Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích giá trị và hạn chế của các nhà triết học duy vật hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.65 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG
I.ĐẶT VẤN ĐỀ

3

II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

4

1.Gía trị triết học các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại

4

1.1.Gía trị về thế giới quan

4

1.2.Gía trị về nhận thức luận

11

1.3.Gía trị trong những quan niệm về con người-xã hội

13


2.Hạn chế của các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại

14

3.Tổng kết
III.KẾT THÚC VẤN ĐỀ

15
18


LỜI MỞ ĐẦU
Hy Lạp là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân
loại.Ở đó xuất hiện rất sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh
hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học sau
này.Thời kì nàynổi bật lên với tên tuổi của các nhà duy vật như
Đêmôcrit,Hêraclit,Arixtôt,Êpiquya…
Với đề tài ”Phân tích giá trị và hạn chế của các nhà triết học duy
vật Hy Lạp cổ đại” đã giúp em có thêm nhiều hiểu biết hơn về nền triết học
duy vật Hy Lạp phục vụ cho môn học của mình.Do thời gian và kiến thức
của em còn hạn chế nên mặc dù em dã rất cố gắng nhưng bài tiểu luận không
tránh khỏi những thiếu sót.Em rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo và
các bạn để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn
Em xin chân thành cảm ơn


I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Hy Lạp là quê hương thứ hai của nền triết học Phương Tây,được hình
thành trên cơ sở của nền kinh tế công thương nghiệp phát triển,xã hội chiếm
nô đạt tới mức cao và trên nền tảng của những thành tựu khoa học tự nhiên,ít

bị chi phối bởi tôn giáo.Ngay từ xa xưa ,người Hy Lạp đã sản sinh ra những
tư tưởng triết học với các hình thái,xu hướng khác nhau,phản ánh các những
quan điểm của các giai cấp với các khuynh hướng kinh tế và chính trị khác
nhau.Trong xã hội chiếm nô,Hy Lạp đồng thời cũng phản ánh cuộc xung đột
gay gắt,quyết liệt giữa các giai đoạn này
Trong điều kiện chiếm hữu nô lệ phát triển cao độ,ở người Hy Lạp đã
nảy sinh những tư tưởng triêt học dủ màu sắc,các hình thái,các xu
hướng.Đặc biệt,triết học của các nhà duy vật ra đời với những thành tựu rực
rỡ đã đem lại cho nhân loại các giá trị vô cùng to lớn về các quan diểm về
thế giới quan,nhận thức luận và cả về con người-xã hội với những ứng dụng
trong thực tiễn của nó.Những học thuyết đầu tiên của chủ nghĩa duy vật ra
đời cùng với sự xuất hiện của triết học với những tiến bộ của tri thức khoa
học trong các lĩnh vực thiên văn học,vật lý,toán học và các ngành khoa học
khác đã đem lại những tư duy lôgic cho con người trong đời sống hằng ngày.
Với những công lao đóng góp có giá trị vô cùng to lớn thì bên cạnh đó
nền triết hoc Hy Lạp cổ đại chủ yếu vẫn còn mang tính chất mộc mạc,thừa
nhận tính vật chất của thế giới,thừa nhận sự tồn tại của nó độc lập với ý thức
của con người,vẫn chưa phân biệt được rõ ràng giữa mặt tâm lý và vật lý cho
toàn bộ tự nhiên.Sự phát triển của các luận điểm duy vật và biện chứng còn
ảnh hưởng của hệ tư tưởng có tính chất thần thoại.
Bàn về ý nghĩa của nền triết hoc Hy Lạp cổ đại Ph.Ăngghen viết”…
Chúng ta luôn luôn phải quay trở về với những thành tựu trong triết học
cũng như trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé này(dân tộc Hy Lạp


thời cổ),một dân tộc mà tài năng và hoạt động có tính chất toàn diện của nó
đã dảm bảo cho nó có một địa vị mà không một dân tộc nào khác có tham
vọng đạt tới trong lịch sử tiến hóa của nhân loại”.Các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác-Lênin đã từng đặc biệt chú ý sự khác nhau cơ bản là cái gì?Đối với
người cổ Hy Lạp là do trực giác mà ý thức được,thì đối với chúng ta ngày

nay là do kết quả của những công trình nghiên cứu khoa học và thực nghiệm
nghiêm túc,và do đó mà nó xuất hiện dưới một hình thức chính xác hơn và
rõ ràng hơn nhiều.


II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Gía trị của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại.
1.1.Gía trị về thế giới quan
Trước hết chúng ta phải hiểu thế giới quan là như thế nào?Triết học
có vai trò như thế nào đối với thế giới quan?
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế
giới,về bản thân con người,về cuộc sống và vị trí của con người trong thế
giới đó.Triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình cũng cố và phát triển
thế giới quan của mỗi cá nhân,mỗi cộng đồng trong lịch sử.Thế giới quan
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người và xã hội loài
người.Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực
và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng
thành của mổi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.Sự hòa
nhập giũa tri thức và niềm tin tạo thành thế giới quan.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không dừng lại ở sự nhận xét muôn
hình muôn vẻ của thế giới,họ đã đi tìm cơ sở của nó với cách quy nó về một
nguyên nhân phổ biến,sâu sắc hơn về một nguyên thể đầu tiên.Các nhà triết
học duy vật thời kỳ này đã cố tình”xây dựng nên mặt lý luận về thế giới,thế
giới gồm có cái gì,và tác động như thế nào vào các khái niệm trong đời sống
và lao động hằng ngày”.Công lao của các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại là đã
xây dựng được giả thiết về cơ cấu nguyên tử của vật chất.Nét nổi bật của
triết học duy vật là các nhà triết học đều cho rằng thế giới là do vật chất tạo
thành,có vận động và có biến đổi,tuy rằng quan niệm vật chất tạo thành thế
giới của mỗi nhà triết học có khác nhau:
Theo Talet thì nước là bản chất của vạn vật,nước luôn thay đổi hình

thái và vì thế chính nước đã sản sinh ra các vật thể khác nhau.Talet đã mở ra
một thời đại tư duy mới ,sự tìm tòi cái mới của ông xoay quanh bản chất sự


vật.Mọi sự vật được làm bằng gì?hay loại”chất liệu”tạo nên sự vật là gì?
Điều mà Talet muốn đạt được khi nêu những câu hỏi này là tìm một cách
nào đó cắt nghĩa được sự kiện này rằng có nhiều loại sự vật như đát,mây và
đại dương,và một số những sự vật này thay đổi từ lúc này qua lúc khác để
trở thành một cái gì khác và chúng cũng giống nhau ở một số cách thức nào
đó.Đóng góp độc đáo của Talet cho tư duy chính là ông quan niệm rằng,mặc
dù có những sự khác biệt trong các sự vật khác nhau,nhưng vẫn có một sự
giống nhau cơ bản giữa tất cả các sự vật ấy,và cái nhiều nhưng tương quan
với nhau nhờ cái một.Ông giả thiết rằng có một yếu tố duy nhất nào đó
,một”chất liệu”nào đó chứa đựng nguyên lý hành động hay biến đổi của
chính nó và là nền tảng cho mọi thực tại vật lý.Arixtôt viết rằng Talet đã đạt
tới kết luận đó nhờ quan sát các sự kiện đơn sơ”có lẽ từ việc ông thấy rằng
mọi vật được nuôi từ chất ẩm,nhiệt phát sinh từ chất ẩm và được duy trì từ
chất ẩm…sự kiện hạt giống của mọi vật đều có bản chất ẩm,nước là nguồn
gốc của bản chất ẩm ướt của các sự vật”.Tính chính xác trong sự phân tích
của Talet về thành phần của sự vật không quan trọng bao nhiêu so với việc
ông nêu lên câu hỏi về bản tính của thế giới.Câu hỏi của ông đã đặt ra bối
cảnh cho một loại tìm tòi mới,một loại tìm tòi có thể được đem ra tranh luận
về giá trị của chính nó.Talet đã chuyển đổi cơ sở tư duy từ một nền móng
thần thoại sang một nền móng có tính chất tìm tòi,khoa học hơn.Hơn nữa,từ
điểm khởi hành sơ khai của ông những người khác sẽ nối tiếp ông với những
giải pháp khác,nhưng họ luôn luôn đặt vấn đề của ông trước mắt họ.
Anaximăng lại cho rằng nguồn gốc của vũ trụlà vô cực,vô cùng rối
renvà phức tạp,luôn chia thành những mặt đối lập nhau như khô và ướt,nóng
và lạnh,chính các mặt đối lập này lại kết hợp với nhau và tạo ra vạn vật.Ông
đồng ý với thầy của mình(Talet)rằng có một chất liệu nào đó là nền tảng cấu

tạo nên mọi vật.Nhưng khác với Talet,thực thể sơ đẳng mà từ đó mọi sự vật


đặc thù này phát sinh là một lĩnh vực vô định hay vô hạn.Các sự vật cụ thể
thì đặc thù,còn nguồn gốc của chúng thì vô định,các sự vật cụ thể thì hữu
hạn,còn chất liệu nguyên thủy thì vô biên,vô hạn.Không những Anaximăng
cống hiến một ý niệm mới về thực thể nguyên thủy của sự vật ông còn đẩy
xa công trình triết học bằng cách cố gắng tìm ra một giải thích nào đó cho ý
niệm mới của ông.Anaximăng đã tự đặt cho mình câu hỏi làm sao chất liệu
sơ đẳng hóa thành nhiều sự vật khác nhau mà chúng ta thấy trên thế giới.
Anaximen là nhà triết học thứ ba và cuối cùng của phái Milê,ông hài
lòng với khái niệm cái vô hạn là nguồn gốc của mọi vật.Ông cho rằng nguồn
gốc của vạn vật bắt đầu từ không khí,nhờ không khí và sự chuyển động của
nó,vạn vật trong vũ trụ được tạo ra và sau đó lạib quay về dạng không
khí.Anaximen xác định khí là thực thể sơ dẳng từ đó phát sinh mọi vật,ông
đã chạm tới được những khái niệm rất có giá trịvề sự”loãng khí”và”tụ
khí”như là những hình thái đặc thù của chuyển động dẫn tới sự thay đổi
trong không khí mà ta có thể thay đổi được.Anaximen đã có nhiều tiên đoán
khoa học,coi không khí là nguồn gốc và bản chất chung của tất thảy mọi
vật,vì thế người ta không thể sống nếu như không thở.Ông coi mưa đá là kêt
quả kết băng của các tia nước trên cao và khi băng đá bị không khí làm tan
ra thì tạo thành tuyết.Anaximen đã đề ra một ý niệm mới rất quan trọng,đó
là những khác biệt về”chất “được tạo thành do những khác biệt
về”lượng”.Sự giãn nở và co tụcủa khí diễn ra những thay đổi về lượng,và
những thay đổi này khi xảy ra trong một thực thể duy nhất,sẽ cắt nghĩa cho
sự phát sinh nhiều vật thể khác nhau.Ông cũng là người đưa ra giả thuyết
giải thích về các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực.
Anaximan là một nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại.Ông là người
đầu tiên đưa ra khái niệm về khởi nguồn hay sự hình thành vật thể trong vũ
trụ.Ông coi vật chất là vô tận,không có giới hạn,tạo ra sự đa dạng trong thế



giới.Ông cho rằng nguồn gốc và cơ sở của của mọi sự vât là apeirôn(là một
cái vô định hình,vô cùng tận,tồn tại vĩnh viễn,bất diệt)Theo ông,mọi sự vật
không chỉ có bản chất chung apeirôn,mà còn xuất hiệntừ nó.Tự bản thân
apeirôn sinh ra mọi cái đồng thời là cơ sở vận động của chúng.Toàn bộ vũ
trụ được cấu từ apeirôn tồn tại như một vòng tuần hoàn biến đổi không
ngừng.Ởhọc thuyết vũ trụ của ông thì trái đất nằm ở trung tâm vũ trụ,có hình
dang một hình trụ bẹt.Chung quanh trái đất có ba cái vòng tròn tự quat:vòng
mặt trời,vòng mặt trăng và vòng sao.
Anaxagô là người đã làm cho triết hoc có môt phát biểu quan trọng
khi đưa ra một giải thích mới về quá trình mà vật chất mang hình thức của
những sự vật cụ thể.Đóng góp quan trọng của ông là khái niệm về tinh thần
mà ông phân biệt với vật chất.Ông thấy thế giới và vật thể trong đó có một
cấu trúc trật tự và phức tạp,đòi hỏi một cái tồn tại có tri thức và năng lực làm
nguyên lý giải thích.
Ampêđôc cho rằng vạn vậtđược sinh ra không phải do đơn tố,mà do
cả bốn yếu tố vật chất cấu thành,đó là đất,nước,lửa và không khí.Ông đồng ý
cái hiện hữu là tự có và không thể hủy diệt,đơn giản là nó tồn tại,và ông nói
rằng”từ cái gì hoàn toàn không có thì không thể có ,cái gì trở nên hiện hữu
và hiện hữu mà hoàn toàn bị hũy diệt thì không thể hoàn thành được và
không thể hiểu được,vì nó sẽ luôn luôn tồn tại ở nơi đó,bất kể người ta đặt
nó ở đâu trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Anaxago là người làm cho triết học có một phát biểu quan trọng khi
đưa ra một giải thích mới về quá trình mà vật chất mang hình thức của
những sự vật cụ thể.Đóng góp quan trọng của ông là khái niệm về tinh thần
mà ông phân biệt với vật chất.Ông thấy thế giơi và mọi vật thể trong đó có
một cấu trúc trật tự và phức tạp,đòi hỏi một cái tồn tại có tri thức và năng lực
làm nguyên lý giải thích.Một nguyên lý lí trí như vậy được ông đưa ra khái



niệm tinh thần như là nguyên lý làm cho vật chất có một trật tự.Theo ông,
bản chất của thực tại có thể được hiểu cách tốt nhất bao gồm tinh thần và vật
chất.Anaxago đã phân biệt được tinh thần với vật chất bằng cách nói rằng
không giống với vật chất,tinh thần”không pha trộn với gì cả,mà đứng một
mình,tự mình”,nhưng ông không phân biệt hai thế giớ khác nhau,thế giới
tinh thần và thế giới vật chất,mà ông thấy hai thế giới này luôn luôn tương
quan và gắn bó với nhau.Những khái niệm này có giá trị và ảnh hưởng to lớn
trong triết hoc Hy Lạp sau này.Nhìn chung,thế giới quan cuả Anaxago là sự
phát triển đén đỉnh cao lập trường đa nguyên.
Hêraclit đã tiếp cận được với quan niệm duy vật,nhưng mang nặng
tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới,nhấn mạnh đến tính chất vận động của
vật chất thông qua sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập,mọi sự vật đều vận
động,mọi sự vật đều biến đổi.Ông quan niệm chính lửa là nguồn gốc sinh ra
tất thảy mọi vật.”Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như
trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”.Theo Hêraclit,chuẩn
mực của mọi sự vật,được hiểu không chỉ là từ ngữ,mà còn là quy luật khách
quan của vũ trụ,quy định trật tự và chuẩn mực của mọi cái.Dưới con mắt của
ông,mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi,vận động,phất triển
không ngừng.Chúng ta không thể quên luận điểm bất hủ của ông”chúng ta
không thể tắm hai lần trên một dòng sông”.Mọi cái chỉ xảy ra một lần,không
lặp lại mặc dù giữa các sự vật có thể có sự kế thừa nhất định.Vũ trụ là một
thể thống nhất,nhưng trong lòng nó luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh
giữa các sự vật ,lực lượng đối lập nhau.Nhờ có cuộc đấu tranh đó mà mới có
hiện tượng sự vật này chết đi có sự vật khác thay thế.Điều đó làm cho vũ trụ
thường xuyên phát triển và trẻ mãi không ngừng.Vì thế đấu tranh là vương
quốc của mọi cái, là quy luật phát triển của vũ trụ.Bản thân cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập luôn diễn ra sự hài hòa thống nhất.



Đêmôclit là người đã có phán đoán có giá trị về vận động:vận động
gắn liền với vật chấ và tồn tại vĩnh viễn.Ông là nhà duy vật vĩ đại nhất của
Hy Lạp cổ điển,là người đã từng có những cuộc tranh luận công khai,quyết
liệt với các nhà triết học duy tâm.Lênin coi Đêmôclit là người thể hiện rõ rệt
nhất chủ nghĩa duy vật trong thời kì cổ đại.Nổi bật triết học duy vật của
Đêmôclit là học thuyết về nguyên tử.Khái niệm nguyên tử được xây dựng
trên cơ sở các khái niệm”tồn tại”và”không tồn tại’.Trái với quan niệm của
nhà triết học duy tâm Platôn,”tồn tại”theo Đêmôclit là cái được xác dịnh,cái
đa dạng và cái có ngoại hình.Còn cái”không tồn tại”là cái không xác định
,cái vô hình,bất động,vô hạn.Nó không ảnh hưởng gì đến các vật thể nằm
trong nó,nhờ nó mà các vật thể có thể vận động được.Nguyên tử theo
Đêmôclit là hạt vật chất nhỏ nhất tới mức không thể phân chia thêm được
nữa,chúng tồn tại vĩnh viễn.Phỏng đoán có giá trị của Đêmôclit là ông cho
rằng vận động gắn liền với vật chất và tồn tại vĩnh viễn.Các sự vật là do các
nguyên tử liên kết lại với nhau tạo nên.Tính đa dạng của nguyên tử làm nên
tính đa dạng của thế giới các sự vật.Nguyên tử tự thân,không vận động
nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm cho vật thể và thế giới vận
động không ngừng.Trong quan điểm của Đêmôclit đã có mầm mống của cái
thuyết về chất có trước và chất có sau của sự vật.Nhiều nguyên tử kết hợp lại
với nhau thành vật thể,các phân rã thì vật thể bị tiêu diệt.Như vaayj,trực giac
Đêmôclit đã có một ảnh hưởng lâu dài và sâu đậm trong lịch sử.Lý thuyết
của ông về các vật thể chuyển động như một sự giải thích tự nhiên,đưa ra
một quan niệm mới về vật chất,phủ nhận tính chất không thể phá hủy của
các nguyên tử.
Như vậy,từ những quan niệm về thế giới của các nhà triết hoc duy vật
Hy Lạp cổ đại đã tạo nên cơ sở khoa hoc cho những ngiên cứu về thế giới và
vũ trụ của con người sau này.Trong khi triết học Phương Đông thời kì này


còn chịu ảnh hưởng nặng nề của thần linh,tôn giáo,triết học của các nhà duy

tâm như Pla tôn coi ý niệm là cái có trước,còn thế giới sự vật là cái có sau và
được sáng tạo bới ý niệm,thì các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có
sự tìm tòi mới về vận động của thế giới tự nhiên.Họ đã chỉ ra rằng trạng thái
của vật chất và các đặc tính của nó đều biến đổi nhưng bản thân nó thì không
sinh ra và cũng không chết đi mà tồn tại vĩnh viễn.Vật chất cũng không
thểđược sáng tạo ra và cũng không thể bị tiêu diệt,sự vận động của nó là quá
một trình tự nhiên,không phụ thuộc vào bất kì lực lượng siêu tự nhiên
nào.Học thuyết của các trường phái duy vật đàu tiên xem nước,không khí và
lửa như là vật chất mà trong khi vận động đã sản sinh ra tất cả mọi vật thể về
quá trình của thế giới.Học thuyết về sự chuyển hóa lẫn nhau của các vật thể
và quá trình ấy là những mầm mống của quan điểm duy vật biện chứng về
sự biến đổi của vật chất từ trạng thái này sang trạng thái khác.Trong thế kỉ
II.tr.CN,các nhà duy vật Anaxago va Ampêđôcơ đã phát triển hơn nữa các
quan niệm triết học và khoa học tự nhiên về vật chất,với cống hiến chuyển
từ quan niệm trực quan cảm tính về vật chất sang vấn đề cấu tạo của vật
chất.

1.2.Gía trị về nhận thức luận.
Các nhà triết học phái Milê và Hêraclit đã tự giải quyết vấn đề cơ bản
của nhận thức luận-vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức một cách duy
vật.Trường phái Milê trong trường phái duy vật ra đời sớm nhất trong triết
học Hy Lạp cổ đại(thế kỉ II.tr.CN),trường phái này đã đi tìm cơ sở ấy trong
các dữ kiện cho việc nghiên cứu hiện thực đem lại.Xuất phát từ trực quan
cảm tính họ đã lấy một hiện tượng nào đó của tự nhiên làm cơ sở và coi nó
vô cùng tận.


Anaximawng đã tự đặt ra cho mình câu hỏi làm sao chất liệu sơ đẳng
hóa thành nhiều sự vật khác nhau mà chúng ta thấy trên thế giới.Như vậy
ông đã có một bước tiến về nhận thức,theo nghĩa nó là một cố gắng xử lý

các sự kiện bằng cách đặt ra các giả thuyết thay vì cắt nghĩa những hiện
tượng tự nhiên bằng lối diễn tả thần thoại và không thể tranh luận.Hơn
nữa,điều mà ông muốn nói về nguồn gốc của sự vật cho thấy dáng dấp của
một sự suy tư mạnh bạo.
Ở các nhà triết học trường phái Milê chỉ chủ yếu bàn đén những vấn đề
bản thể luận,thì bên cạnh đó,Hêraclit còn phân tích nhiều vấn đề nhận thức
luận.Một mặt,ông đánh giá cao vai trò của các giác quan trong nhận thức các
sự vật đơn lẻ,mặt khác,cho rằng mục đích tối cao của chúng ta là nhận thức
lôgos,nhận thức sự thống nhất của vũ trụ và sự thông thái tối cao.Phần đông
mọi người sống theo những quan niệm riêng của mình.Hạnh phúc không
phải là sự hưởng lạc đơn thuần về thể xác mà là ở việc biết suy nghĩ,nói và
hành động tuân theo thế giới tự nhiênLênin đánh giá cao những quan niệm
đó của Hêraclit,cho rằng chúng đã thể hiện một trong những điểm cơ bản
của phép biện chứng.
Đối với Đêmôcrit,ông đã có những quan điểm tiến bộ hơn,ông đã phân
biệt sự khác nhau giữa con người và con vật là ở chỗ trong con người chúng
ta có nhiều nhiệt lượnghơn và các chất cấu thànhốn sạch sẽ hơn so với động
vật.Ông đã định nghĩa con người như một động vật nhưng về bản tính,có
khả năng học được bất kì cái gì,có chân tay,cảm giác và sự năng động trí tuệ
làm trợ giúp cho mọi cái.Ông đã chia nhận thức của con người thành hai
trình độ:nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý(đáng tin cậy)
Nhận thức luận của Arixtoot có vai trò quan trọng trong lịch sử triết
hoc Hy Lạp cổ đại.Lý luận nhận thức của ông được xây dựng môt phần trên
cơ sở phê phán học thuyết Platôn về “ý niệm”và “sự hồi tưởng”.Trong lý


luận nhận thức của mình,ông đã thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng
của nhận thức,là nguồn gốc kinh nghiệm và cảm giác.Arixtoot đã thừa nhận
tính khách quan của thế giới:nhờ cảm giác về đối tượng mà có tri thức
đúng,có kinh nghiệm và lý trí hiểu biết được về đối tượng.

Như vậy,các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có một trình độ
nhận thức cao hơn về thế giới,về con người,giúp cho con người có cách nhìn
nhận đúng dắn hơn.Những lý luận nhận thức này là nền tảng cho những
nghiên cứu khoa học của nhân loại,đi tới sự phát triển cao hơn,tiến bộ hơn
sau này.
1.3.Gía trị trong những quan niệm về con người và xã hội.
Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại đặc biệt là Đêmôclit và Arixtôt đã có
những tư tưởng,những quan niệm tiến bộ hơn về con người và xã hội.Các
ông đã cung cấp cơ sở cho ý niệm về chủ nghĩa thế giới đại đồng,theo đó
mọi con người đều là những công dân bình đẳng của thế giới này.
Đêmôcrit thoát khỏi quan điểm máy móc về vấn đề đạo đức học.Ông đã
khai triển một bộ quy tắc đạo đức rất caovời cho hành vi con người,đòi hỏi
sự điều độ trong mọi sự và việc vun trồng văn hóa như cách thức chắc chắn
nhất để đạt những mục tiêu đáng ao ước nhất của cuộc đời,đó là sự vui
tươi.Theo Đêmôcrit,phẩm chất con người không phải ở lời nói mà ở việc
làm.Con người cần hành động có đạo đức ,còn hạnh phúc của con người là ở
khả năng trí tuệ,khả năng tinh thần nói chung,đỉnh cao của hạnh phúc là trở
thành nhà thông thái,trở thành công dân thế giới.Trái với quan niệm của
Platôn về xã hội rằng ông ủng hộ việc xây dựng nhà nước của ý niệm,ra sức
bảo vệ lợi ích của tầng lớp chủ nô dân chủ,đấu tranh chống lại chủ nô quý
tộc.
Đối với Arixtôt thì vấn đề đạo đức học được ông xếp vào loại khoa học
quan trọng sau triết học.Trong đạo đức của ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề


phẩm hạnh.Theo ông phẩm hạnh là cái tốt đẹp nhất,là lợi ích tối cao mà mọi
công dân cần phải có.Phẩm hạnh của con người thể hiện ở quan niệm về
hạnh phúc,hạnh phúc phải gắn liền với hoạt động nhận thức,với ước vọng
làm điều thiện.
Vấn đề đạo đức được các nhà duy vật Hy Lạp lần đầu tiên đề cập đến

như là mối quan tâm hàng đầu của triết học,đã đạt tới một trong những bước
ngoặt quan trọng nhất.Lần đầu tiên con người được đề cập tới phẩm chất và
hạnh phúc của mình.
2.Hạn chế của các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại.
Nhìn chung do hạn chế của thời đại về trình độ phát triển kinh tế,khoa
học kĩ thuật,các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại chưa thể giải thích tự
nhiên một cách chích xác và không giải thích được mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội.Những tư tưởng triết học còn mang nặng tính thô sơ
máy móc,nhiều quan niệm duy vật nhưng sơ khai,tự phát.
Bên cạnh những quan niệm duy vật mang tính sơ khai,máy móc,thế
giới quan của Talet còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần
thoại và tôn giáo nguyên thủykhi ông cho rằng thế giới chúng ta đầy rẫy các
vị thần linh,không lý giải được hiện tượng từ tính của nam châm và hổ
phách,ông khẳng định chúng có linh hồn.Các vị thần linh trong ý tưởng của
ông,là những hoạt động trong thế giới làm cho mọi sự vật có thể vận động và
biến đổi được.
Cũng như Talet,Anaximan cũng chịu ảnh hưởng của thần thoại và tôn
giáo,khẳng định điểm tận cùng thế giới.Mọi sự vật theo ông đều sinh ra từ
apeirôn và có lỗi lầm với nhau,mọi cái cuối cùng đều trở thành apeirôn,ít
nhiều mang tính thần bí.
Ampeđôc,lại thần thánh hóa các khởi nguyên của thế giới và đi đến
nhân cách hóa mọi sự vật,tức là quy cho chúng những đặc tính mà trên thực


tế chỉ riêng con người mới có.Ông cho rằng mỗi khởi nguyên đều tồn tại độc
lập,bất biến,do đó mang tính thần thánh,chúng được coi như những vị thiên
thần,chẳng hạn lửa được coi là”thần Dớt chói lọi”,…
Đêmôcrit khi nói đến nguyên tử thì chưa đạt đến quan niệm khẳng định
khối lượng của nguyên tử,cho rằng nguyên tử không có trọng lượng.Ông
thừa nhận rằng trong con người có một phần bản chất thiên thần.Quan niệm

của ông về tư duy và ý thức còn ngây thơ,cảm tính.Đặc biệt coi chế độ nô lệ
là hợp lý và cũng cần sử dụng biện pháp có thể.
Tóm lại,tất cả những điều được thể hiện ở các tư tưỏng triết học Hy Lạp
cổ đại,đó là sự tự phát,hay chúng không được các nhà triết học ý thức được
một cách tự giác,còn mang những tính thô sơ,chất phác,mới chỉ chú ý đến
các hiện tượng bề ngoài mà không thể giải thích được một cách đầy đủ bản
chất bên trong của sinh vật cũng như mối liên hệ giữa các sinh vật và hiện
tượng.
3.Tổng kết
Trong điều kiện xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển cao độ,ở người Hy
Lạp đã nảy sinh những tư tưởng triết học đủ các màu sắc,các hình thái,các
xu hướng.Cuộc đấu tranh giữa quý tộc bình dân và nô lệ,cuộc xung đột giữa
tầng lớp qúy tộc công thương và lớp quý tộc ruộng đất trong nội bộ giai cấp
chủ nô đều được phản ánh một cách khá trung thực trong lĩnh vực triết
học.Vì thế,ngay từ đầu các tư tưởng triết học đã mang nặng tính giai cấp sâu
sắc.Dưới con mắt của các nhà triết hoc Hy Lạp cổ đại,triết học ra đời từ nhu
cầu hiểu biết của con người.Quan niệm này mặc dù thể hiện dưới hình thức
ngây thơ,phù hợp với nhận thức của con người thời cổ,nhưng nó đề cập tới
môt khía cạnh rất sâu sắc về cơ sở nhận thức luận của việc hình thành triết
học Hy Lạp cổ đại.Chính sự xuất hiện các tri thức sơ khai như việc phát
minh một năm có mười hai tháng,ba trăm sáu mươi lăm ngày của


Talet…,hình học của Ơclit…,đã tạo điều kiện lớn thúc đẩy sự hình thành
triết học.Những khám phá khoa học đầu tiên của các nhà triết học duy vật
Hy Lạp cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh
quan của các tôn giáo và thần thoại,đòi hỏi con người phải có cách lý giải
mới về thế giới xung quanh và cuộc sống của mình.
Trên thực tế,mặc dù triết học duy vật Hy Lạp ra đời trên nền tảng thần
thoại và tôn giáo nhưng thế giới quan lại hoàn toàn mới lạ dựa trên cơ sở trí

tuệ sâu sắc.Đã đem lại cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do
cuộc sống con người đặt ra,giúp họ có cách sống hợp lý trong xã hội.Triết
học Hy Lẩp đời với những đặc điểm:
Thứ nhất là thể hiện tính giai cấp sâu sắc,đã thể hiện nó là thế giới
quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội bấy giờ.Vì thế
dễ hiểu tại sao phần lớn các nhà triết học thời kì này đều coi nô lệ không
phải là con người mà chỉ là công cụ biết nói.
Thứ hai,triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó
về mọi lĩnh vực trong thế giới quan của con người.Ra đời trong điều kiện
còn quá ít và sơ khai nên trình độ phát triển tư tưởng văn hóa của nhân loại
thời kì này nói chung còn thấp.Triết học thời kì này đã đề cập tới những vấn
đề thế giới quan cơ bản của con người.Tuy nhiên do sự đối lập giữa lao động
trí óc với lao động chân tay quá lớn,nên nhìn chung các quan niệm triết học
còn mang nặng tính tự biện.
Đặc điểm thứ ba của triết học cổ Hy Lạp là coi trọng vấn đề con người,
nhìn chung họ đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo
hóa.”Con người là thước đo tất thảy mọi vật”(Pitago).Con người thời cổ đại
được nhìn nhân chủ yếu với tổ chức cá thể,giá trị con người chủ yếu chỉ
được bàn đến ở khía cạnh đạo đức,giao tiếp,nhận thức luận.


Thứ tư,triết học cổ Hy Lạp là tính biện chứng sơ khai của nó,nhìn
chung mang tính tự phát.

III.KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Nền triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã đạt những thành tựu rực rỡ về
mọi mặt và đã có những cống hiến lớn lao vào kho tàng văn học của loài
người.Hơn hai mươi năm thế kỉ đã qua,thời đại nô lệ Hy Lạp đã lùi xa trong
quá khứ của lịch sử loài người,nhưng cho đến ngày nay,triết học Hy Lạp cổ
đại không thể mất giá trị của nó.Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt nguồn

từ nền văn minh Hy Lạp và chúng ta đã không thể hiểu đầy đủ văn hóa Châu


Âu ngày nay nếu không đi ngược thời gian để tìm hiểu những thành tựu huy
hoàng của văn hóa Hy Lạp cổ đại,Ăngghen viết”chúng ta luôn luôn phải
quay về với những thành tựu trong triết học cũng như trong mọi lĩnh vực
khác của dân tộc nhỏ bé này,một dân tộc mà tài năng và hoạt động có tính
chất toàn diện của nó đã đảm bảo cho nó có một địa vị mà không có một dân
tộc nào khác có tham vọng đạt tới trong lịch sử tiến hóa của nhân loại”.
Điểm xuất phát cho sự phát triển triết học cổ đại là chủ nghĩa duy vật
triết học.Sự phát triển của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã trải qua một sự
tiến hóa phức tạp,đã phản ánh được những vấn đề thế giới,con người một
cách trung thực hơn achx hội mà các nhà triết học trước đây chưa làm
được.Chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại tuy mộc mạc chât phác nhưng những
giá trị của nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển triết học nói riêng và
khoa học nói chung.Triết học Hy Lạp là một hoạt động trí tuệ,nó không chỉ
là vấn đề thấy hay tin,mà còn là vấn đề suy nghĩ,và triết học còn có nghĩa là
suy nghĩ những vấn đề cơ bản theo một phong cách tìm tòi chân chính và tự
do.



×