Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Phân tích môi trường văn hóa ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh quốc tế của australia và new zealand

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.56 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI - DU LỊCH - MARKETING
BỘ MÔN QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
--------

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:

PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC
TẾ CỦA AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND

MỤC LỤC
Trang
LỜI
MỞ
ĐẦU
.............................................................................................................................................
3

CHƯƠNG
I:
ĐẤT
NƯỚC
AUSTRALIA
.............................................................................................................................................
4
I/

Tổng

quan



về

nước

Australia

4
1


Văn hóa Australia và New Zealand

II/

Văn

hóa

5
1/

Các

yếu

tố

văn


hóa

5
1.1
Ngôn
ngữ
.............................................................................................................................
5
1.2
Tôn
giáo
.............................................................................................................................
5
1.3
Giáo
dục
.............................................................................................................................
6
1.4
Gía
trị
thái
độ
của
người
Australia
.............................................................................................................................
6
1.5
thói

quen

cách

xử
của
người
Australia
.............................................................................................................................
8
1.6
Thẩm
mỹ
.............................................................................................................................
10
2/

Các

khía

cạnh

văn

hóa

12
CHƯƠNG


II:

ĐẤT

NƯỚC

NEW

ZEALAND

15
2
Page 2


Văn hóa Australia và New Zealand

I/

Tổng

quan

về

nước

New

Zealand


16
II/ Văn hóa......................................................................................................................
1/

Các

yếu

tố

văn

hóa

17
1.1Tôn
giáo
.............................................................................................................................
17
1.2
Giáo
dục
.............................................................................................................................
18
1.3
Các
giá
trị


thái
độ
.............................................................................................................................
20
1.4
Cách

xử
của
người
New
Zeand
.............................................................................................................................
21
1.5
Thẩm
mỹ
.............................................................................................................................
22
1.6
Thẩm
mỹ
.............................................................................................................................
28
2/

Các

khía


cạnh

văn

hóa

24

3
Page 3


Văn hóa Australia và New Zealand

CHƯƠNG III: SO SÁNH NỀN VĂN HÓA AUSTRALIA – NEW ZEALAND
34
I/

Một

số

yếu

tố

tương

đồng


về

văn

hóa

cạnh

văn

hóa

25
II/

Sự

giống

nhau

trong

khía

26
CHƯƠNG IV: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUỐC

TẾ


28
I/ Ảnh hưởng của văn hóa Australia đến hoạt động kinh doanh quốc tế
28
II/ Ảnh hưởng của văn hóa New Zealand đến hoạt động kinh doanh quốc tế
30

LỜI MỞ ĐẦU
Có một câu chuyện kể rằng, ngày xưa, khi nền văn minh phát triển và xã hội loài người biết đến việc trao
đổi hàng hóa giữa các vùng miền xa xôi thì vẫn còn những bộ lạc sống trong cảnh hoang sơ, nguyên thủy,
thậm chí họ không biết đến việc mặc quần áo. Có hai nhà buôn nọ muốn thiết lập trao đổi hàng hóa với bộ
lạc này, mỗi nhà buôn có cách hành xử khác nhau. Người thứ nhất thì cố gắng khai hóa cho bộ lạc, anh ta
thuyết phục họ mặc quần áo để họ giống với những người ở xã hội của anh ta và việc thương lượng kết
4
Page 4


Văn hóa Australia và New Zealand
thAustralia trong sự tức giận và khinh rẻ từ cả hai bên. Trong khi đó, người thứ hai lại xử sự theo cách
khác. Anh ta sẵn sàng cởi bỏ quần áo của mình để hòa đồng với những người trong bộ lạc, mặc cho sự
chê cười và chế giễu của nhà buôn thứ nhất. Anh ta cùng sinh hoạt và tìm hiểu về tập quán của con người
nơi đây. Hành động này khiến mọi người trong bộ lạc yêu mến và xem anh ta như một thành viên trong
cộng đồng của mình. Nhờ đó công việc làm ăn của anh với bộ lạc diễn ra tốt đẹp và ngày càng phát triển.
Như vậy, việc tìm hiểu về văn hóa của một quốc gia là một câu hỏi lớn, đòi hỏi các nhà đầu tư phải giải
đáp, là yếu tố rất quan trọng đối với các nhà kinh doanh khi đầu tư vào quốc gia đó. Nhà đầu tư cần hiểu
biết về các nét văn hóa riêng của từng nước để đưa ra các chiến lược và phương án kinh doanh phù hợp
với doanh nghiệp của mình. Do đó, bài tiểu luận “Phân tích môi trường văn hóa ảnh hưởng đến hoạt động
quan hệ kinh doanh quốc tế của Australia và New Zealand” sẽ giúp ta hiểu rõ hơn phần nào về hai nền
văn hóa lâu đời với những nét đặc trưng độc đáo, từ đó sẽ có được một số kinh nghiệm khi thực hiện đầu
tư vào các quốc gia này.

Nhóm tiểu luận xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn của Cô trong quá trình thực hiện bài
nghiên cứu này. Song, do kiến thức còn hạn chế, nên khó tránh khỏi những sai sót, nhóm mong nhận được
sự nhận xét và góp ý của Cô.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 2 năm 2012
Nhóm thực hiện

CHƯƠNG I: AUSTRALIA
I/ Tổng quan về Australia
Tên chính thức: Liên bang Australia.
Dân số: 21,714,000 người.
Diện tích:7,686,650 km2.
5
Page 5


Văn hóa Australia và New Zealand

Thủ đô: Canberra
Ngôn ngữ chủ yếu: tiếng Anh
Tiền tệ: Đô la Australia (AUD)
Australia, lục địa đảo rộng lớn nằm về phía đông nam châu Á, nổi tiếng với vẻ đẹp tự
nhiên của nó, đa văn hóa, và dân số đa dạng. Australia là lục địa nhỏ nhất thế giới nhưng
là nước lớn thứ sáu với diện tích rộng lớn 7.686.850 km2 nhưng dân số lại chỉ có
21,714,000 người. Người Australia có một nền văn hóa đa sắc tộc. Liên bang Australia
gồm 6 tiểu bang (New South Wales, Queensland, Nam Australia, Tasmania, Victoria, Tây
Australia) và 2 vùng lãnh thổ (Vùng thủ đô Australia, vùng phía bắc Territory).
Là một quốc gia tự cung tự cấp, tài nguyên thiên nhiên đã giúp nhanh chóng phát triển
nông nghiệp của quốc gia và sản xuất ngành công nghiệp. Trong những năm gần đây,
Australia đã gia tăng tập trung kinh tế và đã trở thành một trong những nền kinh tế thị

trường chi phối và tiên tiến nhất trên thế giới với nhu cầu ngày càng tăng từ của nó đối
tác thương mại. Chính vì vậy, việc quan hệ trong kinh doanh quốc tế có 1 vai trò rất lớn
trong việc thAustralia đẩy nền kinh tế của đất nước.
Australia là một xã hội dân chủ và ổn định, với một lực lượng lao động có tay nghề cao
và một nền kinh tế cạnh tranh và phát triển mạnh. Xã hội đa văn hóa của Australia bao
gồm người thổ dân, dân đảo Torres Strait và dân nhập cư đến từ hơn 200 quốc gia trên thế
giới. Australia là một trong những miền đất lâu đời nhất trên thế giới và đã có cư dân sinh
sống từ cách đây hơn 60.000 năm.
Australia là một vùng đất của phản ứng tổng hợp văn hóa và làm phong phú thêm cơ hội.
Để hoàn toàn hiểu được sự phức tạp của quốc gia này thì cần hiểu biết các khái niệm cơ
bản của nền văn hóa của nó.
II/ Văn hóa
6
Page 6


Văn hóa Australia và New Zealand
1. Các yếu tố văn hóa

1.1 Ngôn ngữ
Kể từ năm 1945, hơn 6 triệu người trên khắp thế giới đã đến Australia sinh sống. Ngày
nay, hơn 20% dân số Australia là những người sinh ở nước ngoài và hơn 40% là những
người có xuất xứ từ nhiều nền văn hóa pha trộn vào nhau. Nước Australia là một nước đa
sắc tộc. Đây được xem như quê hương của mọi dân tộc trên thế giới, với ít nhất 1/5 dân
số được sinh ra ở nước ngoài bao gồm cả châu Á lẫn châu Âu. Khoảng 40% dân số có cả
bố mẹ hoặc một trong hai người sinh ở nước ngoài và cứ 5 người dân thì có một người
nói ngôn ngữ riêng của mình ngoài tiếng Anh. Ở Australia, có khoảng 226 ngôn ngữ - sau
tiếng Anh thì phổ biến nhất là tiếng Ý, tiếng Hy Lạp, tiếng Hoa và tiếng Ả Rập. Với ngôn
ngữ tiếng Anh là chủ yếu phổ biến là một điều kiện chủ yếu trong việc kinh doanh với
các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, với sự đa dạng ngôn ngữ Australia có thể dễ dàng

giao dịch với các nước có chung ngôn ngữ để đầu tư và hoạt động thương mại.
1.2 Tôn giáo
Do dân cư của Australia chủ yếu từ các nước khác nhập cư nên tôn giáo của Australia
cũng khá đa dạng và phong phú. Trong tổng số hơn 21 triệu người thì giáo phái Anh
26,1%, Thiên chúa giáo 26%, Cơ đốc giáo 24,3%, phi Cơ đốc giáo 11%, tôn giáo khác
12,6%.
Tôn giáo cũng góp phần trong việc họach định các chiến lược của nước Australia.
Mặc dù có nhiều tôn giáo khác nhau ở Australia, nhưng quan hệ giữa các nhóm tôn giáo
thường rất ôn hòa và thậm chí đôi khi rất hài hòa.
1.3 Giáo dục
Australia có một hệ thống giáo dục rất phát triển với tỷ lệ đi học cao nhất trên thế giới.
Sinh viên quốc tế bị thu hút bởi chất lượng cao của nền giáo dục, cơ cấu bằng cấp quốc
gia, môi trường thân thiện và xã hội đa dạng.Hệ thống giáo dục của Australia nhắm đến
việc đào tạo ra những con người toàn diện về học vấn cũng như là những hoạt động xã
hội như tình nguyện, thể thao, nghệ thuật…Việc học tập ở mọi trình độ không chỉ được
7
Page 7


Văn hóa Australia và New Zealand

xem là quá trình mà một người cố ghi nhớ càng nhiều càng tốt các kiến thức có sẵn trong
sách cũng như trong đầu các nhà học giả. Học được xem là một nỗ lực khám phá, thử
nghiệm, phân tích và tổng hợp, là quá trình mà sinh viên cùng tham gia với các giảng
viên của họ. Hệ thống giáo dục của Australia mang lại nền giáo dục chính quy cho một
phần tương đối lớn trong dân số, nhưng chất lượng giáo dục chính quy lại không cao như
trong một hệ thống giáo dục có sự tuyển chọn kỹ càng hơn.
Trong các trường đại học luôn có những nơi dành riêng cho sinh viên cần yên tịnh để
học. Ai vô khu vực đó không được nói chuyện, dù nói thì thào. Trước mỗi chỗ ngồi, có
bảng ghi: “Quiet silenl area” (Khu vực im lặng và yên tĩnh). Ai cần nói chuyện hay làm

ồn, xin rời khỏi khu vực nầy.
1.4 Gía trị và thái độ của người Australia trong kinh doanh


Chủ nghĩa quân bình
- Australia có một nền văn hóa bình đẳng, nơi mà sự khác nhau về địa vị xã hội
không tạo ra sự khác biệt nào . Thường được gọi là “tall poppy syndrome” (hội
chứng thuốc phiện cao), điều này tạo ra một xã hội tránh sự khác biệt giữa các cá
nhân - trở thành "cây thuốc phiện cao" bằng cách nổi bật trong đám đông. Thay
vào đó, khiêm tốn, sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau được ưa thích. Chủ nghĩa
quân bình xâm nhập tất cả các các khía cạnh của cuộc sống tại Australia và đặc
biệt nổi bật trong lĩnh vực kinh doanh . Australia thường tránh thu hút sự chú ý
quá nhiều đến trình độ học tập của họ, thành tựu cá nhân hay sự thành công trong
kinh doanh, vì điều này có thể bị coi là kiêu ngạo. Ảnh hưởng của nó cũng có thể



được nhìn thấy trong cách tiếp cận đặc biệt kinh doanh người Australia.
Sự cởi mở: Một khía cạnh đánh giá cao của nền văn hóa Australia và đặc điểm nổi
tiếng của người dân là cách cởi mở và trực tiếp trong cuộc sống hàng ngày được
thực hiện. Nói chung, người Australia thường rất thắng thắn và đi thẳng vào vấn đề
trong giao tiếp của họ, thường bày tỏ những ý kiến mạnh mẽ và đối đầu. Australia là
một quốc gia coi trọng giá trị thực sự và tôn trọng những người bày tỏ quan điểm và
niềm tin của họ. Trong một bối cảnh kinh doanh, bạn sẽ thấy rằng bạn Australia
thường dễ tiếp thu những ý tưởng mới và khuyến khích thảo luận sôi nổi tranh luận.
8
Page 8


Văn hóa Australia và New Zealand


Cá nhân: Đặc trưng này rất dễ thấy trong hành vi của nhiều người Australia và trong



cách họ tương tác với các thành viên khác của xã hội. Ví dụ điển hình cho tính năng
này là tầm quan trọng của sự riêng tư cá nhân và sự phân biệt của công cộng và cuộc
sống riêng tư của cá nhân. Trong khi giao dịch với các đối tác Australia, bạn có thể
nhận thấy rằng họ nỗ lực phát triển mối quan hệ cá nhân nhưng đồng thời cũng rất
cẩn trọng trong một số vấn đề.
 Thực hành làm việc tại Australia
- Đúng giờ là một phần thiết yếu của hành nghề kinh doanh của Australia. Chậm trễ

có thể tạo ra ấn tượng rằng bạn là không đáng tin cậy và bất cẩn trong các giao
dịch kinh doanh của bạn. Tuy đi đúng giờ là thực sự cần thiết nhưng người
-

Australia cũng có thể bẻ cong các quy tắc này một chút.
Sẽ rất tốt nếu bạn lên lịch các cuộc hẹn kinh doanh trước khoảng một tháng. Nói
chung, các cuộc hẹn với giám đốc điều hành là tương đối dễ dàng và bạn sẽ tìm

-

thấy hầu hết trong số họ dễ tiếp cận và sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Giờ làm việc tại Úc có xu hướng là từ 9,00 giờ sáng đến 5,00 giờ chiều, từ thứ Hai
đến thứ Sáu. Bạn nên tránh có những chuyến đi kinh doanh vào nước này vào dịp
Giáng sinh và Phục sinh, vì đây là thời gian của năm khi hầu hết các doanh nhân
đang nghỉ.

 Cấu trúc công ty và hệ thống phân cấp trong các công ty Australia

- Các công ty ở Australia nói chung luôn tạo sự bình đẳng trong môi trường làm

việc hoặc chỉ một ít khác biệt khác biệt giữa những người có cấp bậc và địa vị
-

khác nhau.
Thẩm quyền ra quyết định là không phải lúc nào cũng ở trong tay cấp cao giám
đốc điều hành. Ở Australia, các nhân viên cấp thấp hơn thường có nhiều quyền và

có tiếng nói trong công ty
 Mối quan hệ làm việc tại Australia
- Australia có xu hướng để xưng tên của đối tác kinh doanh và tạo mối quan hệ
đồng nghiệp thân thiết nhanh chóng. Đây là một thể hiện của sự tôn trọng lẫn
nhau và bình đẳng.

9
Page 9


Văn hóa Australia và New Zealand
-

Ở Australia, bạn cần thiết lập các mối quan hệ cá nhân với những người bạn cùng
hoạt động kinh doanh. Để làm được điều đó bạn cần quen biết với những nhân vật
trung gian có quan hệ rộng sẽ giúp bạn tạo lập nhiều mối quan hệ khác.

1.5 Thói quen và cách cư xử của người Australia
Tiếp thu văn hóa Anh và Australia, họ có thái độ giao tiếp niềm nở, tình cảm, thân mật
nhưng không khách sáo. Họ thường bắt tay chặt và thích nói trực tiếp vào vấn đề, thẳng
thắn. Họ rất tôn trọng tình bạn bè, đồng nghiệp và cư xử một cách bình đẳng giữa người

với người. Họ rất chính xác về giờ giấc. Họ ưa thích các chủ đề về văn hóa, món ăn,
phong cảnh, thể thao. Chủ đề họ tránh là chính trị đảng phái, chiến tranh và các vấn đề cá
nhân.
Cũng giống như người dân của những nước khác, người Australia cũng bị chi phối
bởi những quy tắc không chính thức khi ở nơi công cộng. Những quy tắc đó là:
- Luôn đi bên trái: giao thông ngược hẳn với một số nước khác, có nghĩa là thay vì lái xe
ngồi bên trái thì ở Úc lại ngồi bên phải. Đường thuận chiều thay vì bên phải thì cũng ở
bên trái.
- Luôn xếp hàng và đợi đến lượt của mình. Mọi người xếp hàng khi họ chờ đợi đến lượt
cho điều gì đó (ví dụ như đón taxi, xe buýt, chờ đợi tại quầy bán vé hoặc quầy thu ngân).
Không bao giờ vượt những người khác hoặc "chen ngang" - điều này sẽ không được chấp
nhận. Đây là một ví dụ cho quan niệm bình đẳng trong xã hôị: đứng xếp hàng đợi đến
phiên mình trong ngân hàng ANZ (Australia New Zealand bank), ngân hàng Australia
châu và Tân Tây Lan, nếu trong năm phút mà chưa đến phiên mình, khi vào tới quầy chỉ
cần nói : "Tôi phải xếp hàng hơn năm phút mới tới phiên tôi". Nhân viên ngân hàng phải
cho khách hàng 5 Australia kim.
- Xưng hô với mọi người (người Australia thường có hai tên - tên và họ). Những
người ở tuổi của bạn hoặc trẻ hơn sẽ thường được gọi theo tên. Khi được giới
thiệu với người lớn tuổi hơn bạn, hãy gọi cho họ là Ông, Bà hoặc Cô sau đó là họ
của họ cho tới khi bạn biết rõ họ hoặc họ yêu cầu bạn gọi học bằng tên;
10
Page 10


Văn hóa Australia và New Zealand

- Lời chào: good morning, good afternoon, good day hoặc how do you do? là
những lời chào nghi thức. Những lời chào không nghi thức là hello hoặc hi;
- G’day: một kiểu chào không chính thức và truyền thống của Australia (dạng ngắn
gọn của từ ngữ "Good day");

- Nói excuse me, please và thank you: excuse me được sử dụng phổ biến nhất khi
nói với ai đó không có dự định là bạn trò chuyện với họ hoặc khi tham gia vào một
cuộc đàm thoại đang diễn ra. Nói please khi yêu cầu điều gì đó và thank you khi
nhận được bất cứ thứ gì.
- Giao tiếp Australia bằng ánh mắt: cho dù địa vị xã hội hay tuổi tác của bạn ra sao
thì người Australia cũng thích giao tiếp Australia bằng ánh mắt trực tiếp với những
người trò chuyện với họ.
- Không gian cá nhân: người Australia thích duy trì một khoảng không gian cá nhân
phù hợp giữa họ và người khác. Đứng gần một người khác dưới một mét một cách
có thể khiến họ cảm thấy không thoải mái.
- Trang phục : người Australia có xu hướng ăn mặc khá thoải mái. Nếu cần phải ăn
mặc trang trọng hơn, bạn thường sẽ được người khác nói cho biết.
- Đúng giờ: đến muộn sẽ không được chấp nhận. Nếu bạn không thể tới một cuộc
hẹn hoặc lời mời; hoặc sắp bị muộn, hãy gọi điện thoại để giải thích trước khi sự
việc xảy ra.
- Hút thuốc : hút thuốc bị nghiêm cấm trong các tòa nhà của chính phủ và trên
phương tiện giao thông công cộng bao gồm cả các chuyến bay nội địa và quốc tế.
Việc hút thuốc hiện nay bị cấm ở hầu hết các nhà hàng và các địa điểm có đăng ký.
Khách hàng phải đi ra ngoài đường nếu họ muốn hút thuốc. Nếu bạn đang tới thăm

11
Page 11


Văn hóa Australia và New Zealand

một ngôi nhà của một người bạn hoặc một thành viên gia đình, hãy xin phép để
được hút thuốc.
- Khạc nhổ: khạc nhổ ở nơi công cộng là hành vi không chấp nhận được và có thể
gây khó chịu cho người khác.

- Xả rác: nước Australia là một đất nước rất có ý thức về môi trường và xả rác là
hành vi không chấp nhận được. Nếu xả rác, bạn cũng có thể bị phạt.
- Tập quán trên bàn ăn: Bạn có thể ăn bằng tay ở những bữa ăn không trang trọng
ví dụ như một cuộc dã ngoại, tiệc nướng thịt ngoài trời hoặc khi ăn đồ ăn sẵn mua
ngoài. Bạn phải sử dụng dao dĩa cho những bữa ăn tại nhà hàng. Nếu bạn không
biết sử dụng vật dụng nào cho mục đích gì, trước tiên hãy hỏi hoặc theo dõi và làm
theo những người khác.
1.6 Thẩm mỹ
-Hội họa: Nghệ thuật thị giác của Úc ra đời từ rất sớm, khởi nguồn từ các bức họa
vẽ trong hang động và trên vỏ cây của thổ dân. Âm nhạc, nhảy múa và nghệ thuật
của người dân bản điạ có tác động tới nghệ thuật thị giác đương đại của Úc. Từ khi
người châu Âu tới đây định cư, chủ đề chính trong hội họa Úc là phong cảnh thiên
nhiên, có thể thấy trong các tác phẩm của Albert Namatjra, Arthur Streeton. Hội
họa Úc cũng chịu ảnh hưởng bởi hội họa hiện đại của Mỹ và Châu Âu bao gồm họa
sĩ trường phái lập thể Grace Crowley, trường phái siêu thực James Gleeson, trường
phái ấn tượng trừu tượng Brett Whiteley và trường phái pop art Martin Sharp.
Nhưng từ những năm đầu thế kỷ 20, phong cảnh nước Úc vẫn là nguồn cảm hứng
chính cho các nghệ sĩ, có thể thấy điều này qua các tác phẩm có tiếng vang bởi
nhiều họa sĩ như Sidney Nolan, Grace Cossington Smith, Fred Williams, Sidney
Long và Clifton Pugh.

12
Page 12


Văn hóa Australia và New Zealand

-Âm nhạc: Australia rất phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách, phản ánh
ngữ điệu của ngôn ngữ, giai điệu của bài hát, âm thanh trong môi trường và các
khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Âm nhạc bản địa của Úc có âm thanh và nhịp

điệu độc đáo, ngoài ra ảnh hưởng từ dân di cư cũng đã góp phần đáng kể việc định
nghĩa và sự phát triển của âm nhạc Australia đặc biệt là xu hướng âm nhạc hiện đại
của Anh, Mỹ. Nhiều nhạc sĩ, ca sĩ sáng tác và biểu diễn người Australia với nhiều
thể loại, phong cách đã được sự công nhận quốc tế. Nổi tiếng nhất là các ca sĩ opera
Dame Nellie Melba; nhạc đồng quê Slim Dusty và Keith Urban; các ban nhạc pop
và rock The Seekers, Yothu Yindi, INXS; các nhà soạn nhạc Percy Grainger và
Peter Sculthorpe.
Kiến trúc: Ở Australia lướt qua mỗi vùng miền của các tiểu bang điều có những
kiểu nhà na ná giống nhau (vì họ xây theo quy chuẩn), có những cửa hiệu tương tự
nhau, có một trục đường chính với quán xá vây quanh các khu thị tứ (vì quy hoạch
chung), còn lại chỉ cỏ cây, trang trại, cừu bò lững thững. tuy nhiên nhắc đến kiến
trúc Australia chúng ta không thể không nhắc tới Cụm nhà hát con sò- Sydney
Opera House. Công trình này được xây đã gây ra nhiều tranh cãi và kéo dài hàng
chục năm (1957-1973) qua bao nhiêu nhiệm kỳ bầu cử tiểu bang, vượt qua hàng
loạt những vấn đề về vốn, khó khăn trong kỹ thuật xây dựng... Cầu cảng Sydney
cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong tổng thể quy hoạch chung của cụm
công trình ngay ở Circular Quay. Được khánh thành vào tháng 3 năm 1932 sau hơn
6 năm xây dựng, công trình được xem là biểu tượng của Australia và được xếp
hạng là cây cầu kết cấu sắt lớn nhất thế giới

13
Page 13


Văn hóa Australia và New Zealand

Văn học: Australia cũng lấy nhiều cảm hứng từ phong cảnh thiên nhiên. Các tác
phẩm nổi tiếng của nhưng nhà văn nổi tiếng đều khắc họa thành công bức tranh về
thiên nhiên hoang dã nước Australia. Đồng thời những nét đặc sắc của nước
Australia trong thời thuộc địa, vốn được phản ảnh trong nền văn học thuở ban đầu

cũng rất quen thuộc với độc giả ngày nay. Các tác phẩm này nhấn mạnh đến tình
bằng hữu, chủ nghĩa quân bình và phi độc tài nên rất được độc giả Australia yêu
thích. Australia cũng có nhiều nhà văn nổi tiếng thế giới như Patrick White – nhà
văn đã đạt giải Nobel Văn học, ngoài ra Colleen McCullough, David Williamson và
David Malouf là ba nhà văn tên tuổi khác trong nền văn học Úc.
2/ Các khía cạnh văn hóa
 Sự cách biệt quyền lực:
Sự cách biệt quyền lực là tầng nấc quyền lực được chấp nhận giữa cấp trên và cấp
dưới trong tổ chức. Trong những nền văn hóa có sự cách biệt quyền lực cao nhà quản trị
có những quyết định độc tài và gia trưởng và thuộc cấp phải tuân thủ quyền lực vô điều
kiện. thường những quốc gia này có có kiểu kiểm soát chặt chẽ và thiếu bình đẳng trong
công việc. Cơ cấu tổ chức theo hương cao ( nhọn) và người quản trị chỉ làm việc trực tiếp
với một vài thuộc cấp. Ở những nước có khoảng cách quyền lực từ trung bình đến thấp
ngườii ta coi trọng giá trị độc lập, nhà quản trị hỏi ý kiến các thuộc cấp trước khi quyết
định và có sự bình đẳng hơn trong công việc. Cơ cấu tổ chức theo hướng phẳng và nhà
quản trị trực tiếp giám sát nhiều thuộc cấp hơn.
14
Page 14


Văn hóa Australia và New Zealand

Chỉ số khoảng cách quyền lực ở Australia là 36 so với mức trung bình của thế giới
là 55 , điều đó chứng tỏ khoảng cách quyền lực ở Australia thấp. Trong xã hội Australia,
mọi cấp bậc đều vì mục tiêu chung của tổ chức, cấp trên luôn lắng nghe và phụ thuộc
nhiều vào chuyên môn của cấp dưới . Cả cấp trên và cấp dưới thường xuyên trao đổi
thông tin và lấy ý kiến của nhau. Trong các buổi thảo luận này họ đều nói chuyện thoải
mái, thẳng thắn và sôi nổi. Điều này làm tăng cường sự tương tác, hợp tác giữa các cá
nhân mà không bị cản trở bởi cấp độ quyền hành và góp phần tạo nên một môi trường
văn hóa bền vững.

 Chủ nghĩa cá nhân: Một công trình nghiên cứu lớn của Australia do Trường
Đại học Northwestern tiến hành tại 29 nước thuộc Nam Australia, Đông Âu, Tây Âu,
Nam Á, Đông Á, Nam Phi, Tây Phi, thì Australia là một trong 3 nước sùng bái chủ nghĩa
cá nhân nhất trên thế giới. Trong chủ nghĩa cá nhân chúng ta xem xét mức độ mà các
thành viên trong xã hội phụ thuộc lẫn nhau.Mọi người sẽ tự khẳng định hình ảnh đại diện
là “tôi” hay “chúng ta”. Trong xã hội tập thể những thành viên thuộc 'nhóm' chăm sóc lẫn
nhau và thể hiện lòng trung thành của mình với cộng đồng.
Australia, đạt số điểm 90 trong không gian này, chứng tỏ Australia là một nền văn
hóa cá nhân cao. Điều này cũng có nghĩa là một xã hội rời rạc, các cá nhân chỉ quan tâm
chăm sóc bản thân và gia đình của chính mình. Ngay từ nhỏ các cá nhân đã được đào
luyện suy nghĩ về mình như các cá nhân riêng lẻ tự chịu trách nhiệm về hoàn cảnh của họ
trong cuộc sống và chính bản thân họ. Sự đảm bảo tự do cá nhân và tài chính cá nhân
được xem là giá trị cao và con người được khuyến khích ra những quyết định cá nhân mà
không tin vào sự ủng hộ tập thể. Trong lĩnh vực kinh doanh, nhân viên phải tự thân và
chủ động sáng tạo trong mọi việc . Ngoài ra, khi tuyển dụng và khi quyết định thăng tiến
đều phải dựa trên thành tích hoặc bằng chứng về những gì người đó đã làm hoặc có thể
làm.

15
Page 15


Văn hóa Australia và New Zealand

 Lẩn tránh rủi ro: Là khả năng con người cảm thấy sợ hãi bởi những tình huống
rủi ro và cố gắng tạo ra những cơ sở và niềm tin nhằm tối thiểu hóa hoặc lẩn tránh những
điều không chắc chắn. Nó thể hiện cách mà xã hội đối phó với thực tế rằng không thể nào
biết trước được tương lai sẽ như thế nào: rằng có nên cố gắng kiểm soát tương lai có thể
được hay là cứ trông đợi vào tương lai. Những nước có hướng lẩn tránh rủi ro thường
khuôn mẫu hóa những hành động trong tổ chức và phụ thuộc nhiều vào những qui đinh,

luật lệ để đảm bảo rằng con người biết rõ họ phải làm gì. Những người này thường bị lo
lắng và căng thẳng, họ rất chú trọng đến sự an toàn và những quyết định thường là kết
quả của nhiều sự đồng ý. Những xã hội ít quan tâm đến quan tâm đến việc lẩn tránh rủi ro
thường ít ràng buộc nững hoạt động và khuyến khích người quản trị đối mặt với rủi ro.
Những nười này ít bị căng thẳng và chấp những những bất đồng. quyết định của họ chủ
yếu dựa vào khả năng phán đoán và sự sáng tạo trong công việc.
Australia có điểm số 51 trên không gian này và là một nền văn hóa khá thực dụng
trong điều khoản tránh sự không chắc chắn. Điều này có nghĩa là cả chuyên gia và người
có kiến thức tổng quát đều quan trọng. Họ tập trung đi theo kế hoạch đã định nhưng họ
vẫn có thể thay đổi và ứng biến trong thời gian ngắn . Người Australia không biểu lộ
nhiều bức xúc, họ khá thoải mái và không muốn chống đối để nhận lấy sự rủi ro. Do đó,
họ hoan nghênh những ý tưởng mới, sản phẩm sáng tạo và sẵn sàng để thử một cái gì đó
mới hoặc khác nhau, cho dù nó liên quan đến công nghệ, tập quán kinh doanh, hoặc các
thực phẩm .
 Sự cứng rắn: Theo nghiên cứu của Hofstede, chỉ số sự cứng rắn của Australia
là khoảng 61 so với mức trung bình của thế giới là 50, điều đó chứng tỏ sự cứng rắn ở
Australia là cao. Chỉ số này nói lên sự đánh giá cao của tầm quan trọng của thu nhập, sự
thừa nhận, sự thăng tiến và thử thách. Sự thành đạt được được xác định bằng của cải và
sự nhận biết . người dân có xu hướng ủng hộ nhũng công ty có quy mô lớn và sự phát
triển kinh tế được xem là rất quan trọng. Mọi hoạt động ở trường học, công sở hay trong
thể thao đều được đánh giá dựa trên niềm tin rằng mọi ngượi cần phải cố gắng hết mức
16
Page 16


Văn hóa Australia và New Zealand

có thể bởi người thắng cuộc là “người đạt được tất cả”. Người Australia tự hào về những
thành công và thành tựu của họ trong cuộc sống, và nó cung cấp một cơ sở cho quyết
định tuyển dụng và thăng tiến tại nơi làm việc. Xung đột cá nhân được giải quyết cho

mục tiêu cuối cùng là giành chiến thắng.

CHƯƠNG II: NEW ZEALAND

I.







Tổng quan về New Zealand

Diện tích: 271.000 km2
Dân số: 4,291,900 người (2008)
Ngôn ngữ: Tiếng Anh và tiếng Maori
Thủ đô: Wellington
Đơn vị tiền tệ: Đồng dollar New Zealand (NZD)

Vị trí địa lý: Nằm ở Tây Nam Thái Bình Dương gồm hai đảo lớn (Đảo Bắc và Đảo
Nam) và rất nhiều các hòn đảo nhỏ.
Tên nguyên thủy mà người phương Tây gọi New Zealand là Staten Landt, vốn
được nhà thám hiểm Hà Lan Abel Tasman đặt cho

17
Page 17


Văn hóa Australia và New Zealand


Cái tên New Zealand bắt nguồn từ những người làm bản đồ Hà Lan, họ gọi là New
Zealand là Nova Zeelandia, theo tên tỉnh Zeeland của Hà Lan. Không ai biết đích thực ai
là người đặt ra cái tên này, nhưng nó xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1645 và có lẽ do nhà
họa đồ Johan Blaeu chọn. Nhà thám hiểm Anh quốc James Cook sau đó đã dùng tên
tương đương tiếng Anh và địa danh "New Zealand" ra đời. Về mặt địa lý và lịch sử, New
Zealand không có liên hệ gì với đảo Zealand của Đan Mạch.
Mặc dù các đảo Bắc và Nam vốn đã được đặt tên từ nhiều năm nay, nhưng Ủy ban
Địa lý New Zealand đã tuyên bố vào năm 2009 rằng họ chưa có cái tên chính thức nào
cho những hòn đảo này. Ủy ban dự định đặt tên các hòn đảo chính thức cùng với các tên
theo tiếng Māori thay thế. Một số bản đồ ban đầu đề cập đến Đảo Nam với cái tên Đảo
Trung. Mặc dù vài cái tên Māori vẫn đang được sử dụng, Cố vấn Ngôn ngữ Maori Erima
Henare xem Te Ika-a-Māui và Te Wai Pounamu là hai cái tên có nhiều khả năng được
chọn.
Cho đến nay thời điểm người Māori đặt chân đến New Zealand vẫn chưa được xác
định. Trước khi người châu Âu có mặt thì thổ dân Māori gọi đảo Bắc là "Te Ika a Māui"
(con cá của Māui) và gọi đảo Nam là Te Wai Pounamu (nguồn nước của Pounamu) hay
Te Waka o Aoraki (canoe của Aoraki). Cho đến đầu thế kỷ 20, Đảo Bắc vẫn còn được gọi
là Aotearoa (dịch nghĩa là "miền đất của mây trắng dài");trong ngôn ngữ Māori hiện đại.
Địa danh này được dùng để chỉ cả quốc gia New Zealand. Aotearoa vẫn còn được dùng
phổ biến trong tiếng Anh New Zealand với cùng một nghĩa như "New Zealand", và từ
này được dùng riêng hoặc cũng có thể được dùng trong cách viết trang trọng đi đôi với từ
tiếng Anh để tỏ ý tôn trọng văn hóa thổ dân.
II. Văn hóa

18
Page 18


Văn hóa Australia và New Zealand


Người New Zealand nổi tiếng với sự nồng nhiệt và lòng hiếu
khách. Họ rất tự nhiên, cởi mở và hiếu khách. Là một quốc
gia đa văn hóa và theo chế độ dân chủ nghị viện.

Nền văn hóa chủ yếu bắt nguồn từ Châu Âu với sự hấp thụ các yếu tố văn hóa, lịch
sử phong phú từ dân tộc Maori và từ các quốc đảo Thái Bình Dương và hiện tại là cộng
đồng dân nhập cư đa văn hóa đang ngày càng tăng.

Các yếu tố văn hóa
Ngôn ngữ: Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh và tiếng Maori
Người Maori là những người bản xứ của New Zealand.Họ là những người
Polynesia và chiếm khoảng 8% dân số cả nước.Maoritanga là ngôn ngữ của họ, có liên
quan với tiếng Tahiti và tiếng Hawaii.Người ta cho rằng người Maori nhập cư đến đây từ
Polynesia bằng xuồng vào khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 13.
Ngày nay dân số của người Maori đã gia tăng lên 250.000 người và dân tộc này có
mặt trên khắp các miền của New Zealand, nhưng phần lớn tập trung ở Đảo Bắc, nơi khí
hậu ấm áp hơn.
Các doanh nghiệp được chấp nhận ngôn ngữ là tiếng Anh. Rất ít công ty sẽ sử
dụng một ngôn ngữ khác, trừ khi nó được đặc biệt cần thiết cho một cuộc họp hoặc sự
kiện khác.
1.1.
Tôn giáo:
- Luật lệ của New Zealand cho phép tự do tôn giáo, và chính phủ đã tôn trọng những

luật lệ này. Mối quan hệ thân thiện giữa các tôn giáo trong xã hội đã góp phần
thêm vào quyền tự do tôn giáo ở đây.

19
Page 19



Văn hóa Australia và New Zealand

Với dân số khoảng 3,9 triệu người, tôn giáo chính của New Zealand là Cơ đốc
giáo. Theo thống kê năm 2001, khoảng 55% dân số ở đây theo Cơ đốc giáo. Ba giáo phái
chính của Cơ đốc giáo là giáo phái Anh, giáo phái Scotland và Hội Giám lý đã bị giảm số
giáo dân trong vòng từ 1996 đến 2001. Trong khi đó giáo dân của giáo phái Thiên chúa
giáo La mã lại gia tăng.Giáo phái Anh có tỉ lệ giáo dân cao nhất trong Cơ đốc giáo, chiếm
15% dân số New Zealand. Những nhà thờ Cơ đốc giáo của người Maori đã gia tăng đáng
kể trong khoảng thời gian này. Những người theo phái chính thống, sau khi gia tăng 55%
trong khoảng từ 1991 đến 1996, đã giảm đi 19% trong khoảng từ 1996 đến 2001, chỉ còn
dưới 1% dân số.Những nhóm tôn giáo ngoài Cơ đốc giáo cũng gia tăng. Những người
theo đạo Lão gia tăng 97%, đạo Hồi tăng 73%, đạo Hindu tăng 53%, và đạo Phật tăng
47%. Số giáo dân của đạo Hindu hiện nay chiếm khoảng 1% dân số, đạo Phật cũng vậy
Số người không theo một tôn giáo nào chiếm tỉ lệ khoảng 27% của dân số New Zealand.
Chính sách của chính phủ nhìn chung là đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tuy nhiên
một số doanh nghiệp sẽ bị phạt nếu như họ hoạt động vào những ngày lễ chính thức như
ngày Giáng sinh, ngày Thứ Sáu tuần thánh hay ngày Phục sinh. Các cộng đồng phi Cơ
đốc giáo, tuy nhỏ nhưng ngày càng gia tăng, đã kêu gọi chính phủ xem xét đến sự đa
dạng của các tôn giáo ở đây.Để đáp ứng, chính phủ đã gỡ bỏ một số điều cưỡng ép đối
với các hoạt động mậu dịch liên quan đến niềm tin Cơ đốc giáo. Năm 2001 chính phủ đã
ra những điều luật mới cho phép một số loại hình kinh doanh vẫn mở cửa vào ngày Thứ
Sáu tuần thánh và ngày Phục sinh. Tuy nhiên nhiều loại hình kinh doanh khác vẫn bị phạt
nếu như hoạt động vào những ngày lễ Cơ đốc giáo này. Thực tế, chưa có sự phản ánh nào
về việc cầm tù hay giam giữ liên quan đến những vấn đề tôn giáo.
1.2.

Giáo dục:


20
Page 20


Văn hóa Australia và New Zealand

Hệ thống giáo dục:
Chương trình tiểu học và trung học:
Trẻ em từ 5 tuổi đến 16 tuổi phải tham gia chương trình giáo dục bắt buộc và không phải
đóng học phí từ bậc tiểu học đến trung học. Năm học thường bắt đầu vào khoảng cuối
tháng 01 đến giữa tháng 12 và được chia thành 4 học kì.
Bậc tiểu học bắt đầu từ lớp 1 và tiếp tục đến lớp 8.
Bậc trung học bao gồm lớp 9 đến lớp 13 (dành cho học sinh ở độ tuổi 13
đến 17). Hệ thống các trường trung học ở New Zealand có hơn 420 trường.
Các loại trường trung học tại New Zealand
1. Trường Trung học tại New Zealand hầu hết là trường công được chính phủ
tài trợ.
2. Trường tư.
3. Trường hợp nhất (Thường ban đầu các trường này là trường tư sau đó
chuyển thành trường công)
Các môn học và tiêu chuẩn giáo dục giống nhau ở trường công lập và trường tư, cả hai hệ
trường này đều chuẩn bị cho học sinh đạt bằng cấp và chứng chỉ quốc gia có đồng giá trị.
 Văn bằng quốc gia – Chứng chỉ hoàn thành chương trình quốc gia
Đối với học sinh trung học, Cơ quan Quản lý Bằng cấp New Zealand (NZQA) quản lý
các chương trình Quốc gia dành cho các lớp từ 11 – 13. Với mục đích giúp học sinh trung
học dễ dàng chuyển tiếp vào Đại học, Chứng chỉ hoàn thành học tập Quốc gia (NCEA)
bao gồm các bằng cấp (Cấp 1 – 3) cho 3 lớp cuối cùng của Trung học. Kết quả đánh giá
dựa vào kết quả trong thời gian học tập kết hợp với kỳ thi cuối năm và được áp dụng
hàng năm.


21
Page 21


Văn hóa Australia và New Zealand

Chương trình Đại học:
Niên học tại các trường Đại học kéo dài từ cuối tháng Hai
đến tháng Mười Một với các kỳ nghỉ giữa hai học kỳ.
Một số trường hoạt động theo hệ thống học kỳ với hai lần
nhập học trong một năm cho một số chương trình học.

Trường Đại học quốc gia
New Zealand có 8 trường đại học quốc gia cung cấp các khóa học lấy bằng Đại học với
các môn học đa dạng thuộc nhiều ngành khác nhau như Thương mại, Khoa học, Nghệ
thuật, Y khoa, Công nghệ, Luật, Máy tính, Nông nghiệp, Công nghệ và Môi trường...
Cao đẳng và Viện Công nghệ
Gồm 21 viện đào tạo tại New Zealand nằm tại các thành phố và thị trấn trên cả nước.Các
trường đều cung cấp các chương trình đào tạo với sự đa dạng về chuyên môn và ngành
nghề từ các khóa sơ cấp cho đến chương trình Cử nhân Đại học.
Chương trình Dự bị Đại học
Tại một số trường trong số 8 trường Đại học tại New Zealand đều có chương trình Dự bị
giúp học sinh quốc tế chuẩn bị vào Đại học. Các chương trình học này kéo dài từ 28 tuần
đến một năm.Các môn học bao gồm Anh văn, Toán và một số các môn học chính khác.
Đại học Sư phạm
Dành cho các sinh viên quan tâm đến ngành giảng dạy, chuyên ngành đào tạo được cung
cấp tại các trường Đại học Sư phạm với các môn học về giáo dục mẫu giáo, giáo dục tiểu
học, và giáo dục trung học. Một số môn học phụ của Đại học được đưa vào như là một
phần của chương trình học.Tất cả các trường này cũng cung cấp các khóa đặc biệt dành
cho giáo viên đã qua đào tạo.

Các trường Đại học tư
Có một số trường Đại hoc tư cung cấp các chương trình đào tạo về các ngành học thuật
và học nghề, thường mỗi trường chỉ chuyên về một ngành nào đó. Chẳng hạn như một
trường có thể tập trung đào tạo chuyên ngành khách sạn, nhà hàng, hay chỉ chuyên về các
khóa học về kinh doanh. Các yêu cầu về nhập học và thời gian học rất đa dạng ở các
trường này.










1.3.

-

Các giá trị và thái độ

Trung thực là chính sách tốt nhất ở đây và không được quảng cáo thổi phồng sản phẩm
22
Page 22


Văn hóa Australia và New Zealand

hoặc dịch vụ và không được khoe khoang.


Nếu bạn đưa ra một lý do khiến đồng nghiệp không tin tưởng bạn khi bạn đang
làm việc tại New Zealand sau đó bạn sẽ rất khó để xây dựng lại lòng tin đó. Nếu bạn
được yêu cầu để cung cấp cho một bài thuyết trình, làm nổi bật nó với rất nhiều ngôn ngữ
hoa mỹ thì sẽ không được tán thành.
Không biết mặc cả: Cộng đồng doanh nghiệp New Zealand không biết mặc cả, do
đó, không nên bắt đầu với một mức giá cao mong đợi được trả giá xuống. Bạn nên bắt
đầu với một con số thực tế đúng với giá trị hoặc đơn giản là họ sẽ đi nơi khác.
Phong tục kinh doanh tại : New Zealand là một quốc gia bình thường, con người
thân thiện và cởi mở trân trọng tình bạn lâu dài.
Tên và chức danh : người New Zealand không thích giả vờ. Mặc dù bạn nên gọi
cho ai đó bằng họ của người đó khi bạn lần đầu tiên gặp họ, điều này sẽ không kéo dài
lâu.

1.4.
-

Cách cư xử của người New Zealand
Không sử dụng dấu hiệu "V cho chiến thắng" trong khi ở đất nước này
Không cho phép giọng nói của bạn quá lớn nên duy trì ở mức bình thường.
Khi bạn đang gặp một ai đó, nói: "bạn nên làm thế nào?" Một lời chào thoải mái

hơn, chẳng hạn như "Hello", được dành riêng cho các cuộc họp sau khi bạn đã có cơ hội
để biết tất cả mọi người.
Địa chỉ người sử dụng / danh hiệu của mình, hoặc ông, bà, cô cộng với tên đầy đủ.

23
Page 23



Văn hóa Australia và New Zealand

Chính trị, thể thao và thời tiết là chủ đề đàm thoại tốt, và có thể được tranh luận
sôi nổi. Để là một chuyện có ở hiện tại và thông tin về các chủ đề quan trọng. Đặc biệt
New Zealand là một "trung tâm" của khu vực.

-

Ăn uống và Giải trí : Ăn trưa có thể trao đổi kinh doanh, nhưng trong các quán
rượu và bữa ăn tối là quan trọng mà có thể diễn ra các sự kiện xã hội.

-

Đến đúng giờ
Cái bắt tay
• Khi gặp một ai đó ở một công ty thì bắt tay với giao tiếp bằng mắt là một
cách thức giao tiếp tốt. Giao tiếp bằng mắt tốt có nghĩa là nhìn vào mắt
người khác khi bắt tay, không nhìn xuống bàn tay của bạn. Các giao tiếp
bằng mắt được duy trì trong quá trình bắt tay. Bạn không được nhìn chằm
chằm vào người khác, nhưng thật sự thể hiện sự quan tâm trong ánh nhìn.
• Đàn ông thường mở rộng bàn tay của mình chờ đợi 1 người phụ nữ để được
bắt tay. Phụ nữ không bắt tay người phụ nữ khác. Trong 1 công ty khi bắt
tay với nhau thì ánh mắt phải nhìn thẳng. Cái bắt tay thường chắc và nhanh.

Quà tặng : Việc mang đến một chai rượu vang Úc, một hộp sô-cô-la, hoặc một số
mục nhỏ khác để đến dự buổi tối trong nhà người khác là chuyện bình thường ở
New Zealand
- Những điều cấm kỵ trong xã hội : sự ra lệnh, chỉ thị với một người đàn ông khác là
một điều cấm kỵ đối với nam giới tại New Zealand
- Trang phục :

• Trang phục kinh doanh điển hình thường tương tự như doanh nghiệp Mỹ đó
là không nhất thiết có sự riêng biệt.
• Đàn ông nên mặc bộ quần áo màu tối hơn với cà vạt màu tối. Để duy trì hình
thức, họ thường mặc áo sơ mi trắng.
• Phụ nữ nên mặc những trang phục như váy và áo với một chiếc áo
khoác. Quần áo nên kết hợp phong cách cổ điển và màu sắc (hải quân và
màu xám).
• Ô dù và áo mưa là cần thiết nhất của ở New Zealand vì khí hậu ôn đới và
lượng mưa tương đối lớn.
1.5.
Thẩm mỹ:
-

1.6.1. hội họa :
Nghệ thuật vẽ chân dung đã hưng thịnh vào đầu thế kỷ 20, bao gồm cả chân dung người
24
Page 24


Văn hóa Australia và New Zealand

trong khung cảnh ngoài trời hay nội thất. Chân dung nhiều người Maori đã được vẽ trong
thời kỳ này, nổi bật nhất là các tranh của Charles F Goldie. Hội họa trong nửa đầu thế kỷ
20 đã thay đổi từ những hình ảnh sung túc của đất nước sang những thể hiện dai dẳng về
sự khó khăn ở cả phong cách hiện thực lẫn phong cách biếu tượng. Những họa sĩ vẽ về
chiến tranh có G.E.Butler và N.Welch trong Thế chiến thứ I, và Alan Barns-Graham,
Russell Clark và Peter McIntyre trong Thế chiến thứ II.
Trong nửa sau của thế kỷ 20, nghệ thuật đã chuyển hướng từ chủ nghĩa lập thể sang nghệ
thuật trừu tượng và nghệ thuật truyền thông đại chúng. Và giữa thập kỷ 1970 nghệ thuật
từ chủ nghĩa hiện thực đã chuyển sang chủ nghĩa biểu tượng. Bối cảnh các ngành nghệ

thuật trong thập kỷ 1980 và 1990, bao gồm điêu khắc, nghề đồ gốm và nghệ thuật biểu
diễn, đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nam nữ bình quyền và một chút cảm xúc của nền
văn hóa Maori.
1.6.2. Âm nhạc:
Cùng với những bài hát và những bài có dạng như thánh ca, âm nhạc Maori còn có
một dải rộng những loại trống, nhạc cụ gõ và nhạc cụ hơi gió. Trong xã hội trước kia của
người Maori, những giọng hát và âm thanh của các nhạc cụ đã đóng một vai trò rất quan
trọng trong những hoạt động xã hội và các lễ nghi của cộng đồng. Với sự thiếu vắng của
một nền văn học Maori bằng chữ trước kia, truyền thống âm nhạc đã hình thành một phần
lớn nền văn học khẩu ngữ của dân tộc này.
Hai trong số những đơn vị nghệ sĩ được thế giới ca ngợi của New Zealand trong thế kỷ 20
là ca sĩ hát giọng nữ cao cổ điển Dame Kiri Te Kanawa, và ban nhạc pop/rock Crowded
House. Te Kanawa sinh tại Gisborne năm 1944, nhưng cô lại nổi tiếng sau khi biểu diễn
tại Nhà hát Opera Hoàng gia tại Luân Đôn năm 1971.Crowded House cũng nhận được
nhiều vinh dự. Neil và Tim Finn, hai anh em của ban nhạc này đã được giải thưởng OBE
năm 1993. Những nhạc sĩ nổi bật có Douglas Lilburn, đã được Vaughan Williams dạy tại
Viện Hàn lâm Hoàng gia Luân Đôn.Ngoài ra có người làm trò vui là Howard Morrison,
một người Maori đã được đề cử làm đại sứ văn hóa năm 1986.
1.6.3 Văn học:

25
Page 25


×