Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TIỂU LUẬN lễ hội đền NGHÈ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.58 KB, 31 trang )

1

ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

TIỂU LUẬN
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA LỄ HỘI ĐỀN NGHÈ
VÀ NỮ TƯỚNG LÊ CHÂN

TÊN SINH VIÊN: NGUYỄN THỊ DIỆU ANH
LỚP: ĐHGDTH1.K17
NĂM: 2018


2

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................
3.Đối tượng nghiên cứu....................................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm chung ......................................................................
1.1.1.Khái niệm về văn hóa ............................................................................. ..
1.1.2.Khái niệm du lịch....................................................................................
1.2. Một số vấn đề về di tích lịch sử văn hoá ....................................................
1.2.1.Khái niệm di tích lịch sử văn hoá..............................................................
1.2.2. Khái niệm lễ hội................................................................................ ....



3

1.3.Khái quát về Nữ tướng Lê Chân- Nhân vật được tôn thờ của di tích và lễ
hội Đền
Nghè ......................................................................................................
1.3.1.Bối cảnh lịch sử................................................................................... .....
1.3.2.Thân thế và cuộc đời của Nữ tướng Lê Chân.................................. ....
1.3.3.Sự nghiệp của Nữ tướng Lê Chân...................................... ......
1.3.4.Tiểu kết .....................................................................................................
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐỀN NGHÈ
2.1.Các vấn đề liên quan đến lễ hội Đền Nghè và tượng đài nữ tướng Lê Chân
2.1.1. Các công trình tưởng niệm Nữ tướng Lê Chân ........................................
2.1.2. Giá trị của di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè ..........................................
2.1.3. Lễ hội Đền Nghè.......................................................................................
2.1.4.Tiểu kết ......................................................................................................
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC HIỆU QUẢ
DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐỀN NGHÈ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
3.1. Giải pháp khai thác, gìn giữ và bảo vệ di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè ..
3.1.1.Các giải pháp gìn giữ và bảo vệ di tích lịch sử văn hóa Đền Nghề. .........
3.1.2.Các giải pháp khai thác di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè .......................
3.3. Tiểu kết .....................................................................................................

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài



4

Những năm gần đây, nhận thức về vai trò của văn hóa và lễ hội văn hóa
ở nước ta được nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã khẳng định văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ
phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan
hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một động
lực thúc đẩy vừa là một mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của chúng
ta.Cũng vì thế, việc giữ gìn, phát huy và chấn hưng văn hóa dân tộc được đặt
ra một cách cấp bách, đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều giới.
Tại Hải Phòng, để ghi nhớ công đức của vị nữ tướng tài ba, người khai
hoang lập ấp, đặt nền móng cho TP Hải Phòng ngày nay, bà được nhân dân
Hải Phòng suy tôn là Thành hoàng làng, là Thánh mẫu, lập đình, đền, miếu
mạo... thờ phụng.
Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân đã trở thành một trong những lễ
hội tiêu biểu của TP Hải Phòng, thực sự đáp ứng được nhu cầu giao lưu, nhu
cầu tâm linh, đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo
những giá trị truyền thống của dân tộc. Trước hết là cho người dân quận Lê
Chân, sau đó là người dân TP Hải Phòng và đông đảo du khách gần xa khi về
dự hội.
Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử
cấp quốc gia và cấp kinh phí trùng tu với quy mô lớn. Năm 2013 là năm du
lịch quốc gia đồng bằng sông Hồng di tích lịch sử văn hóa và lễ hội đền Nghè
được đề cử là một trong những điểm đến tâm linh của du khách để quảng bá
hình ảnh của các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Hồng đặc biệt là
Hải Phòng – thành phố đăng cai.


5


Nhằm tri ân tiền nhân và phát huy tinh thần quật khởi của con cháu nữ
tướng Lê Chân, chính quyền, nhân dân và doanh nghiệp quận Lê Chân, Hải
Phòng quyết tâm xây dựng một nền kinh tế, chính trị, xã hội phát triển năng
động, làm lan tỏa tinh thần quyết chiến, quyết thắng trên mặt trận xây dựng,
phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
2.Mục đích nghiên cứu
- Tôn vinh truyền thống di tích lịch sử văn hóa, lễ hội Đền Nghè.
- Phân tích công tác tổ chức hoạt động lễ hội Đền Nghè để phát huy những thế
mạnh vốn có và khắc phục những hạn chế trong việc quản lý và tổ chức các
hoạt động du lịch lễ hội.
- Đề ra những biện pháp quảng bá du lịch và tôn vinh giá trị lễ hội Đền Nghè,
tưởng nhớ công ơn vị nữ tướng Lê Chân.
3.Đối tượng nghiên cứu
Di tích lịch sử văn hóa lễ hội Đền Nghè và nữ tướng Lê Chân.
4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu các giáo trình về chuyên ngành Quản lý văn hoá, tham khảo
những tài liệu như sách, báo, tạp chí.
- Phương pháp quan sát thực tế:
Đi tham quan khu di tích và trực tiếp tham gia tìm hiểu lễ hội, các hoạt
động tìm hiểu về lễ hội Đền Nghè.
-Phương pháp thống kê phân tích:
Tập hợp những hoạt động truyền thống diễn ra trong lễ hội để đưa ra
nhữngnhận định đánh giá chính xác về công tác quản lí.


6

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
Sơ lược về cuộc đời và nữ tướng Lê Chân
1.1.Một số khái niệm chung
1.1.1.Khái niệm văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình,
biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình,
biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại
hình hoạt động cơ bản là "sản xuất vật chất" và "sản xuất tinh thần". Do đó,
văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết
tinh trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý
luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh
thần của con người. Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần,
những tiêu chí, nguyên tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh
thần nói riêng, chi phối hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị
khoa học, nghệ thuật được con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của
mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và những phương thức thỏa
mãn nhu cầu đó.


7

Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những
năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó,
văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt

động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.
Tuy nhiên, với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con
người nên sự phát triển của văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế, chính trị của mỗi chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế
và chính trị ấy sẽ không thể hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Do đó,
văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Đây cũng là
quy luật của xã hội có giai cấp, vì rằng phương thức sản xuất tinh thần, văn
hóa không thể không phản ánh và không bị chi phối bởi phương thức sản xuất
vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác
nhau, đặc biệt là của giai cấp thống trị, là yếu tố quyết định hình thành các
nền văn hóa khác nhau.
Nói đến văn hóa là nói đến khía cạnh ý thức hệ của văn hóa, tính giai cấp
của văn hóa và trên cơ sở đó hiều rõ sự vận động của văn hóa trong xã hội có
giai cấp. Với cách tiếp cận như vậy, có thể quan niệm: nền văn hóa là biểu
hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát
triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ
của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ
thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa.
Mọi nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp
và gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền. Văn hóa luôn có tính kế thừa, sự
kế thừa trong văn hóa luôn mang tính giai cấp và được biểu hiện ở nền văn
hóa của mỗi thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh tế, chính trị của nó.


8

Một nền kinh tế lành mạnh được xây dựng trên những nguyên tắc công
bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là điều kiện để xây dựng một
nền văn hóa tinh thần lành mạnh, và nguợc lại, một nền kinh lế được xây
dựng trên cơ sở bất bình đẳng của chế độ tư hữu với sự phân hóa sâu sắc thì

sẽ không có được nền văn hóa lành mạnh.Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của
nền văn hóa, thì chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một
nền văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn hóa.Trong xã hội có giai cấp,
các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của nó trong lịch
sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của xã hội đó.
1.1.2.Khái niệm du lịch
Đứng trước thời cơ và thách thức đó, bên cạnh việc làm thế nào để phát
triển ngành du lịch trở thành kinh tế chủ đạo thì việc nghiên cứu thị trường,thị
hiếu khách du lịch cũng như tìm ra những yếu điểm của ngành để có hướng
khắc phục là điều vô cùng quan trọng. Hải Phòng là một thành phố biển với
tiềm năng phát triển du lịch lớn.Trong rất nhiều giải pháp để tăng lượng
khách, doanh thu ngành thì phát triển sản phẩm du lịch cũng là một trong
những giải pháp mang tính khả thi.
Ở nước Anh du lịch xuất phát từ tiếng “To Tour” có nghĩa là cuộc dạo
chơi. Trong tiếng Pháp xuất phát từ tiếng “Le Tour” cũng có nghĩa là cuộc dạo
chơi, cuộc dã ngoại. Theo nhà sử học Trần Quốc Vượng thì du lịch được hiểu
như sau: Du có nghĩa là đi chơi, Lịch có nghĩa là lịch lãm, từng trải, hiểu biết.
Như vậy du lịch được hiểu là đi chơi nhằm tăng thêm kiến thức.
Vậy, du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi ở thường xuyên của
mình nhằm thoả mãn các nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định. Du lịch có thể hiểu một cách tổng quát là tổng
hợp các quan hệ, hiện tượng và hoạt động kinh tế bắt nguồn từ cuộc hành


9

trình và lưu trú tạm thời của một du khách nhằm thoả mãn các nhu cầu khác
nhau với mục đích hoà bình hữu nghị.
1.2.Một số khái niệm về vấn đề di tích lịch sử văn hóa
1.2.1.Khái niệm di tích lịch sử văn hóa

Di tích lịch sử, văn hóa là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài
liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học nghệ thuật, giá trị văn hóa hoặc
có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa, xã hội.
Pháp luật quan niệm di tích lịch sử là những di tích có giá trị về mặt lịch sử,
văn hoá, khoa học, nghệ thuật và liên quan đến quá trình phát triển lịch sử.
Di tích lịch sử văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau đây:
-

Công trình xây dựng, địa điểm gắn vói sự kiện lịch sử tiêu biểu trong

quá trình dựng nước và giữ nước.
-

Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sư nghiệp cùa anh

hùng dân tộc, danh nhân của đất nước.
-

Cóng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của

các thời kỳ cách mạng, kháng chiến.
-

Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ.

-

Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có

giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.

át triển văn hoá, xã hội của đất nước.
1.2.2.Khái niệm lễ hội
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần
của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người
Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ
hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh
những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người


10

có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã
hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống
giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp;
những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu
người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp
con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện
tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc.

Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay
nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.Lễ
hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc
gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua
gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật
chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao
cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm
linh và các trò chơi đua tài, giải trí...
Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với

thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách
đến với ngày mai tươi sáng hơn.
1.3.1.Bối cảnh lịch sử
Năm Tân Sửu (năm 41 Sau CN), vua Hán Quang Vũ lại phong Mã Viện
làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm Phó tướng, Đoàn Chí làm Lâu
Thuyền tướng quân đem quân thủy bộ rầm rộ sang đánh Trưng Vương. Vua
Hán còn sai 18 các quận Trường Sa, Hợp Phố sắm sửa xe, thuyền, sửa chữa
cầu đường, khai thông khe nước, tích chứa lương ăn phục vụ cho đội quân của


11

Mã Viện. Quân đội của nhà Hán gồm 8.000 quân lấy từ các quận Trường Sa,
Quế Dương, Linh Lăng, 12.000 bquaan lấy ở bộ Giao Chỉ. Tổng cộng 2 vạn
người cùng 2000 thuyền xe. Đội quân này gồm toàn người Hoa Nam, lại dưới
sự chỉ huy của mã Viện, viên tướng giàu kinh nghiệm chiến trận chinh di.
Quân Mã Viện chia thành 2 đạo thủy – bộ, dự tính hội quân ở Hợp Phố
( Trung Quốc) để tiến đánh. Tuy nhiên, khi đến Hợp Phố thì Đoàn Chí chết vì
bệnh nên Mã Viện thống suất toàn quân tiến theo đường ven biển, ngược sông
Bạch Đằng tới sông Lục Đầu rồi vào đất Giao Chỉ thẳng tới Lãng Bạc.
Quân Hán tiến đến Long Biên, Tây Vu và Lãng Bạc ở phía đông Cổ Loa.
Hai Bà Trưng từ Mê Linh qua Cổ Loa xuống Lãng Bạc đón đánh quân Hán.
Tại đây, hai bên đã giao chiến dữ dội. Trận đầu, quân Hán không hợp thủy thổ
phương Nam, nhiều người bị chết, trong đó có Bình Lục hầu Hàn Vũ. Giao
chiến lâu ngày, quân Hai Bà Trưng vì thiếu trang bị và kinh nghiệm, không
địch nổi đạo quân thiện chiến của Mã Viện. Tháng 3 âm lịch ( khoảng tháng 4
năm 43, sau CN), quân Việt bại trận.
Sau trận Lãng Bạc, Trưng Vương phải thu quân về giữ Cổ Loa, một thời
gian lại lui về Mê Linh, sau đó chạy sang Cấm Khê. Tại Cấm Khê, quân của
Hai Bà tiếp tục chiến đấu nhưng bị đánh bại. Theo truyền thuyết dân gian, Hai

Bà chạy đến sông Hát thì cùng đường bèn nhảy xuống sông tuẫn tiết. Thời
điểm Hai Bà mất được Hán thư ghi tháng 4 âm lịch, tức là tháng 5 Dương lịch
( năm 43). Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, Hai Bà tự vẫn vào ngày 8
tháng 3, về sau nhân dân lấy ngày này làm Ngày hội Hát Môn.
Sau khi chủ tướng hy sinh, một bộ phận nghĩa quân do Nữ tướng Lê
Chân, Đô Dương lãnh đạo rút về phía Nam, lập phòng tuyến để chống giặc.
Mã Viện tiếp tục tấn công phá vỡ phòng tuyến, quân Trưng rút tiếp về quận


12

Cửu Chân. Quân Hán truy kích. Trận giao chiến ở huyện Cư Phong quân ta lại
thua, 19 nhiều quân tướng bị sát hại, bị bắt. Mã Viện bình định được Giao
Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
1.3.2. Thân thế và cuộc đời của Nữ tướng Lê Chân
Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, phụ nữ
Việt Nam luôn song hành cùng nam giới, làm nên những chiến công bất hủ.
Năm 40, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ, phụ nữ đóng vai trò then
chốt cả về chỉ huy và chiến đấu. Bà Lê Chân là vị nữ tướng xuất sắc, công
lao, chiến tích của bà lưu dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương.
Theo thần tích, truyền thuyết và các tư liệu khác về bà Lê Chân vào
những năm đầu công nguyên nước ta bị nhà Đông Hán (Trung Quốc) thống
trị. Ở làng An Biên (tên nôm làng Vẻn) huyện Đông Triều, xứ Đông (nay
thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) có ông Lê Đạo làm
nghề thầy thuốc, tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó. Vợ ông là Trần
Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi, ông bà tuổi đã cao mà chưa có
con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện rất linh ứng, ông bà tìm
đến cầu tự. Quả nhiên, bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh
Thìn bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê
Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng.

1.3.3.Sự nghiệp của Nữ tướng Lê Chân
Thái thú Tô Định, một kẻ tham tàn, bạo ngược "thấy tiền thì giương mắt
lên" đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về sắc đẹp của
nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Lê Chân dứt
khoát chối từ. Tức tối, Tô Định hãm hại cả bố, mẹ nàng. Căm giận quân cướp
nước, Lê Chân nung nấu căm thù, quyết trả thù nhà, nợ nước. Nàng tìm thày
học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chí hướng. Khi võ nghệ


13

đã tinh thông, nàng cùng bạn bè tâm phúc sang đất An Dương (Hải Phòng),
lúc ấy là một vùng đất bãi phù sa mới bồi. Nàng chiêu dân tứ xứ khai khẩn đất
hoang, lập nên xóm ấp, chiêu tập binh mã, sắm sanh vũ khí, tích trữ lương
thảo sẵn sàng khởi nghĩa.
Nghe tin ở xứ Đoài, Hai Bà Trưng cũng đang mưu nghiệp lớn, Lê Chân
chẳng ngại đường sá cách trở tìm đến đất Mê Linh. Bà Trưng Trắc phong Lê
Chân làm tướng được cùng bàn luận kế sách khởi nghĩa rồi phái nàng trở lại
quê nhà, chiêu tập thêm binh sĩ, chuẩn bị sẵn lương thảo, chờ thời cơ hành
động.
Tháng 3 năm Canh Tý Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ
thống trị Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân
khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung
Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) đã nhất tề nổi
dậy, hợp sức với đạo quân chủ lực của Hai Bà, tấn công địch ở khắp nơi. Đạo
quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thốc lên Luy Lâu (Thuận
Thành, Bắc Ninh) lỵ sở quận Giao Chỉ, nơi có bộ máy thống trị của bè lũ Tô
Định, phối hợp với quân của Hai Bà Trưng và các thủ lĩnh nghĩa quân khác,
giải phóng quận thành. Tô Định vội vã tháo chạy về đất Nam Hải (Trung
Quốc) xin quân cứu viện.

Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân đã chiếm
được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch
bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng
Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24
tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh
quyền coi giữ vùng hải tần (duyên hải Đông Bắc).
Nữ tướng Lê Chân đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước, mở
thêm trại, ấp lập ra trang An Biên (lấy tên quê gốc). Bà dùng nhân công khai


14

khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu
xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư đã đông đúc, kinh tế
phát triển, nhiều nhà dân giàu có. Bà Lê Chân thường xuyên cho luyện tập
trận thế, mở những lớp đấu vật, đài thi võ để nâng cao sức khỏe, khả năng chiến
đấu của binh sĩ, dân chúng.
Trong thời gian bà Trưng Trắc làm vua, nhà Đông Hán phải lo đối phó
với biến loạn lớn trong nước, nên không thể phát quân xâm lược nước Âu
Lạc. Song triều đình Hán đã sửa soạn kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4
năm Kiến Vũ thứ 18, vua Quang Vũ phong lão tướng 58 tuổi Mã Viện làm
Phục Ba Tướng quân thống suất quân sĩ sang xâm lược nước ta. Mã Viện xảo
quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng
quân sự Đông Hán huy động ở mấy quân phía Nam Trung Quốc binh lính
thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu nhiệt đới, gồm 2 vạn quân chủ lực,
2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn quân chèo thuyền, dân phu tải lương, phục
dịch.
Mã Viện chỉ huy cả hai đạo quân, chia hai đường thủy bộ, vừa dùng
thuyền vượt biển, vừa đi đường ven chân núi phát cây mở đường hơn nghìn
dặm; hai cánh quân thủy, bộ không cách xa nhau lắm để còn liên hệ phối hợp

với nhau. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy,
bộ Đông Hán tiến đến cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào
nội địa nước ta.
Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng quản
binh quyền Lê Chân chỉ huy đã ra quân kịp thời chặn đánh quyết liệt đoàn
thuyền binh đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của
Trưng Vương trên bộ nữ tướng Thánh Thiện đem quân lên đánh giặc ở biên
giới; nữ tướng Bát Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối
hợp với nữ tướng Lê Chân.


15

Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo quân, đa
số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật trên
sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn
sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, làm chúng tổn thất không ít. Song
do quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với địch, nên hai nữ tướng
phải lui quân.
Đội thuyền binh của Lê Chân nhỏ nhẹ, ngược sông Bạch Đằng tiến rất
nhanh, còn binh thuyền của Mã Viện to lớn, nặng nề nên đuổi theo rất chậm.
Chẳng mấy chốc quân ta đã bỏ xa quân địch. Theo đường sông Bạch Đằng Kinh Thầy - sông Đuống, thủy quân của Lê Chân tập kết về vùng hồ Tây,
Hoàng Mai bên bờ hữu sông Hồng. Trong thời gian ngắn trú quân ở đây, nữ
tướng Lê Chân gấp rút củng cố lực lượng, tuyển thêm binh sĩ, đóng thêm
thuyền chiến. Bà cho binh sĩ luyện tập võ nghệ, mở lò đấu vật. Mọi việc đã
xong, nữ tướng Lê Chân gấp rút hành quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh.
Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ động
tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm
lược đang đóng tại đây. Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong
do nữ tướng Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân

tướng địch đã có phần nao núng. Nhưng kẻ địch còn rất mạnh, quân đông,
thủy bộ phối hợp lại thạo đánh tập trung do tên lão tướng Mã Viện quỉ quyệt
chỉ huy, nên dần xoay chuyển tình thế. Quân Hai Bà Trưng trang bị thiếu,
kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, chưa quen đánh kiểu trận địa nên bị thiệt
hại nặng, Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và một số tướng lĩnh phải chuyển
sang hữu ngạn sông Hồng, rồi lùi về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) - thung lũng
suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm trở, ba
mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, tốt cho
việc phòng ngự.


16

Quân thù kéo tới vây hãm, mở nhiều đợt tấn công. Quân ta kháng cự
quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Mở đường máu Hai Bà Trưng và các nữ
tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo
hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy. Để bảo toàn khí
tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục
cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng. Đạo quân của Đô Dương,
nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân dãy núi đá vôi 99
ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm (gọi là
dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa).
Sông Đáy - chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, bắt nguồn ở xã Vân Nam (Phúc
Thọ, Hà Nội) chảy qua vùng đồng bằng vào đất Hà Nam thì gặp núi ở thôn
Vĩnh Sơn (xã Tân Sơn - Kim Bảng) ở cả hai bờ. Sông tiếp tục uốn khúc qua
hai xã Khả Phong, Thi Sơn với những khối núi, quả núi độc lập nằm bên hữu
ngạn, đến địa phận xã Liên Sơn, Thanh Sơn núi kết thành dải, trùng điệp, cây
mọc thành rừng. Từ địa phận thôn Đồng Sơn hiện nay (xã Liên Sơn) cũng bên
hữu ngạn sông Đáy, sông Ngân nhận nước sông mẹ, chảy ngoằn ngoèo ven
dãy núi qua các thôn Bút Sơn, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tân Lâm,

Nam Sơn (thị trấn Kiện Khê) rồi đổ nước vào sông Đáy ở địa phận thôn Đò
(xã Thanh Thủy) huyện Thanh Liêm.
Nữ tướng Lê Chân đã chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn để làm căn cứ
phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng Tía, lão
tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường
thượng đạo từ Ba Vì cũng qua đây. Căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình
cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông
Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể
giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung


17

lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ
Bắc xuống Nam. Các tên thung, núi đồi và ký ức dân gian, mặc dù đã trải qua
gần 2.000 năm vẫn giúp đời sau hình dung được những nét cơ bản về căn cứ
và những trận đánh cuối cùng của bà Lê Chân.
Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân
tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là
đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh (1). Tiếp xuống phía Nam, lần lượt
là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng
đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành
dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan
sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm
tập hợp kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội
Nhì nơi trú đóng của hai đội quân. Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách
không xa sông Ngân về phía Tây. Cách vị trí đền bà Lê Chân hiện nay khoảng
3 km là thung Trống, nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng
để đánh cầm canh và hiệu lệnh chiến đấu. Một số địa danh trong khu căn cứ
như đồi Dớn, non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục

mẫu cần xác minh thêm về ý nghĩa.
Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ thêm
binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo
quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người
họ Dương cho căn cứ Lạt Sơn).
Căn cứ còn chưa vững chắc, Mã Viện đã đưa quân đến vây hãm, mở
nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung
và trên sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên
cường. Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng Đô
Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Bà cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ để


18

mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một bộ phận quân sĩ ở lại
tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên,
thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng
diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi
Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự
vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, (núi này cách đền bà Lê Chân hiện nay
khoảng 3 km về phía Tây). Thời khắc ấy vào buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm
Quí Mão. Mấy tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ.
1.3.4.Tiểu kết
Bằng việc đưa ra những đánh giá, nhận định, khái niệm cơ bản về du lịch
văn hóa chúng ta hiểu được phần nào những nội dung cơ bản về du lịch và các
vấn đề có liên quan. Đây là cơ sở, nền tảng để phục vụ cho việc nghiên cứu
chuyên sâu về phát triển du lịch. Có thể nói Hải Phòng là một thành phố giàu
tài nguyên du lịch nhân văn để phục vụ cho việc phát triển du lịch, sau đây bài
khóa luận xin chọn một trong những tài nguyên nhân văn đó làm đề tài để
nghiên cứu. Đó là di tích và lễ hội đền Nghè, một trong những điểm đến hấp

dẫn của chương trình du lịch Hải Phòng. Không chỉ nghiên cứu về di tích và
lễ hội mà còn biết thêm về một thời kì lịch sử hào hùng gắn liền với tên tuổi
của nữ tướng Lê Chân.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐỀN NGHÈ
2.1.Các vấn đề liên quan đến lễ hội Đền Nghè và tượng đài nữ tướng Lê
Chân
2.1.1. Các công trình tưởng niệm Nữ tướng Lê Chân
Hiện nay, tại Hải Phòng còn lưu giữ được nhiều kiến trúc phụng thờ,
tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng Lê Chân. Có thể nói, đây chính là một
nguồn tài nguyên du lịch độc đáo, đầy tiềm năng, tuy nhiên trong những năm
qua việc khai thác những tài nguyên này phục vụ cho du lịch của thành phố


19

chưa thực sự hiệu quả, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Vì thế đề tài
được thực hiện nhằm cung cấp một hệ thống các công trình kiến trúc đó từ
lịch sử hình thành đến đặc trưng, giá trị, đồng thời trên cơ sở phân tích các
thực trạng, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác các công trình
đó trong du lịch.
Lịch sử hình thành, giá trị kiến trúc nghệ thuật của các công trình tưởng
niệm nữ tướng Lê Chân tại Hải Phòng như Đền Nghè, Đình An Biên, Đền Lê
Chân ở Núi Voi và Tượng đài nữ tướng. Thực trạng khai thác du lịch hiện nay
tại các công trình đó với các điểm tích cực như: Hiện nay các hầu hết các di
tích này đều đã được treo bảng giới thiệu về cuộc đời sự nghiệp Nữ tướng Lê
Chân hay giới thiệu về di tích. Các di tích trên đều nằm tại trung tâm thành
phố hoặc trên tuyến du khảo đồng quê nên giao thông tương đối thuận tiện vì
vậy đã được một số công ty du lịch đưa vào khai thác trong một số chương
trình du lịch.
Có thể nói Hải Phòng là vùng đất làm nên tên tuổi của nữ tướng Lê Chân.

Chính tại nơi đây Bà đã có công trong cuộc khởi nghĩa, là người đã khai
hoang lập ấp cho nhân dân. Cuộc đời của Bà phần lớn là ở vùng đất Hải
Phòng và khi Bà mất đi cũng chính tại nơi đây đã xây dựng lên những công
trình để thờ phụng Bà.


Đình An Biên – nơi thờ Thành hoàng Lê Thánh Công chúa

Từ khu vực trung tâm thành phố Hải Phòng đi theo đường Cầu Đất rồi rẽ
vào phố Hai Bà Trưng ( Cát Dài ) khoảng 200m là tới di tích đình An Biên,
nơi thờ nữ tướng Lê Chân. Đây là một ngôi đình có quy mô to lớn, tồn tại khá
nguyên vẹn giữa lòng thành phố đông đúc. Đình An Biên tọa lạc trên khuôn
viên hình chữ nhật rộng chừng 3000m2 .


20

Mặt bằng kiến trúc bố cục theo lối chữ Công (I) gồm 5 gian đại đình, 3
gian ống muống và 3 gian hậu cung. Tòa đại đình 5 gian, cột đình là những
thân gỗ lim đại thụ, đứng trên chân tảng là những phiến đá khối tạo dáng trên
tròn giật cấp, giữa hình lục lăng còn đáy là khối vuông dày. Hệ thống mái
đình được nâng đỡ bởi 6 bộ vì kèo, kiểu “chồng rường giá chiêng”.
Tòa ống muống là ngôi nhà nối giữa đại đình và hậu cung gồm 3 gian,
hệ thống mái được nâng đỡ bởi 4 vì kèo gỗ lim. Các vì có kết cấu kiểu “chồng
rường giá chiêng” và “ván mê”. Tòa ống muống chia đôi mảnh sân hẹp trước
hậu cung (đồng thời là phía sau đại đình) thành hai phần đều nhau. Phía ngoài
2 khoảng sân dựng nhà tả mạc và hữu mạc gọn gang tương tự nhau gồm 3
gian nho nhỏ. Hậu cung là một ngôi nhà 3 gian song song với đại đình, mặt
trước thông sang tòa ống muống bằng hệ thống cửa bức bàn, xung quanh xây
tường gạch kín.

Đặc biệt gian trung tâm đặt ban thờ Thành hoàng có kiến trúc kiểu lầu
điện, cao 3 tầng, 4 mái giống gác chuông, gác trống. Đình An biên là một
trong những công trình kiến trúc cổ nổi tiếng ở nội thành Hải Phòng. Các
thành phần kiến trúc trong đình từ câu đầu, xà nách, ván lá giong đến rường,
bẩy… đều được trang trí, chạm khắc mà bố cục ở bất kì vị trí nào đều tuân thủ
theo nguyên tắc đăng đối với kĩ thuật đạt trình độ điêu luyên, tinh xảo và
phong cách nghệ thuật tiêu biểu của nghệ thuật đình làng thời Nguyễn thế kỷ
XIX.


An Biên Đền

Đền nằm trong ngõ 2, đường Hồ Sen, một ngõ hẹp của phường Trại Cau,
quận Lê Chân, nội thành Hải Phòng, nhân dân quanh khu vực còn gọi là đình
Vẻn ngoài. Theo một cụ cao niên cư trú lâu đời ở khu phố cho biết: làng Vẻn
xưa (An Biên) rất rộng, sau tách thành 2 làng nhỏ. Dân làng mới tách (Vẻn


21

ngoài), lập 29 đền thờ nên cũng lấy tên là đền An Biên dể thờ Nữ tướng Lê
Chân. Trong đền còn lưu giữ một số di vật, cổ vật có niên đại thời Nguyễn.
Đền An Biên nhìn về hướng đông, có bố cục mặt bằng hình chữ Tam,
gồm 5 gian tiền tế, 3 gian trung cung, 3 gian hậu cung. Năm gian tiền tế được
nâng đỡ bởi 6 bộ vì kèo, gồm 24 cột gỗ lim, kết cấu vì nóc kiểu giá chiêng,
chồng rường; tòa trung cung được nâng đỡ bởi 2 bộ vì, kết cấu vì nóc kiểu giá
chiêng; tòa hậu cung gồm 4 bộ vì, 4 hàng chân cột, vì nóc kết cấu kiểu giá
chiêng, chồng rường. Trong tòa hậu cung thâm nghiêm còn lưu giữ được một
bức đại tự, một khám thờ và một đôi câu đối. Đại tự ghi: Đức đẳng càn khôn
(đức lớn sánh cùng trời đất). Khám thờ trang trí hình ảnh chim phượng. Trong

khám có ảnh khắc họa chân dung tượng Nữ tướng Lê Chân chụp lại theo thần
tượng Bà vào đầu thế kỉ XX. Hiện nay, đền An Biên nằm lọt giữa khu dân cư
đông đúc, ít người biết đến.
Tòa tiền tế nằm trong khuôn viên của bệnh viện Lê Chân, được sử dụng
làm kho chứa thuốc, mái bị hư hỏn, lợp lại bằng ngói phibrôximăng. Tòa
trung cung và hậu cung những năm qua đã được người dân tự phát tu sửa
manh mún, chắp vá nên đang trong tình trạng hư hỏng, xuống cấp.


Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tại núi Voi
Đền được đặt tại núi Voi, huyện An Lão, Hải Phòng. Núi Voi từ thời xa

xưa đã lưu giữ cả một kho tàng di sản văn hóa phong phú như đền Hang, đình
chùa Chi Lai, chùa Long Hoa, chùa Bụt Mọc… để thờ Phật và các nhân thần
nổi 30 tiếng như : Cao Sơn Đại vương, Thục Phán An Dương Vương hay Lê
Chân nữ tướng…
Trải qua thời gian khí hậu và những cuộc chiến thanh khốc liệt, nhiều di
tích bị xuống cấp hoặc hư hỏng chỉ đến những năm đổi mới gần đây, được sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự đóng góp sức người, sức của nhân dân,


22

nhiều công trình kiến trúc mới đươc phục dựng, tu bổ, tôn tạo phục vụ khách
tham quan du lịch như Bảo tàng núi Voi, đình chùa Chi Lai, chùa Long Hoa…
Đặc biệt mới đây khánh thành đền Nữ tướng Lê Chân- một công trình
văn hóa tâm linh đồ sộ mà sự xuất hiên góp phần điểm tô cho quần thể di tích
núi Voi thêm khang trang, ý nghĩa. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong
khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và
Thán Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một

khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2 .
Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm 5 gian
tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn
thẳng ra quốc lộ 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô. Mặt sau tựa váo vách núi tạ
thế vững bền… Với kiến trúc chủ yếu bằng gỗ lim, bố cục hài hòa giữa chiều
cao, mái ngói, đầu đao bên ngoài cùng với cách bài trí gọn gang của đồ thờ
nghi trượng bên trong tạo cho du khách cảm giác thoáng đãng, thư thái mà ấm
áp tôn nghiêm, lắng đọng cùng với sự trường tồn dài lâu của ngôi đền thờ vị
anh hùng dân tộc, Nữ tướng Lê Chân, người có công lập nên thành phố Hải
Phòng ngày nay. Tương truyền, núi Voi là khu vực hiểm trở, thuận lợi cho
việc dùng binh nên bà đã bí mật sử dụng nơi này chiêu mộ, tập hợp, huấn
luyện binh sĩ chờ ngày xuất trận. Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Mê
Linh, Lê Chân đã cùng nghĩa binh An Biên- núi Voi kịp thời hưởng ứng, lập
nhiều chiến công vang dội, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược nhà Đông Hán đến thắng lợi.


Tượng đài Nữ tướng Lê Chân
Tượng đài Nữ tướng Lê Chân tọa lạc ở trung tâm dải vườn hoa thành

phố Hải Phòng. Dải công viên trung tâm thành phố là địa điểm hấp dẫn. Từ
nơi đay có thể chiêm ngưỡng nét cổ kính của nhà hát thành phố, sự thanh lịch,
tươi trẻ của Quán Hoa, ngắm những đường vòng, uốn lượn của vòi phun nước


23

nghệ thuật, thả bộ cùng sư tĩnh lặng của hồ Tam Bạc. Trong dải công viên cây
xanh, tượng Nữ tướng Lê Chân có dáng đứng uy nghi, tay cầm đốc kiếm, áo
choàng tung bay. Thần thái tượng thể hiện sự mạnh mẽ của một tướng lĩnh

nhưng đầy nữ tính, biểu tượng cho vẻ đẹp và sự can trường của người phụ nữ
Việt Nam. Nữ tướng có khuôn mặt đôn hậu, trẻ trung, đứng nhìn ra biển Đông
như đang thị sát để chuẩn bị kế hoạch chống giặc, lập ấp.
Tượng Nữ tướng được đúc bằng đồng nguyên khối, chiều cao tổng thể
10,09m, nặng 19 tấn. Trong đó phần tượng Nữ tướng cao 7,49m, phần lông
chim hạc trên đầu cao 0,7m. Các họa tiết hoa văn đều được khai thác từ hoa
văn thời đại Hùng Vương với hình tượng sóng nước cuồn cuộn, lông chim
hạc trên đỉnh đầu…
Tượng Nữ tương Lê Chân là mẫu dự thi của 2 họa sĩ Nguyễn Phúc
Cường và Nguyễn Mạnh Cường, công ti đúc đồng Hải Phòng thi công. Hình
tượng Nữ tướng Lê Chân cưỡi thuyền thị sát cũng được khắc trên trống đồng
do Bảo tàng Hải Phòng và Hội Cổ vật đúc cung tiến vào đền Nghè nhân dịp kỉ
niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội ( năm 2010). Tượng đài là công trình
tưởng niệm ghi nhớ công lao của Nữ tướng Lê Chân đối với thành phố Hải
Phòng. Tượng được nhân dân thành phố Hải Phòng khánh thành vào tháng 1
năm 2001.
2.1.2. Giá trị của di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè
Đền Nghè thể hiện sự tín ngưỡng và sự biết ơn tiếp nối truyền thống
“uống nước nhớ nguồn" mà còn góp phần giới thiệu những giá trị di sản văn
hóa đặc sắc, quảng bá tiềm năng phát triển di tích Hải Phòng.
Các công trình nghệ thuật kiến trúc cổ và các bản sắc truyền thống được
bảo tồn và phát triển nan rộng trong đời sống cộng đồng.


24

Gợi nhớ lại truyền thống hào hùng, tri ân công đức anh hùng giải phóng
dân tộc Lê Chân cùng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và nhân dân thời xưa đã
có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Thể hiện niềm tự hào dân tộc với bề dày lịch sử, những nét văn hóa biểu

hiện ngay trên những hoa văn trên mái đình, đó là nét đẹp trong lịch sử trường
tồn cùng thời gian.
Góp phân tôn vinh, tuyên truyền sâu rộng giá trị di tích lịch sử và kiến
trúc, giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc cho các thế hệ hôm
nay.
Là tấm gương sáng minh chứng cho lịch sử dân tộc với nhân dân địa
phương, là vẻ đẹp để thế hệ trẻ ngày nay gìn giứ và loi theo.
2.1.3.Lễ hội Đền Nghè
Lễ hội đền Nghè có tên gọi là lễ Thánh đản tức là ngày Thánh được sinh
ra
Lễ hội diễn ra từ ngày mồng 7 đến ngày mồng 10 tháng 2 Âm lịch hàng
năm. Đây cũng là dịp để tưởng nhớ ngày sinh của Thánh Chân Công chúa
( ngày mồng 8 tháng 2 Âm lịch) Gắn liền với không gian lễ hội làng An Biên
là các di tích: Đình An Biên và đền Nghè. Đình là không gian chính diễn ra
hội làng, miếu là nơi thờ thánh và nơi xuất phát lễ rước anh linh thần về đình
bái tế an vị. Tuy đình là nơi diễn ra các hoạt động chủ yếu của lễ hội nhưng
thánh ngự tại đền Nghè vì vậy mà tại đền Nghè các nghi lễ được cử hành
trang nghiêm, kính cẩn.
Thông thường địa mở hội được tiến hành theo ba bước sau:


25



Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn
chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho
mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc,
mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ
hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ,

trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng



(mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần...
Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các

-

nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui.
Hội thi cắm tỉa hoa nghệ thuật, chương trình cờ người và các trò chơi
dân gian, đêm văn nghệ dân gian, chợ quê với các gian hàng chợ quê
gắn với các trò chơi dân gian được tổ chức tại khu vực Quảng trường

-

Tượng đài Nữ tướng Lê Chân.
Tại Đền Nghè và Đình An Biên tổ chức Lễ dâng hoa Thủy tiên, Tế nữ
quan, biểu diễn võ thuật dân tộc, Lễ Rước truyền thống gồm 02 đoàn
rước: (Đoàn 1) từ Đền Nghè đi theo lộ trình: đường Lê Chân Mê Linh
- Nguyễn Đức Cảnh - Quán Hoa - Quang Trung - Tượng đài Nữ tướng
Lê Chân, (Đoàn 2) từ Đình An Biên đi theo lộ trình: đường Hai Bà
Trưng - Cát Cụt - Nguyễn Đức Cảnh - Ngã tư Mê Linh - Tượng đài

-

Nữ tướng Lê Chân.
Tổ chức Hội thi thể dục dưỡng sinh và kéo co tại khu vực Quảng
trường Tượng đài Nữ tướng Lê Chân và các hoạt động như: Hội thơ,
Lễ tạ, chương trình văn nghệ diễn ra tại Đền nghè và Đình An Biên.

Những nghi lễ truyền thống, với sự tham gia của gần 1000 người, tạo

nên nét đẹp trong lễ hội văn hóa tâm linh của nhân dân thành phố như: Lễ
dâng lên Thánh chân công chúa Lê Chân 10 bình hoa thủy Tiên, hầu 3 giá
chầu văn. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một
lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra


×