Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cấp nước hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------------

VŨ MẠNH HOÀ

PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY CẤP NƯỚC HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS NGUYỄN ĐẠI THẮNG

HÀ NỘI - 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, tạo môi
trường thuận lợi để doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả
năng cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp có nhiều nỗ lực vươn lên, góp
phần quyết định vào quá trình chuyển đổi cơ cấu và duy trì tốc độ tăng trưởng cao
của nền kinh tế trong thời gian qua. Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế nước ta còn rất hạn chế, chưa
đáp ứng được đòi hỏi của thị trường và yêu cầu hội nhập với kinh tế khu vực và thế


giới
Tình hình này về phía doanh nghiệp có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là:
Nhiều doanh nghiệp chưa chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản
lý doanh nghiệp và tay nghề cho công nhân; chi phí sản xuất còn cao và chưa công
khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp, yếu kém trong liên doanh và liên kết
với nhau, thiếu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và còn trông chờ, ỷ lại vào sự ưu
đãi bảo hộ của nhà nước. Vai trò các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng
còn nhiều hạn chế.
Chính vì vậy vấn đề cấp bách đặt ra cho các doanh nghiệp trong cả nước là phải
tìm ra bằng được các giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp,
đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) đã chỉ rõ: ''Việc tiếp tục xắp sếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ
chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ ''.
Công ty Cấp nước Hải phòng (CTCNHP) là doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở
Giao thông Công chính Thành phố Hải Phòng. Trong những năm gần đây,
CTCNHP triển khai nhiều chương trình nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong
đó chương trình giảm tỷ lệ nước thất thoát là chương trình lớn nhất, quan trọng nhất
và có tính quyết định đến chiến lược nâng cao hiệu quả kinh doanh của CTCNHP.
Chính vì

vậy CTCNHP đã đặc biệt quan tâm đầu tư và, thực hiện nhiều

chương trình, biện pháp giảm tỷ lệ nước thất thoát và bước đầu đã đạt được những
Vũ Mạnh Hòa

1

HP, tháng 9 năm 2004



Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, vấn đề này mới chỉ căn cứ vào thực tiễn để lập các
dự án, phương án cải tạo nâng cấp và mở rộng mạng lưới cấp nước hiện có nhằm
mục đích mở rộng phạm vi phục vụ và giảm tỷ lệ nước thất thoát, giải quyết những
yêu cầu, đòi hỏi cấp bách trước mắt. Do chưa có một đề tài nghiên cứu tổng thể và
có hệ thống về vấn đề này để triển khai áp dụng nên nói chung tỷ lệ thất thoát nước
vẫn còn cao và không ổn định, làm giảm đáng kể hiệu quả kinh doanh.
Là một cán bộ lãnh đạo của CTCNHP, tôi chọn đề tài ''Phân tích và đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của CTCNHP " làm đề tài
luận văn Thạc sĩ quản trị kinh doanh. Đây là một đề tài rất lớn và liên quan đến rất
nhiều lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, do giới hạn của luận văn cho nên chỉ đi
sâu nghiên cứu thực trạng, phân tích các nguyên nhân và đưa ra các giải pháp để
giảm tỷ lệ nước thất thoát trên mạng lưới cấp nước Thành phố Hải phòng do
CTCNHP quản lý. Đây là một vấn đề hết sức bức xúc và có ý nghĩa thực tiễn đối
với sự phát triển của CTCNHP nói riêng cũng như của ngành nước Việt Nam nói
chung
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI :
Đề tài tập trung nghiên cứu một số cơ sở lý luận cơ bản về doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường, nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vận
dụng những lý luận cơ bản để phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả
kinh doanh của CTCNHP. Đề tài sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề thất thoát
nước, đánh giá tác hại của thất thoát nước, những nguyên nhân chủ yếu gây thất
thoát nước ở CTCNHP, từ đó xác định các giải pháp nhằm giảm tỷ lệ nước thất
thoát trên mạng lưới cấp nước Thành phố Hải phòng.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tổng quát những vấn đề về hiệu quả
hoạt động kinh doanh của CTCNHP. Đi sâu nghiên cứu về vấn đề thất thoát nước
trên mạng lưới cấp nước bao gồm cả công tác quản lý tiêu thụ và kỹ thuật.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: Hoạt động kinh doanh nước sạch ở
CTCNHP , có đặt trong mối quan hệ chung với các công ty cấp nước của các tỉnh,
thành phố trong cả nước.
Vũ Mạnh Hòa

2

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Về mặt thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh
nước sạch của CTCNHP từ năm 1997 đến nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Luận văn lấy việc sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm nền tảng, đồng thời kết hợp với việc sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh và phương pháp điều tra thực tế để giải quyết các vấn đề đặt ra trong
quá trình nghiên cứu.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
Một là: làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về: doanh nghiệp và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp, vai trò của doanh nghiệp và doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế thị trường, giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. . Hai là: phân tích, đánh giá thực trạng về hiệu quả kinh doanh nước sạch
của CTCNHP, tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề nước thất thoát ở CTCNHP, từ

đó tìm ra những nguyên nhân và những yếu tố tác động thực tế làm tăng tỷ lệ nước
thất thoát.
Ba là: Phân tích và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh
nước sạch của CTCNHP . Trong đó đi sâu nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm
giảm tỷ lệ nước thất thoát.
Đề tài này có thể được áp dụng rộng rãi ở các Công ty Cấp nước của Việt Nam.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1:
Một số cơ sở lý luận về hiệu quả và nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
Chương 2:
Phân tích hiệu quả kinh doanh của CTCNHP.
Chương 3:

Vũ Mạnh Hòa

3

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của
CTCNHP.

Vũ Mạnh Hòa


4

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

CHƯƠNG I

MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1 Doanh nghiệp và phân loại doanh nghiệp
1.1.1. Các khái niệm về doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là một đơn vị được thành lập nhằm mục đích kinh doanh; kinh
doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục
tiêu sinh lời.
Từ trước đến nay đã có nhiều khái niệm, định nghĩa về doanh nghiệp song các
định nghĩa và khái niệm đó chưa thể hiện đầy đủ và toàn diện những đặc điểm
chung nhất cho bất kỳ một loại doanh nghiệp nào.
+ Theo quan điểm hệ thống: Ta cho rằng doanh nghiệp là một tổng thể, một hệ
thống bao gồm con người và thiết bị được tổ chức lại nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định, đó là việc tạo ra một sự cân bằng trong ngân quỹ, tạo ra khả năng
sinh lời của vốn đầu tư, làm lợi cho người chủ sở hữu đảm bảo tương lai phát triển
của doanh nghiệp.
+ Theo quan điểm tổ chức quá trình và nội dung hoạt động của doanh nghiệp :
doanh nghiệp là một tổ chức mà thông qua đó, trong khuôn khổ của một số sản

lượng tài sản nhất định, người ta sẽ lựa chọn những phương pháp kết hợp các yếu tố
đầu vào một cách tối ưu nhằm tạo ra những khoản chênh lệch giữa giá bán và chi
phí bỏ ra.
+ Theo quan điểm mục đích hoạt động của doanh nghiệp : doanh nghiệp là một tổ
chức thực hiện các hoạt động kinh doanh như sản xuất, mua bán hàng hoá cung cấp
dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận.
* Các khái niệm và định nghĩa trên còn có những hạn chế sau đây :
-

Các khái niệm và định nghĩa về từng loại hình doanh nghiệp, mục đích hoạt
động của doanh nghiệp chưa thể hiện rõ. Phần lớn các khái niệm về doanh

Vũ Mạnh Hòa

5

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

nghiệp chỉ cố gắng đưa ra phân biệt về nguồn gốc hình thành tài sản, đặc điểm
kinh tế, kỹ thuật hay đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp là tìm kiếm và tạo ra
lợi nhuận thì chưa được đề cập đến đầy đủ.
-

Không thể hiện rõ mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh doanh,
với Nhà nước và người tiêu dùng.


-

Do đứng trên các góc độ khác nhau, nên các định nghĩa trên chưa thể hiện được
nhận thức đầy đủ và toàn diện về doanh nghiệp. Một khái niệm được coi là đúng
và hoàn chỉnh cần phải thể hiện được các yêu cầu sau:
+ Thể hiện đầy đủ những nội dung cơ bản trong hoạt động của bất kỳ một

doanh nghiệp nào, trước hết là thể hiện rõ mục đích, chức năng, đặc điểm hoạt động
của doanh nghiệp.
+ Thể hiện những đặc điểm chung nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp, bất kỳ
nó thuộc hình thức sở hữu nào.
+ Thể hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhân tố, điều kiện khách
nhau trong môi trường hoạt động kinh doanh, phải thể hiện rõ phương tiện và mục
đích của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.
-

Với những yêu cầu đó, ta có thể đề xuất một khái niệm về doanh nghiệp như
sau:
Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức kinh doanh cơ sở của nền kinh tế quốc

dân, có tư cách pháp nhân, thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng thương
mại, trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi
ích của đối tượng tiêu dùng thông qua đó tối đa lợi ích kinh tế của người chủ sở
hữu về tài sản của doanh nghiệp, đồng thời kết hợp một cách hợp /ý các mục
tiêu xã hội.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp:
Có rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế. Dù các doanh nghiệp này
có mục đích giống nhau nhưng mối doanh nghiệp lại có một cách biểu hiện mục
đích riêng của mình. Do đặc điểm của mỗi doanh nghiệp cũng không hoàn toàn

đồng nhất với nhau nên việc quản lý kinh tế nói chung và quản lý mỗi doanh nghiệp
nói riêng cần tuân theo các đặc điểm. Việc phân loại sẽ giúp ta hệ thống hoá được
Vũ Mạnh Hòa

6

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

các loại doanh nghiệp để từ đó có chính sách biện pháp quản lý phù hợp với từng
loại hình doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế của nước ta hiện nay, doanh nghiệp được phân loại theo các
tiêu thức sau đây:
Căn cứ theo hình thức pháp lý và trách nhiệm pháp lý:
-

Doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn: là loại hình doanh nghiệp mà chủ doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh, phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp chịu
trách nhiệm pháp lý vô hạn gồm doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.

-

Doanh nghiệp chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn: là những doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân độc lập chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của
doanh nghiệp, thành viên doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm tài sản trong phạm

vi vốn góp vào doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp bị phá sản thì họ chỉ mất phần
vốn góp vào doanh nghiệp mà không phải lấy tài sản riêng để trả nợ thay cho
công ty. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn bao gồm: doanh
nghiệp Nhà nước, công ty TNHH, công ty Cổ phần, HTX.

Căn cứ theo quy mô của doanh nghiệp (vốn, /ao động)
Gồm có doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ
Hiện nay việc phân loại quy mô doanh nghiệp được dựa trên hai tiêu chí chính là
vốn đầu tư và tổng số lao động mà doanh nghiệp sử dụng. Theo thông báo số
681/CP-KTN ngày 20 tháng 6 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ những doanh
nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng Việt Nam và có số lao động trung bình dưới 200
người được xếp vào nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Căn cứ theo ngành nghề và tính chất sản phẩm.
Gồm có doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp, doanh nghiệp xây dựng, doanh
nghiệp vận tải…
Đặc điểm hình thành và phát triển này tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật
của từng ngành.

Vũ Mạnh Hòa

7

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Căn cứ theo yêu cầu của cơ chế thị trường hay phục vụ nhu cầu công cộng

của xã hội, gồm có:
+ Doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, mục đích hoạt động là lợi nhuận
tối đa.
+ Doanh nghiệp phục vụ các nhu cầu xã hội (hoạt động công ích) mục đích hoạt
động không phải là lợi nhuận.
Các doanh nghiệp phục vụ nhu cầu xã hội thường là doanh nghiệp Nhà nước
được thành lập để thực hiện các hoạt động công ích phục vụ cho lợi ích chung của
xã hội. Hoạt động của doanh nghiệp không nhằm mục đích lợi nhuận hay trên cơ sở
lợi nhuận định mức.
Căn cứ theo cơ cấu thị trường:
+ Doanh nghiệp thuộc thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
+ Doanh nghiệp thuộc thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền.
+ Doanh nghiệp thuộc thị trường thiểu số độc quyền.
+ Doanh nghiệp độc quyền thuần tuý.
Cơ cấu và tỷ trọng của các loại hình doanh nghiệp ở các nước khác nhau do sự
tác động của nhiều nhân tố : Mô hình kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế trong
một giai đoạn dài, chính sách kinh tế của từng quốc gia, cơ cấu thị trường, trình độ
phát triển về khoa học kỹ thuật, đời sống văn hoá xã hội, trình độ và khả năng tổ
chức của các nhà quản lý. . .
Căn cứ theo tính chất sở hữu tài sản doanh nghiệp được chia làm hai loại:
+ Doanh nghiệp có một chủ sở hữu.
+ Doanh nghiệp có nhiều người, nhiều tổ chức sở hữu.
-

Doanh nghiệp một chủ sở hữu bao gồm 100% vốn Nhà nước và 100% vốn tư
nhân.

-

Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu (đồng sở hữu) bao gồm : công ty Cổ phần,

công ty TNHH, công ty Hợp danh, HTX.

Vũ Mạnh Hòa

8

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

+ Doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Đây là các doanh nghiệp do Nhà
nước tự đứng ra bỏ vốn đầu tư và điều hành, hoạt động theo mục đích công ích
hay kinh tế.
+ Doanh nghiệp không thuộc quyền sở hữu của Nhà nước đây là các doanh nghiệp
tư nhân do các tổ chức, các cá nhân tự đứng ra bỏ vốn và điều hành hoạt động
theo luật pháp quy định với mục đích kiếm lời.
1.2. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức nền kinh tế quốc
dân, là nơi sản xuất ra hàng hoá dịch vụ cho những nhu cầu đời sống kinh tế xã hội.
Trong những chức năng quản lý của nhà nước thì vấn đề tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động là chức năng chủ yếu và quan trọng nhất.
1.2.1. Khái niệm môi trường kinh doanh của doanh nghiệp:
“Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hệ các yếu tố và điều kiện
khách quan và chủ quan bên ngoài và bên trong doanh nghiệp, có môi quan hệ
tương tác với nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp”
Môi trường hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường được khái quát như sau:
Để hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần chú ý các yếu tố đầu vào liên quan
đến thị trường như : Thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường nguyên vật liệu,
thị trường công nghệ. . . ở đây doanh nghiệp với tư cách là cầu, doanh nghiệp sẽ
phản ứng với nhiều biện pháp nhằm trả lời các câu hỏi : Mua với giá bao nhiêu?
Mua ở đâu? Mua của ai?
Trong quá trình phân phối sản phẩm hàng hoá và dịch vụ ra thị trường doanh
nghiệp cũng đương đầu với hàng loạt vấn đề: Giá bán, người tiêu dùng, đối thủ cạnh
tranh…. khi đó doanh nghiệp đóng vai trò cung. Doanh nghiệp muốn tồn tại thì nó
phải thích nghi với môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh là điểm khởi
đầu và kết thúc của mỗi doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh được cấu thành từ
hai yếu tố tự nhiên và xã hội. Nhóm các yếu tố tự nhiên là đất đai, tài nguyên, môi
sinh, dân cư… Nhóm các yếu tố xã hội là các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội, pháp
Vũ Mạnh Hòa

9

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

luật, quy chế của Chính phủ. Nhóm các yếu tố xã hội quyết định chính đến môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Đặc điểm của môi trường doanh nghiệp:
-

Tính khách quan của môi trường kinh doanh.


-

Môi trường kinh doanh có tính tổng hợp.

-

Môi trường kinh doanh có tính đa dạng.

-

Môi trường kinh doanh có tính động

-

Môi trường kinh doanh có tính phức tạp .

-

Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp mang tính hệ thống.
Trên cơ sở khái quát môi trường hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp

trong nền kinh tế thị trường, ta có thể phân loại môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp thành 8 yếu tố cơ bản sau:
1. Các yếu tố về chính trị.
2. Các yếu tố pháp luật.
3. Các yếu tố văn hoá.
4. Các yếu tố tâm lý.
5. Các yếu tố công nghệ.
6. Các nhân tố về chính trị.

7. Các nhân tố về môi sinh.
8. Các nhân tố quốc tế.
Sự tương tác giữa các nhân tố trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp có
thể được khái quát nêu trong Biểu đồ 1.1 sau đây :

Biểu đồ 1.1

Vũ Mạnh Hòa

10

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Trong cơ chế đổi mới quản lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển,
Đảng và Nhà nước đã tạo ra môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
l.2.3. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến môi trường kinh doanh cho các
doanh nghiệp.
-

Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.

-

Phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ.


-

Tổ chức quản lý và hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động.

-

Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản.

-

Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khoán.

Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế
Từ năm 1987 đến nay Quốc hội đã ban hành các Luật và Pháp lệnh liên quan
đến hoạt động kinh doanh như:
1. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987).
2. Luật thuế xuất khẩu (năm 1987), và các văn bản bổ sung sửa đổi thuế xuất
khẩu, nhập khẩu (năm 1987).
3. Luật công ty (năm 1990).
4. Luật doanh nghiệp tư nhân (năm 1990).
5. Bộ luật hàng hải (năm 1990).
6. Luật hàng không dân dụng (năm 1991).
7. Luật phá sản doanh nghiệp (năm 1993).
8. Luật sửa đổi bổ sung một số điều luật của luật tổ chức Toà án nhân dân (năm
1994).
Vũ Mạnh Hòa

11

HP, tháng 9 năm 2004



Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

9. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (năm 1994).
10. Bộ luật dân sự (năm 1995).
11. Luật doanh nghiệp (năm 2002)
Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả.
Chính sách tài chính phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển.
Chính sách tiền tệ và hoạt động Ngân hàng phải phù hợp với cơ chế thị trường,
góp phần ổn định sức mua của đồng tiền kiểm chế lạm phát ở mức thấp, huy động
và cho vay vốn có hiệu quả.
Hoàn thiện hệ thống giá cả và đổi mới công tác quản lý giá.
Chủ trương phát triển doanh nghiệp của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Sự hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp đã góp phần vào việc
phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng được các nhu cầu của xã hội. Chủ trương
của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là tập trung khuyến khích phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp để các loại hình doanh nghiệp ở nước ta có
đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Chính sách phát triển các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải được
xây dựng trên quan điểm:
Không giới hạn sự phát triển cho phép những doanh nghiệp có đủ điều kiện quy
định được phép mở rộng liên doanh, liên kết với nước ngoài.
Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức, hoạt động theo các mô hình tổng hợp.
Với quan điểm này các chính sách phát triển sản xuất, kinh doanh là một thể
thống nhất, không phân biệt chủ sở hữu, bỏ chế độ chủ quan, đa dạng hoá hình thức

sở hữu sẽ tạo nguồn động lực mới cho sự phát triển của các doanh nghiệp.
Như vậy trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, kinh
tế ngoài quốc doanh đã đựoc nhìn nhận như một bộ phận không thể tách rời của nền
kinh tế, là yếu tố duy trì động lực phát triển của ngành kinh tế.
Vũ Mạnh Hòa

12

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Định hướng phát triển này của Đảng đang được các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền nghiên cứu triển khai và thể chế hoá bằng các văn bản pháp quy. Việc thực
hiện các chính sách này hứa hẹn tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát
triển của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh
nói riêng, tạo tiền đề thúc đẩy kinh tế phát triển xây dựng xã hội công bằng văn
minh.
Đối với Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước là những doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế, cung ứng những hàng hoá và dịch vụ công cộng cần thiết trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng vật chất (như giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, thông tin liên lạc) và xã
hội như (giáo dục, y tế...), quốc phòng, an ninh và một số các ngành sản xuất, kinh
doanh trọng yếu khác, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã chỉ rõ: ''Việc tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước là
nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn,

phức tạp, mới mẻ''. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là việc phải làm ngay,
nhưng quan trọng hơn, cơ bản hơn là phải đổi mới, sắp xếp như thế nào để có hiệu
quả thiết thực.
Trong hơn 2 năm qua, thực hiện Nghị quyết 3, cả nước đã làm được khá nhiều
việc, cụ thể là: tính đến tháng 2/2004 cả nước đã sắp xếp lại được 1.766 doanh
nghiệp (trong đó cổ phần hoá được 905 doanh nghiệp Nhà nước) và đa dạng hoá sở
hữu. Theo Đề án Tổng thể sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn
2002 –2005 thì đến năm 2005, trong tổng số 4.722 doanh nghiệp Nhà nước hiện có
sẽ còn lại 1.931 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước (41%) và 2.791 doanh nghiệp
được sắp xếp lại (59%), trong đó cổ phần hóa 2.053 doanh nghiệp (43.5%) bao gồm
1.042 doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối và 1.011 doanh nghiệp Nhà
nước không giữ cổ phần chi phối; các hình thưc sắp xếp khác (sát nhập, hợp nhất,
giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, giải thể, phá sản) là 738 doanh nghiệp.
1.3. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là một hạt nhân kinh tế, là một hệ thống kinh doanh hàng hoá dịch
vụ. Hoạt động của doanh nghiệp có thể chia ra làm hai giai đoạn:
Vũ Mạnh Hòa

13

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

-

Giai đoạn hoạt động sản xuất : Tức là sáng tạo ra của cải vật chất và dịch vụ.


-

Giai đoạn hoạt động kinh doanh: tức là phân phối các hàng hoá dịch vụ cho các
thành phần có nhu cầu trong xã hội.
Để đánh giá kết quả của các hoạt động kinh doanh người ta đưa ra khái niệm:

Hiệu quả kinh doanh.

1.3.l. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng và
năng lực quản lý các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh
đạt kết quả cao với chi phí thấp nhất. Có rất nhiều quan điểm về hiệu quả kinh
doanh.
-

Theo quan điểm mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh doanh là hiệu số giữa kết
quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Hiệu số này phản ánh trình độ tổ
chức sản xuất và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.

-

Theo quan điểm riêng lẻ từng yếu tố thì hiệu quả kinh doanh thể hiện khả năng,
trình độ sử dụng các yếu tố đó.

-

Thông thường để đánh giá hiệu quả kinh doanh ta so sánh giữa chi phí đầu vào
và kết quả nhận được ở đầu ra:
Gọi: H là hiệu quả kinh doanh

K là kết quả đầu ra.
C là chi phí đầu vào.
Ta tính được H theo công thức sau:
H = K - C : Thì H là hiệu quả tuyệt đối
H=

K
C

:

Thì H là hiệu quả tương đối.

Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các
phương án hoạt động kinh doanh.
Vũ Mạnh Hòa

14

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Với cách tính

H=


K
C

Cách đánh giá này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng một số vốn đã bỏ ra để
thu được kết quả cao hơn, tức là xuất hiện giá trị gia tăng (điều kiện H >1).
Để đảm bảo cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì H phải lớn hơn 1
(H>1). H càng lớn thì chứng tỏ quá trình kinh doanh càng đạt hiệu quả. Để tăng H
ta thường có những biện pháp sau:
- Giảm đầu vào (C), đầu ra (K) không đổi.
- Giữ đầu vào (C) không đổi, tăng đầu ra (K).
- Giảm đầu vào (C), tăng đầu ra (K).
Trong tình trạng quản lý điều hành hoạt động kinh doanh bất hợp lý chúng ta có
thể cải tiến để sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý tránh gây lãng phí để tăng giá
trị đầu ra.
Nhưng nếu quá trình hoạt động kinh doanh đã hợp lý thì việc áp dụng các biện
pháp trên sẽ là bất hợp lý. Bởi ta không thể giảm đầu vào (C) mà không làm giảm
đầu ra (K) và ngược lại. Thậm chí ngay cả khi quá trình hoạt động kinh doanh của
ta còn bất hợp lý thì việc áp dụng những biện pháp trên đây có khi còn làm giảm
hiệu quả. Vì vậy để có được một hiệu quả không ngừng tăng nên đòi hỏi chúng ta
phải không ngừng tăng chất lượng đầu vào.
Chất lượng đầu vào tăng nếu như: Nguyên liệu tốt hơn, lao động có tay nghề
hơn, máy móc công nghệ hiện đại hơn. . . như thế ta có thể giảm được hao phí
nguyên liệu, hao phí lao động, giảm được số lượng phế phẩm. . . dẫn đến sản phẩm
có chất lượng cao, giá thành hạ.
Như vậy để tăng hiệu quả kinh doanh (H) thì con đường duy nhất là không
ngừng đầu tư công nghệ, nhân lực, quản lý. . . qua đó giá trị đầu ra (K) ngày càng
tăng hơn đồng thời nâng cao vị trí, sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu tổng hợp nhất về chất lượng của kinh doanh. Nội
dung của nó là so sánh kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Nhà kinh doanh cần biết
với số vốn nhất định bỏ ra việc gì đem lại số lãi bằng tiền lớn nhất trong thời gian

ngắn nhất thì việc đó được xem là có hiệu quả kinh tế cao. Xem xét hiệu quả kinh tế
Vũ Mạnh Hòa

15

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

phải đặt hoàn cảnh và trình độ phát triển chung về kinh tế xã hội của đất nước. Có
việc lúc này là có lợi và nên làm, nhưng 5, 10 năm sau sẽ không được nhìn nhận là
có hiệu quả kinh tế nữa. Sự biến động của tình hình trong nước và Thế giới cũng có
thể đưa đến hiệu quả trên. Tính phức tạp của việc đánh giá hiệu quả kinh tế đòi hỏi
phải xem xét nhiều yếu tố và cân nhắc nhiều mặt, phải dựa vào thực tế kinh doanh
hiện tại, phải dự báo cả tương lai, phải coi trọng lợi ích cơ sở sản xuất đảm bảo cho
cơ sở thu được hiệu quả kinh tế cao để tự phát triển và phục vụ lợi ích của xã hội.
Hiệu quả xã hội là chỉ tiêu phản ánh về mức độ đóng góp của doanh nghiệp vào
sự phát triển chung của nền kinh tế. Đó là sự đóng góp vào ngân sách Nhà nước của
các doanh nghiệp thông qua hình thức thuế. Thu hút lao động, giải quyết việc làm
tăng thu nhập cho người lao động góp phần xoá đói giảm nghèo. Từng bước góp
phần vào sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế.
-

Đối với hiệu quả kinh tế thì doanh nghiệp là chủ thể.

-


Đối với hiệu quả xã hội thì xã hội mà đại diện Nhà nước là chủ thể.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là vấn đề cấp bách và cần thiết

nhằm thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế nước ta hiện nay.
Vậy đánh giá hoạt động kinh doanh có hiệu quả phải dựa vào cơ sở nào, dựa vào
hệ thống chỉ tiêu nào?
l.3.2. Hệ thống chỉ tiêu, các phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả kinh
doanh.
Có nhiều loại chỉ tiêu kinh tế khác nhau, tuỳ theo mục đích và nội dung phân
tích cụ thể, có thể lựa chọn những chỉ tiêu phân tích thích hợp.
1.3.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội:
Các chỉ tiêu này phản ánh mức đóng góp của các doanh nghiệp vào sự phát triển
chung của nền kinh tế quốc dân, đó là:
-

Tăng thu nhập quốc dân;

-

Tạo công ăn việc làm;

-

Mức nộp ngân sách Nhà nước;

Vũ Mạnh Hòa

16


HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

-

Đảm bảo môi sinh;

-

Đảm bảo chủ quyền đất nước;

-

Đảm bảo công bằng xã hội.
Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả xã hội của kinh doanh là giá trị gia tăng. Giá trị gia

tăng bao gồm hai bộ phận chính: lương và các khoản thặng dư xã hội. Theo quan
điểm của chủ doanh nghiệp thì lương là đầu vào, là chi phí, nhưng theo quan điểm
xã hội thì lương là bộ phận thu nhập quốc dân. Lương càng nhiều tức là càng bố trí
được nhiều việc làm, thu nhập của người lao động càng cao dẫn đến sức mua của
người dân càng cao, phúc lợi của quốc dân càng cao.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế :
Các chỉ tiêu phản ánh yếu tố đầu vào.
-

Lao động;


-

Nguồn vốn;

-

Tài sản;

-

Đất đai;

-

Công nghệ.

Các chỉ tiêu phản ánh kết quả đầu ra:
-

Tổng sản lượng;

-

Doanh thu;

-

Lợi nhuận;


-

Mức đóng góp ngân sách Nhà nước.

Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
+ Tổng sản lượng trên vốn (TSL/vốn);
+ Doanh thu trên vốn (DT/vốn);
+ Lợi nhuận trên vốn (LN/vốn);
+ Tổng sản lượng trên lao động (TSL/LĐ);
+ Doanh thu trên lao động (DT/ LĐ);
Vũ Mạnh Hòa

17

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

+ Lợi nhuận trên lao động (LN/LĐ);
+ Mức đóng góp NSNN trên lao động (Mức đóng góp NSNN/LĐ)
+ Mức đóng góp NSNN trên vốn (Mức đóng góp NSNN/vốn)

1.3.2.2. Các phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh.
Phương pháp so sánh.
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu
hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, để tiến hành so sánh phải
giải quyết những vấn đề cơ bản, như: xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện

so sánh và xác định mục tiêu so sánh.
Xác định số gốc để so sánh phụ thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích:
-

Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu, số gốc để
so sánh là trị số của chỉ tiêu ở kỳ trước (năm nay so với năm trước, tháng này so
với tháng trước...)

-

Khi nghiên cứu nhịp điệu thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong từng khoảng thời
gian trong một năm thường so sánh với cùng kỳ năm trước (tháng hoặc quý).

-

Khi đánh giá mức độ biến động so với các mục tiêu đã dự kiến, trị số thực tế sẽ
được so sánh với mục tiêu nêu ra (thường trong kế hoạch sản xuất kỹ thuật - tài
chính của doanh nghiệp).

-

Khi nghiên cứu khả năng đáp ứng nhu cầu của một loại sản phẩm hàng hoá dịch
vụ nào đó trên thị trường có thể so sánh số thực tế với mức độ hợp đồng hoặc
tổng nhu cầu nhu cầu vv...

-

Các trị số của chỉ tiêu ở kỳ trước, kế hoạch hoặc cùng kỳ năm trước gọi chung là
trị số kỳ gốc và thời kỳ chọn làm gốc so sánh đó, gọi chung là trị số kỳ gốc.
Thời kỳ chọn để phân tích gọi tắt là kỳ phân tích.


Vũ Mạnh Hòa

18

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Ngoài việc so sánh theo thời gian, phân tích kinh tế còn so sánh kết quả kinh
doanh giữa các đơn vị: so sánh mức đạt được của các đơn vị với một đơn vị được
chọn làm gốc so sánh (đơn vị điển hình trong từng lĩnh vực, từng chỉ tiêu phân tích).
Điều kiện so sánh cần được quan tâm khác nhau khi so sánh theo thời gian và
khi so sánh theo không gian.
Khi so sánh theo thời gian cần chú ý các điều kiện sau:
*. Bảo đảm tính thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu.
Thông thường, nội dung kinh tế của chỉ tiêu có tính ổn định và thường được qui
định thống nhất. Tuy nhiên, do phát triển của hoạt động kinh doanh nên nội dung
kinh tế của chỉ tiêu có thể thay đổi theo các chiều hướng khác nhau: Nội dung kinh
tế của chỉ tiêu có thể bị thu hẹp hoặc mở rộng do phân ngành kinh doanh, do phân
chia các đơn vị quản lý, hoặc do thay đổi của chính sách quản lý. Đôi khi, nội dung
kinh tế của chỉ tiêu cũng thay đổi theo chiều hướng ''quốc tế hóa'' chỉ tiêu để tiện
so sánh trong điều kiện thế giới là một thị trường chung ...Trong điều kiện các chỉ
tiêu có thay đổi về nội dung, để đảm bảo so sánh được cần tính toán lại trị số gốc
của chỉ tiêu theo nội dung mới quy định lại.
**. Bảo đảm tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu.
Trong kinh doanh các chỉ tiêu có thể được tính theo các phương pháp khác nhau.

Từ các chỉ tiêu giá trị sản lượng, doanh thu, thu nhập đến các chỉ tiêu: năng suất, giá
thành. . . có thể được tính toán theo những phương pháp khác nhau. Khi so sách cần
lựa chọn hoặc tính lại các trị số của chỉ tiêu theo một phương pháp thống nhất.
***. Bảo đảm tính thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu cả về hiện vật, giá trị
và thời gian.
Khi so sánh mức đạt được trên các chỉ tiêu ở các đơn vị khác nhau ngoài các
điều kiện đã nêu, cần bảo đảm các điều kiện khác, như: cùng phương hướng kinh
doanh, cùng điều kiện kinh doanh. . . tương tự nhau.
Tất cả các điều kiện trên gọi chung là đặc tính ''có thể so sánh'' hay ''tính chất
so sánh được'' của các chỉ tiêu phân tích.

Vũ Mạnh Hòa

19

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Mục tiêu so sánh trong khi phân tích kinh tế là xác định mức biến động tuyệt đối
và mức biến động tương đối cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích (năng
suất tăng lên, giá thành giảm).
Mức biến động tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu giữa
hai kỳ: kỳ phân tích và kỳ gốc, hay chung nhất là so sánh giữa số phân tích và số
gốc.
Mức biến động tương đối là kết quả so sánh giữa trị số của chỉ tiêu kỳ phân tích
với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc, nhưng đã được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu

có liên quan, mà chỉ tiêu liên quan này quyết định quy mô của chỉ tiêu phân tích.
Phương pháp phân tích trên được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực, như: phân
tích tình hình sử dụng lao động, tình hình sử dụng vật tư, tiền vốn, lợi nhuận. . .
Phương pháp loại trừ.
Trong phân tích kinh tế, nhiều trường hợp cần nghiên cứu ảnh hưởng của các
nhân tố đến kết quả kinh doanh nhờ phương pháp loại trừ.
Loại trừ một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng lần lượt của từng
nhân tố đến kết quả kinh doanh bằng cách khi xác định sự ảnh hưởng của nhân tố
này, thì loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Chẳng hạn, khi phân tích chỉ tiêu tổng mức lợi nhuận thu được từ một hoạt động
kinh doanh, một loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của một doanh nghiệp có thể quy
về sự ảnh hưởng của hai nhân tố:
+ Lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã bán ra, được tính bằng các đơn vị tự nhiên
(cái, chiếc, suất ăn...) hoặc đơn vị trọng lượng (tấn, tạ, kg...) hay khối lượng dịch
vụ hoàn thành (m2 x d, tấn/km, người/km vận chuyển... ).
+ Suất lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm hàng hoá dịch vụ. . .
Cả hai nhân tố trên cùng đồng thời ảnh hưởng đến tổng mức lợi nhuận, nhưng để
xác định mức độ ảnh hưởng của một nhân tố này phải loại trừ ảnh hưởng của các
nhân tố khác. Muốn vậy, điều này có thể được thực hiện bằng hai cách.
Cách thứ nhất: Có thể dựa trực tiếp vào mức biến động của từng nhân tố và được
gọi bằng phương pháp ''số chênh lệch''.
Vũ Mạnh Hòa

20

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội


Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

Cách thứ hai: Có thể dựa vào phép thay thế sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố và
được gọi là phương pháp ''thay thế liên hoàn''.
Trong trường hợp này, khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ là nhân tố số
lượng, còn suất lợi nhuận là nhân tố chất lượng. Có thể khái quát phương pháp xác
định ảnh hưởng của từng nhân tố số lượng và chất lượng đến chỉ tiêu phân tích bằng
phương pháp số chênh lệch, như sau:
Ảnh hưởng của
nhân tố số lượng
[∇f (x )]

=

Chênh lệch của nhân
tố số lượng

=

Chênh lệch của nhân
tố chất lượng

[x1 − x0 ]

Ảnh hưởng của
nhân tố chất lượng

[ y1 − y 0 ]

[∇f ( y )]


×

×

Trị số của nhân tố
chất lượng kỳ gốc

[y0 ]

Trị số của nhân tố số
lượng kỳ phân tích

[x1 ]

∆f ( y ) = ( y1 − y 0 ).x1

Tổng hợp ảnh hưởng của tất cả các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích nhờ phương
pháp cộng đại số:
∆f ( x, y ) = ∆f (x ) + ∆f ( y )

Trong trường hợp có nhiều nhân tố số lượng, chất lượng ảnh hưởng đến chỉ tiêu.
Bằng phương pháp ''thay thế liên hoàn'', có thể xác định ảnh hưởng của các
nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố để xác định trị số của chỉ tiêu
khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó, lấy kết quả trừ đi chỉ tiêu khi chưa có biến đổi nhân
tố nghiên cứu sẽ xác định được ảnh hưởng của nhân tố này.
Có thể khái quát mô hình chung của các phép thế, như sau:
Nếu có f(x,y,z....) = x,y,z...
Thì: kỳ gốc: f (x 0 y 0 z 0 ...) = x 0 y 0 z 0 ...
Và kỳ phân tích: f (x1 y1 z1 ...) = x1 y1 z1 ...

Sự ảnh hưởng lần lượt của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích được xác định
theo một trình tự sau đây:
∆f ( x) = f ( x1 y 0 z 0 ...) − f ( x 0 y 0 z 0 ...) = x1 y 0 z 0 ... − x 0 y 0 z 0 ...

Vũ Mạnh Hòa

21

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh
∆f ( y ) = f ( x1 y1 z 0 ...) − f ( x1 y 0 z 0 ...) = x1 y1 z 0 ... − x1 y 0 z 0 ...

Tổng hợp sự ảnh hưởng của tất cả các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích bằng phép
cộng đại số:
∆f ( x, y, z...) = ∆f ( x) + ∆f ( y ) + ∆f ( z ) + ...

Như vậy điều kiện vận dụng của phương pháp loại trừ, gồm:
(a) Các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng một
tích số (hoặc một thương số).
(b) Việc sắp xếp và trình tự xác định ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố đến chỉ
tiêu phân tích cần tuân theo quy luật ''lượng biến dẫn đến chất biến''
1.3.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng và các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp :
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Nhân tố tác động đến kết quả của quá trình kinh doanh có rất nhiều, có thể phân
loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.

Theo nội dung kinh tế của nhân tố, bao gồm hai loại nhân tố sau đây:
-

Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh doanh, như: Số lượng lao động, số lượng
vật tư, tiền vốn...những nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô kinh doanh
của doanh nghiệp.

-

Những nhân tố thuộc về kết quả kinh doanh : Thường ảnh hưởng có tính dây
chuyền, từ khâu cung ứng đến sản suất, đến tiêu thụ và từ đó ảnh hưởng đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp.
Theo tính tất yếu của nhân tố, bao gồm các loại:

-

Nhân tố chủ quan : Phát sinh và tác động đến kết quả kinh doanh là do chi phối
của bản thân doanh nghiệp. Chẳng hạn, như giảm chi phí sản suất, tăng thời gian
lao động, tiết kiệm các nguồn lực... là tuỳ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của
doanh nghiệp.

Vũ Mạnh Hòa

22

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội


Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

-

Nhân tố khách quan : Phát sinh và tác động đến kết quả kinh doanh như là một
yêu cầu tất yếu, ngoài sự chi phối của bản thân doanh nghiệp, chẳng hạn như:
giá cả thị trường, thuế suất...
Việc phân tích kết quả kinh doanh theo sự tác động của các nhân tố chủ quan và

khách quan, giúp cho doanh nghiệp đánh giá đúng đắn những nỗ lực của bản thân
doanh nghiệp và tìm hướng tăng nhanh hiệu quả kinh doanh.
Theo tính chất của nhân tố, bao gồm hai loại
- Nhân tố số lượng : Phản ánh quy mô sản suất và kết quả kinh doanh, như : số
lượng lao động, tổng sản lượng, doanh thu bán hàng...
- Nhân tố chất lượng : Phản ánh hiệu suất kinh doanh, như : giá thành đơn vị sản
phẩm, mức doanh lợi, hiệu quả sử dụng vốn...
Phân tích kinh doanh theo hướng tác động của các nhân tố số lượng và chất
lượng vừa giúp ích cho việc đánh giá phương hướng kinh doanh, chất lượng kinh
doanh, vừa có tác dụng trong việc xác định trình tự sắp xếp và thay thế các nhân tố
khi tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh.
Theo xu hướng tác động của nhân tố, bao gồm hai loại nhân tố:
-

Nhân tố tích cực : Tác động làm tăng quy mô của kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp.

-

Nhân tố tiêu cực : Tác động làm ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.

Phân tích kinh doanh theo hướng tác động của các nhân tố tích cực và tiêu cực

giúp cho các doanh nghiệp chủ động tìm mọi biện pháp để phát huy những nhân tố
tích cực, tăng nhanh kết quả kinh doanh. Đồng thời cũng hạn chế đến mức tối đa
những nhân tố tiêu cực, có tác dụng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.3 Nội dung phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.3.1 Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh
trình độ sử dụng nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp. Đây là một vấn đề hết

Vũ Mạnh Hòa

23

HP, tháng 9 năm 2004


Đại học Bách khoa Hà Nội

Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh

sức phức tạp, có liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều mặt của quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, được
xác định bằng công thức:
HiÖu qu¶ kinh doanh =

KÕt qu¶ § Çu ra
Chi phÝ § Çu vµo


Chỉ tiêu này phản ánh, cứ một đồng chi phí đầu vào trong kỳ phân tích thì thu
được bao nhiêu đồng kết quả đầu ra, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp càng lớn.
Kết quả đầu ra, có thể được tính bằng chỉ tiêu: Tổng sản lượng; doanh thu; lợi
nhuận...
Chi phí đầu vào, có thể được tính bằng các chỉ tiêu: Lao động; tài sản; nguồn
vốn; giá thành sản xuất, giá vốn hàng bán, giá thành toàn bộ...
l.3.3.2. Tính toán các chỉ tiêu hiệu quả.
Đối tượng nghiên cứu của phân tích kinh tế là kết quả kinh doanh, biểu hiện
bằng các chỉ tiêu kinh tế, dưới sự tác động của các chỉ tiêu kinh tế mới là quá trình
“định tính”. Do vậy, để phân tích cần lượng hoá tất cả các chỉ tiêu phân tích và
những nhân tố ảnh hưởng ở những chỉ số xác định và với mức độ biến động xác
định.
Các chỉ tiêu cần tính toán lượng hoá cụ thể như:
*. Các chỉ tiêu về suất sinh lợi.
(l) Chỉ tiêu lợi nhuận theo doanh thu: Phản ánh mức lợi nhuận thu được từ một đơn
vị doanh thu kinh doanh
LN DT =

Trong đó:

LN
DT

LNDT là doanh lợi theo doanh thu.
LN là lợi nhuận.
DT là doanh thu.

Vũ Mạnh Hòa


24

HP, tháng 9 năm 2004


×