thấy đời sống người dân đã có những thay đổi đáng
kể. Tuy nhiên, so với các dân tộc anh em cùng sống trên mảnh đất
Đắk Nông thì cộng đồng M’Nông Preh thực chất còn gặp rất nhiều
khó khăn; cần có sự hỗ trợ của nhà nước, chính quyền địa phương và
các ban ngành để đảm bảo cho đời sống cộng đồng phát triển lành
mạnh, bền vững. Vấn đề bảo tồn văn hóa cộng đồng, phát huy lễ hội
truyền thống trở nên khó khăn hơn, một chương trình hành động phối
hợp đầy đủ và đồng bộ là thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
Tiểu kết
Trước sự tác động mạnh mẽ của một xã hội đang đổi mới và phát
triển và những tiện ích của tiến bộ khoa học kỹ thuật cùng với sự di
cư ồ ạt của các dân tộc lên Tây Nguyên, cùng với những chính sách
quản lý và hoạt động văn hóa ở cơ sở, công tác bảo tồn và phục dựng

các lễ hội truyền thống đã tác động không nhỏ đến đời sống cộng
đồng và các sinh hoạt văn hóa truyền thống, đặc biệt là lễ hội. Chính
những điều đó là nguyên nhân quan trọng làm cho lễ hội có điều kiện
khôi phục trở lại và trong lễ hội có thể tìm thấy những thay đổi để
thích nghi và hòa hợp với đời sống mới.
Cộng đồng là người sáng tạo, người hưởng thụ cũng là người
bảo vệ và giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp đó. Do đó, cần
phải khẳng định rằng lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại là di
sản của cộng đồng cần được tôn tạo và giữ gìn. Lễ hội thực sự có vai
trò nhất định trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng và mãi tồn tại trong
quá trình phát triển của cư dân bản địa. Để tổ chức lễ hội truyền thống
trong bối cảnh đang có sự thay đổi phải có sự chọn lọc giữa cái cũ và
bổ sung những cái mới cho phù hợp với đời sống xã hội hiện đại.


21

KẾT LUẬN
Lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh là sinh hoạt văn
hóa tiêu biểu, hoành tráng và hàm chứa nhiều giá trị của cuộc sống,
trong đó có nhiều thành tố văn hóa giữ nền tảng cho cộng đồng phát
triển và tồn tại, là những biểu tượng về hành động cao đẹp về việc
ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên và con
người với các đấng thần linh, với đặc trưng là văn hóa rừng, văn hóa
canh tác nương rẫy, do đó cộng đồng đã sáng tạo ra những loại hình
văn hóa độc đáo, mà lễ hội là đỉnh điểm của sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, minh chứng cho sự sáng tạo không ngừng của bao thế hệ đã bồi
đắp và nuôi dưỡng.
1. Trải qua những giai đoạn phát triển lâu dài của cộng đồng
M’Nông Preh ở huyên Krông Nô tỉnh Đắk Nông với nhiều biến động

dữ dội của đời sống từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
xâm lược; chống Phun Rô sau khi đất nước được giải phóng; xây
dựng cộng đồng, người M’Nông Preh đã thể hiện tinh thần đoàn kết,
thống nhất, quyết hi sinh để bảo vệ mảnh đất ngàn đời của ông bà đã
tạo dựng. Họ là những cư dân tại chỗ, sống với rừng, canh tác rừng,
săn bắt và hái lượm, cùng với những tri thức bản địa và kỹ năng sống
trong môi trường rừng núi, sự tích lũy kinh nghiệm sống cũng như các
hoạt động sáng tạo, sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật; đã làm nên sắc thái
văn hóa, nghệ thuật hết sức ấn tượng, hình thành lên những dấu ấn
riêng biệt và có thể nhìn nhận qua nhưng di sản văn hóa cộng động đã
để lại cho đến ngày nay. Có thể nhận hết sức cụ thể các loại hình nổi
bật như: cồng chiêng, Ót ndrong-sử thi, dân ca dân vũ, đặc biệt là lễ
hội một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống độc đáo;
trong đó văn hóa cồng chiêng đã được công nhận là di sản phi vật thể
của nhân loại.
2. Sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trong những năm qua về
kinh tế xã hội đã làm thay đổi bộ mặt thành thị và nông thôn, riêng địa


22

bàn Tây Nguyên có những bước phát triển nhanh chóng. Cùng với sự
tác động của nền kinh tế thị trường đến những biến động bất thường
của cư dân, tệ nạn phá rừng đã làm thay đổi đời sống xã hội. Môi
trường sống rừng núi cũng không còn nguyên vẹn như xưa, tập tục
canh tác "sa bari" - ăn rừng đã mất dần, bằng phương thức sản xuất
định canh và trồng cây công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến sinh
hoạt cộng đồng đặc biệt là lễ hội. Lễ hội truyền thống của người
M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông trong cuộc sống
đương đại có những thay đổi. Việc thay đổi lễ hội truyền thống đã làm

thay đổi những thành tố văn hóa vốn tồn tại, bồi đắp và giữ gìn qua
hàng ngàn đời; sự thay đổi đó đã kéo theo hàng loạt các nghi thức,
nghi lễ của một lễ hội truyền thống như: thời gian, không gian tổ chức
lễ hội, từ các nghi lễ, vật dâng cúng, các trò chơi dân gian.
3. Lễ hội truyền thống không phải là một hiện tượng văn hóa
nhất thành bất biến trong sinh hoạt cộng đồng. Trong dòng chảy
không ngừng của cuộc sống xã hội, những sinh hoạt văn hóa đều có
sự chọn lọc, đắp bồi và tiếp biến cho phù hợp với điều kiện thực tế
của xã hội và nhu cầu của con người. Lễ hội truyền thống M’Nông
Preh là hiện tượng văn hóa đang tồn tại khách quan và nằm trong mối
quan hệ tổng thể hữu cơ với các mặt kinh tế - xã hội và chịu sự tác
động nhất định khi xã hội đang vận động và phát triển. Trong bối
cảnh của xã hội đương đại đã thay đổi khá nhiều về môi trường sống
(rừng núi), canh tác nương rẫy (ăn rừng), phương tiện nghe nhìn, việc
ăn uống, đi lại và sinh hoạt của đời sống mới, trong đó có hoạt động
tôn giáo đã tác động mạnh mẽ đến cuộc sống và sinh hoạt cộng đồng,
đặc biệt là lễ hội.
4. Trên cơ sở nhận thức về sự phục hồi của lễ hội truyền thống
của người M’Nông Preh trong xã hội đương đại, trên một số phương
diện chủ yếu như sự thay đổi về cách thức tổ chức lễ hội, về thời gian
tổ chức, không gian sinh hoạt lễ hội, thay đổi trong các nghi lễ cũng


23

như trò chơi dân gian, những cấm kỵ trong lễ hội. Sự thay đổi của lễ
hội truyền thống trong một xã hội đương đại là điều không thể tránh
khỏi, nhưng phía sau nó là những hệ lụy có tác động tiêu cực đến việc
bảo tồn và phát huy các loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống, đặc
biệt là lễ hội của cộng đồng. Một loại hình văn hóa, sinh hoạt văn hóa

độc đáo đã bị thay đổi và lược bỏ phần nghi thức và các sinh hoạt văn
hóa truyền thống với tính chất hồn nhiên, vui tươi, đậm chất dân gian
của cư dân vùng sơn nguyên không còn nguyên mẫu.
5. Tuy được Đảng và nhà nước, các cấp chính quyền, ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch hỗ trợ giúp đỡ cộng đồng M’Nông Preh
phục dựng các lễ hội truyền thống trong suốt những năm qua, nhưng
so với thực tế cộng đồng vẫn chưa tái hiện được hết nội hàm, những
giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống, sự đa diện trong sinh hoạt
cộng đồng cùng với việc lưu giữ, trao truyền cho thế hệ con cháu mai
sau những giá trị nhân sinh, đạo đức, giá trị tâm linh, kỹ năng, kinh
nghiệm sống cho các thế hệ, cũng như bản lĩnh và những nét tinh hoa
nhất của nghệ thuật, văn hóa dân gian.
6. Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội đã trở
nên cấp thiết, nhất là việc xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại, những thay đổi của các thành tố văn hóa đứng trước nguy cơ mai
một và biến dạng. Do đó, để phục hồi lễ hội phải dựa vào kết quả
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện hơn để có những đánh giá
nghiên cứu sát thực, chính xác, đảm bảo cho việc định hướng, bảo tồn
và phát huy lễ hội truyền thống. Cần phân định rạch ròi giữa các yếu tố
văn hóa tích cực, các yếu tố tiêu cực, lạc hậu, không phù hợp với cuộc
sống hiện tại để tổ chức lễ hội một cách khoa học và diễn ra tốt đẹp.
7. Công tác bảo tồn văn hóa truyền thống, phát huy những giá trị
văn hóa tốt đẹp của cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa và giữ gìn làng
bon trên tinh thần cố kết, gắn bó, sẻ chia, đoàn kết và phát triển. Có
chính sách hỗ trợ hoạt động văn hóa truyền thống, trong đó có phục


×