Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.7 KB, 100 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Nội dung đầy đủ
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Quản lý rủi ro
Rủi ro tín dụng
Tài sản bảo đảm
Tiền đô la Mĩ
Việt Nam đồng
Nợ quá hạn
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Dầu Khí Toàn Cầu
Tổ chức tín dụng

Viết tắt
NHTM
NHNN


QLRR
RRTD
TSBĐ
USD
VNĐ
NQH
GP.Bank
TCTD


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
SƠ ĐỒ


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản và tạo ra lợi nhuận
chủ yếu cho các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Nhưng mặt khác, rủi ro
tín dụng (RRTD) luôn đem lại hậu quả khó lường cho nền kinh tế cũng như chính
bản thân ngân hàng thương mại (NHTM). RRTD ở mức độ cao phản ánh năng lực
hoạt động kinh doanh của NHTM yếu kém, làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị
trường tiền tệ trong nước và quốc tế, hạn chế năng lực cạnh tranh. RRTD xảy ra làm
cho NHTM không thu hồi được vốn gốc và lãi vay theo kế hoạch đã đặt ra, là
nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản. RRTD làm chậm tốc độ quay vòng vốn,
mất đi cơ hội kinh doanh, chi phí tăng cao ngoài dự kiến, thậm chí thua lỗ; ngân
hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí phải xóa nợ vay, làm giảm thu
nhập của ngân hàng. RRTD gây thất thoát vốn, có thể đẩy các NHTM vào tình trạng
mất khả năng thanh toán, dẫn tới phá sản. Việc phá sản một ngân hàng có thể dẫn

đến phản ứng dây chuyền, gây nên phá sản các ngân hàng khác và có thể dẫn đến
làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế.
Hoạt động của Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu cũng không nằm ngoài
những tác động và ảnh hưởng của qui luật chung đó.
Luận văn “Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Dầu
Khí Toàn Cầu” sẽ đưa ra một số rủi ro trong hoạt động tín dụng mà Ngân hàng gặp
phải và cách thức mà các nhà quản trị ngân hàng thực hiện để hạn chế rủi ro đó.
Dựa trên thực trạng này tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác quản trị rủi ro tín dụng.

2. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong quản trị rủi ro tín
dụng của Ngân hàng thương mại.
Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh và hoạt động quản trị rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu, từ đó đưa ra những mặt tích cực
cũng như những mặt hạn chế của công tác quản trị này.


2
Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường quản trị rủi ro tín dụng có thể áp dụng
trong thực tiễn để tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Dầu Khí
Toàn Cầu.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Dầu Khí
Toàn Cầu từ năm 2007 đến năm 2010.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, sử dụng phương pháp nghiên cứu

thống kê, so sánh, phân tích… đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và
làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn.

5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Lý luận chung về quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Dầu Khí
Toàn Cầu.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu.


3

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn có thể xảy ra
trong các hoạt động tín dụng khác như hoạt động bảo lãnh, tài trợ thương mại, cho
thuê tài chính. Rủi ro tín dụng cũng được nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra nhiều
quan niệm khác nhau:
Theo A.Saunders và H.Lange định nghĩa “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm
tàng khi Ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng
thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của Ngân hàng không thể thực hiện
đầy đủ về cả số lượng và thời hạn”.
Theo Henie Van Greunin Sonja Brajovic Bratanovic: “Rủi ro tín dụng được
định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả vốn

gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng, đây là thuộc tính vốn có
của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ
hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển
tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng”.
Theo Timothy W Koch cho rằng: “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của
thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán
hay thanh toán trễ hạn”
Theo Ủy ban Basel, “Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay vốn
hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều
khoản đã cam kết”.
Theo qui định tại Điều 2 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNNVN ngày
22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì “Rủi ro tín dụng trong


4
hoạt động Ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động tín dụng của các
Ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của mình theo đúng cam kết”.

1.1.2. Biểu hiện rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng của các khoản cho vay thông thường biểu hiện ở việc người
vay đã không thực hiện thanh toán đúng như kế hoạch (một hoặc nhiều lần) hay giá
trị tài sản thế chấp của người vay đã sụt giảm đáng kể. Mỗi khoản cho vay có vấn
đề đều mang những nét đặc thù nhưng dù sao chúng đều có những nét chung góp
phần cảnh báo cho ngân hàng về những vấn đề rắc rối đã bắt đầu nảy sinh như:
Sự trì hoãn bất thường và không có lý do trong việc cung cấp các báo cáo tài
chính và trả nợ theo lịch đã thoả thuận, hoặc chậm chễ trong việc liên lạc với cán bộ
tín dụng.
Đối với tín dụng doanh nghiệp, là bất cứ sự thay đổi bất thường nào trong
phương thức hạch toán kế toán, kế hoạch trả lương và phụ cấp, giá trị hàng tồn kho,

tài khoản thuế và thu nhập.
Việc cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh toán cổ tức, hoặc có sự thay đổi vị trí
xếp hạng tín nhiệm.
Giá cổ phiếu của doanh nghiệp thay đổi bất lợi.
Thu nhập ròng giảm trong một hoặc nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu như:
lãi trên tài sản (ROA); lãi trên vốn cổ phần (ROE); hay thu nhập trước trả lãi và
thuế (EBIT).
Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu nguồn vốn (tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở
hữu), khả năng thanh toán (chỉ tiêu thanh khoản hiện hành) hay mức độ hoạt động
(chỉ tiêu doanh thu/hàng tồn kho).
Độ chênh lệch của doanh thu hay dòng tiền thực tế so với kế hoạch khi mà
tín dụng đã được cấp.
Thay đổi bất ngờ, không dự kiến và không lý do đối với số dư tiền gửi của
khách hàng tại Ngân hàng.


5
1.1.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Nguyên nhân xuất phát từ khách hàng
Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng cho ngân
hàng. Khách hàng có thể đem lại rủi ro cho các NHTM khi:
Vốn tự có tham gia vào sản xuất kinh doanh thấp so với nhu cầu vốn kinh
doanh, buộc khách hàng phải đi huy động vốn. Nếu NHTM cho những khách hàng như
vậy vay thì nguy cơ tiềm ẩn rủi ro đối với Ngân hàng sẽ tăng cao do đó họ có xu hướng
lao vào các hoạt động kinh doanh mạo hiểm, hy vọng tìm kiếm lợi nhuận cao, bởi hầu
hết vốn kinh doanh không phải là của họ. Điều này đồng nghĩa với việc hầu hết mọi
gánh nặng rủi ro dồn vào vai các NHTM (là chủ sở hữu nguồn vốn cho vay).
Công nghệ sản xuất không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh
cao, khiến hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp nhiều khó khăn, không thu
được tiền bán sản phẩm như dự định - là nguồn trả nợ Ngân hàng - sẽ khiến các

NHTM đối mặt với rủi ro cho vay.
Năng lực quản trị điều hành của bộ máy lãnh đạo các doanh nghiệp bị hạn chế,
thiếu thông tin thị trường và các đối tác, bạn hàng, làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản
xuất kinh doanh. Các NHTM đối mặt với nguy cơ rủi ro cao khi cho vay khách
hàng này.
Thiện chí trả nợ Ngân hàng của khách hàng. Đây chính là rủi ro xuất phát từ
đạo đức của người đi vay.
Các nguyên nhân này có thể xác định được thông qua thẩm định, tìm hiểu tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng cả trước, trong và sau khi cho vay,
tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Nguyên nhân từ bản thân các ngân hàng
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ chính bản thân các NHTM, do các nguyên
nhân: (i) không chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tín dụng; (ii) chính sách tín dụng
và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, công tác quản trị rủi ro chưa hữu hiệu, chưa chú
trọng phân tích khách hàng, xếp loại RRTD để tính toán điều kiện cho vay và khả
năng trả nợ; (iii) kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng, việc xác định


6
hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ
yếu là cấp tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng chưa phong phú; (iv) trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn bất cập so với yêu cầu công việc,
thiếu kỹ năng nắm bắt, phân tích thông tin thị trường, thiếu khả năng dự báo chiều
hướng biến động của thị trường, nhất là thị trường kinh doanh của các khách hàng
chiến lược. Tư cách đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ tín dụng còn
nhiều yếu kém, thiếu sự quan tâm kiểm tra giám sát của các cấp lãnh đạo.
Nguyên nhân từ phía môi trường kinh doanh
Môi trường kinh tế xã hội: là tổng hòa các mối quan hệ về nền kinh tế và xã
hội tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế. Xét
một cách tổng thể, môi trường kinh tế xã hội ảnh hưởng đến khách hàng và cũng dẫn

đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Môi trường kinh tế tác động mạnh đến hoạt động
kinh doanh của các NHTM. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định, các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ cho NHTM. Ngược lại, khi nền
kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn trong hoạt động, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hóa bị ứ đọng, tất
yếu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ Ngân hàng của các doanh nghiệp.
Các chính sách kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của
các NHTM. Nếu Chính phủ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao tiềm ẩn
nguy cơ lạm phát; khi lạm phát tăng cao sẽ làm tăng chi phí đầu vào của các khách
hàng, gây khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Hậu quả là năng lực trả nợ của
các khách hàng đối với Ngân hàng sẽ bị suy giảm. Hoặc Chính phủ thay đổi các
chính sách tài chính, tiền tệ... sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của
các NHTM.
Nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, địch họa, thay đổi nhu cầu của người
tiêu dùng hoặc về kỹ thuật công nghệ của một ngành nào đó) có thể làm phá sản cả
một hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có hiệu quả vào thế thua lỗ,
mất khả năng trả nợ. Điều này đặt các NHTM phải đối mặt với rủi ro mất vốn.


7
Nguyên nhân thông tin không cân xứng. NHTM thực hiện cho vay dự trên
thông tin và hiểu biết khách hàng. Song thực tế là Ngân hàng thường không biết hết
những gì cần biết về phía khách hàng và “thông tin không cần xứng” trong giao
dịch sẽ đưa đến “sự lựa chọn đối nghịch” và “rủi ro đạo đức”. Thông tin không cân
xứng trên thị trường tài chính khiến các NHTM phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao.
Sự thiếu thông tin về khách hàng vay và thông tin về môi trường kinh tế mà khách
hàng đó hoạt động là nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến RRTD.
Môi trường pháp lý: bao gồm hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp và những biện pháp để thực thi pháp luật. Trong nền kinh
tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động kinh doanh

của mình nhưng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật đã được quy định. Hoạt động
ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng không nằm ngoài vòng kiểm
soát đó cũng như phải tuân theo những quy định có liên quan của Chính phủ. Trong
quá trình xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay (xử lý rủi ro tín dụng) nếu môi
trường pháp lý không thuận lợi sẽ làm cho các NHTM tốn kém rất nhiều thời gian,
nhân lực và tiền bạc dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn
đọng, tài sản tồn đọng.

1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
Các chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn
Chỉ tiêu “Tỷ lệ nợ quá hạn”:
Tỷ lệ NQH =

Số dư NQH

x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ “Nợ quá hạn” phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi
được. Nợ quá hạn cho biết, cứ trên 100 đồng dư nợ hiện hành có bao nhiêu đồng đã
quá hạn, đây là một chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp; ngược lại, tỷ lệ nợ
quá hạn thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao.


8
Chỉ tiêu “Tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn”:
Tổng dư nợ có NQH
x 100%
Tổng dư nợ
Do chỉ tiêu “Tổng dư nợ có nợ quá hạn” bao gồm toàn bộ dư nợ của một

Tỷ lệ tổng dư nợ có NQH =

khách hàng (kể cả đến hạn và chưa đến hạn) kể từ khi xuất hiện món nợ quá hạn
đầu tiên, nên nó phản ánh chính xác hơn mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Chỉ tiêu “Khách hàng có nợ quá hạn”:

Tổng số khách hàng quá hạn
x 100%
Tổng số khách hàng có dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết, cứ 100 khách hàng vay vốn, thì có bao nhiêu khách

Tỷ lệ khách hàng có NQH =

hàng đã quá hạn. Nếu tỷ lệ này cao, phản ánh chính sách tín dụng của ngân hàng là
không hiệu quả. Ngoài ra, nếu chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu “Nợ quá hạn”, cho biết
nợ quá hạn tập trung vào những khách hàng lớn; ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao hơn
chỉ tiêu “Nợ quá hạn”, thì nợ quá hạn tập trung vào những khách hàng nhỏ.
Chỉ tiêu “Cơ cấu nợ quá hạn”
Tỷ lệ nợ ngắn hạn quá hạn =

Tỷ lệ nợ trung, dài hạn quá hạn =

NQH ngắn hạn
Nợ ngắn hạn

x 100%

NQH trung, dài hạn
Nợ trung, dài hạn


x 100%

Chỉ tiêu “Khả năng thu hồi nợ quá hạn”: Để đánh giá chính xác hơn chất
lượng tín dụng, người ta còn phân loại nợ quá hạn theo hai tiêu chí:
NQH có khả năng thu hồi =

NQH có khả năng thu hồi
NQH

x 100%

NQH không có khả năng thu hồi
x 100%
NQH
Chỉ tiêu “Nợ quá hạn theo thời gian” gồm: Nợ quán hạn dưới 180 ngày, nợ

NQH không có khả năng thu hồi =

quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày, nợ quá hạn trên 360 ngày.


9
Chỉ tiêu “Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế” gồm: Nợ quá hạn của doanh
nghiệp nhà nước; Nợ quá hạn của công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn; Nợ quá
hạn của các hộ gia đình, các nhân.
Chỉ tiêu phản ánh nợ xấu
Chỉ tiêu “Tỷ lệ nợ xấu”
Dư nợ xấu
Tổng dư nợ


Tỷ lệ nợ xấu =

x 100%

Nợ xấu bao gồm các nhóm nợ sau:
- Nợ dưới tiêu chuẩn: nợ quá hạn 91 đến 180 ngày; nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần đầu trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ đã phân loại vào nhóm 1 và
nhóm 2. Các khoản nợ do ngân hàng trả thay đối với các khoản bảo lãnh, các khoản
thanh toán đối với chấp nhận thanh toán quá hạn dưới 30 ngày.
- Nợ nghi ngờ: nợ quá hạn 181 đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần
thứ hai; các khoản nợ do ngân hàng trả thay đối với các khoản bảo lãnh, các khoản
thanh toán đối với chấp nhận thanh toán quá hạn từ 30 đến 90 ngày.
- Nợ có khả năng mất vốn: nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên; các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ quá hạn; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba; các
khoản nợ do ngân hàng trả thay đối với các khoản bảo lãnh, các khoản thanh toán
đối với chấp nhận thanh toán quá hạn từ 91 ngày trở lên; các khoản nợ khoanh, nợ
chờ xử lý.
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro tín dụng =

Dự phòng rủi ro tín dụng

x 100%

Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập hàng năm từ thu nhập
hiện tại của ngân hàng để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng



10
không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Việc trích lập dự phòng rủi ro này dựa trên
kết quả toàn bộ danh mục tín dụng của ngân hàng thành các nhóm nợ khác nhau.
Do đó chỉ tiêu này cao cũng thể hiện danh mục tín dụng của ngân hàng có nhiều
khoản vay cần chú ý.
Tỷ lệ nợ xử lý rủi ro
Nợ xử lý rủi ro

Tỷ lệ nợ xử lý rủi ro =

x 100%
Tổng dư nợ
Ngân hàng sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng đối với các khoản
nợ của các tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản, cá nhân bị chết hoặc mất tích,
các khoản nợ thuộc nhóm 5, nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Xử lý rủi ro không
phải là xóa nợ cho khách hàng nên sau khi xử lý rủi ro phải chuyển các khoản nợ từ
hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp
thu hồi nợ triệt để. Sau 05 năm, ngân hàng mới được xuất toán ra khỏi ngoại bảng.
Tổn thất cho vay
Tổn thất tín dụng cho vay = giá trị bị mất trong hoạt động cho vay.
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị bằng tiền bị tổn thất trong kỳ do hoạt động tín dụng
(rủi ro tín dụng) gây nên. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô, giá trị tuyệt đối của tổn thất.
Tỷ lệ tổn thất cho vay:
Tỷ lệ tổn thất cho vay =

Tổng giá trị tổn thất trong kỳ

x 100%
Doanh số cho vay trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh: với mỗi một đồng cho vay trong kỳ thì giá trị bị tổn
thất là bao nhiêu, nó mang tính thời kỳ nên rất thuận tiện khi sử dụng để so sánh,
phản ánh giữa các kỳ.

1.2. Quản trị rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị là những hành động được tiến hành bởi các nhà quản trị. Những hành
động này được xuất phát từ nhu cầu, mục tiêu chung và hướng vào việc điều hòa các
nguồn lực con người và vật chất sao cho sự hao tổn để đạt các mục đích, mục tiêu
nhất định là thấp nhất có thể.


11
Theo Decottignise (1981) “Quản trị rủi ro, đó là dự phòng - với chi phí
thấp nhất - các nguồn lực tài chính, cần và đủ tùy theo từng tình huống cụ thể. Đó
chính là kiểm soát và loại trừ nếu có thể bằng cách giảm thiểu hay chuyển giao
chúng, tối ưu hóa cách thức sử dụng các nguồn lực tài chính doanh nghiệp”.
Từ những quan điểm và nội dung như đã đề cập ở trên có thể hiểu: Quản trị
rủi ro tín dụng là một quá trình từ việc hoạch định chiến lược đến việc tổ chức thực
hiện, điều khiển và kiểm soát việc thực hiện chiến lược, phòng ngừa, hạn chế và xử
lý rủi ro trong hoạt động tín dụng mà NHTM đã đề ra.
Hoạt động tín dụng là lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng có
rủi ro lớn nhất trong hoạt động Ngân hàng. Hậu quả của rủi ro tín dụng thường có
ảnh hưởng rất lớn, làm thua lỗ, mất vốn, tình hình tài chính xấu đi, làm tổn hại hình
ảnh, uy tín của Ngân hàng, nếu nghiêm trọng có thể dẫn đến phá sản.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng là điều không tránh khỏi, nó tồn
tại khách quan gắn liền với hoạt động cấp tín dụng.
Để hạn chế những rủi ro phải làm tốt từ khâu phòng ngừa cho đến khâu giải
quyết hậu quả do rủi ro gây ra, cụ thể như:
Dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn: phát hiện những biến cố không có lợi,

ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và đang xảy ra và có thể lan ra phạm
vi rộng. Giải quyết hậu quả rủi ro để hạn chế các thiệt hại đối với tài sản và thu
nhập của Ngân hàng. Đây là quá trình logic chặt chẽ cần có quản trị để đảm bảo
tính thống nhất.
Phòng chống rủi ro được thực hiện bởi các nhân viên, cán bộ lãnh đạo Ngân
hàng. Trong Ngân hàng, nhân viên có thể có suy nghĩ và hành động khác, có thể trái
ngược hoặc cản trở nhau. Vì thế cần có quản trị để mọi người hành động một cách
thống nhất.
Quản trị đề ra những mục tiêu cụ thể giúp Ngân hàng đi đúng hướng. Phải có
kế hoạch hành động cụ thể và hiệu quả phù hợp với mục tiêu đề ra.

1.2.2. Cơ sở lý luận của Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro tín dụng
Để chuẩn hóa hoạt động của hệ thống các ngân hàng trên thị trường tài chính


12
quốc tế, thông thường các ngân hàng châu Âu thực hiện 2 công cụ: Đạo Luật châu
Âu đơn lẻ và Hiệp ước Basel. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, những vụ khủng
hoảng xảy ra trên thị trường tài chính thế giới, đặc biệt là những rủi ro phát sinh
trong lĩnh vực Ngân hàng đã khiến Chính phủ các quốc gia trên thế giới đã đặt lại
vấn đề: cải tiến Basel (1988) thành một Hiệp ước Basel mới với mục tiêu tăng
cường các giải pháp kiểm soát rủi ro của hệ thống ngân hàng.
Hiệp ước Basel mới là những tài liệu hướng dẫn mô tả các đề xuất những
quy định nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng, liên quan đến phạm vi yêu cầu
vốn đối với rủi ro hoạt động, đưa ra các biện pháp cải tiến khác nhau đối với hiệp
ước “hiện hữu” và chi tiết hóa “hoạt động thanh tra, giám sát” cũng như đề ra các
trụ cột về “tính kỷ luật của thị trường”. Ba trụ cột của Hiệp ước Basel mới gồm:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn
bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy
nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro

tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I,
cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị
trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận
hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0% -150% hoặc hơn) và
rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel
II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với
Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân
hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh
khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại
(residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các
ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo
danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn
đó. Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội


13
bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ
lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu
họ không hài lòng với kết quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị
các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám
sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không
giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu
mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách
thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu
buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn,
mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân
hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của

ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này
đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách
minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy
vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp
tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng, điều khoản và điều
kiện áp dụng...). Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách
hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng
khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội
bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngân hàng phải
có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các sửa đổi tín dụng với sự tham gia
của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và phải phân trách nhiệm rạch
ròi các bộ phận tham gia, đồng thời cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro
có kinh nghiệm, có kiến thức nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh
giá, phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên
cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên, đặc biệt cần có sự cẩn trọng và đánh giá
hợp lý đối với các khoản tín dụng cấp cho các khách hàng có quan hệ.


14
Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10
nguyên tắc): các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các
danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu thập thông
tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay...theo quy mô và
mức độ phức tạp của ngân hàng. Đồng thời hệ thống này phải có khả năng nắm bắt
và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân thủ các giao kèo của khách hàng...để phát
hiện kịp thời những khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục
sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các
chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý, trách nhiệm
đối với các khoản tín dụng này được giao cho bộ phận nào giải quyết? Ủy ban Basel

cũng khuyến khích các ngân hàng phát triển và xây dựng hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng, giúp phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng
trong các tài sản có tiềm năng rủi ro của ngân hàng. Như vậy trong xây dựng mô
hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc Basel có một số điểm cơ bản sau: Phân tách
bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ
phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia;
Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng; Xây dựng hệ thống quản lý
và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng
thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý rủi ro tín dụng.

1.2.3. Nội dung cơ bản của quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng là một hệ thống các phương pháp, các hình thức và các
công cụ được sử dụng để kiểm soát quá trình cho vay (cấp tín dụng) và thu hồi nợ
trong những điều kiện cụ thể của từng thời kỳ nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng.
Để hạn chế những rủi ro phải làm tốt từ khâu phòng ngừa cho đến khâu giải
quyết hậu quả do rủi ro gây ra, cụ thể như:
Ngăn chặn nợ xấu phát sinh bằng cách: Dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn:
phát hiện những biến cố không có lợi, ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và
đang xảy ra và có thể lan ra phạm vi rộng.
Xử lý nợ xấu: Khi có nợ xấu xảy ra thì việc giải quyết hậu quả nợ xấu để hạn
chế các thiệt hại đối với tài sản và thu nhập của ngân hàng. Đây là quá trình logic


15
chặt chẽ do đó, cần có quản trị để đảm bảo tính thống nhất.

1.2.3.1. Nhận dạng rủi ro tín dụng
Để quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả thì phải xác định rủi ro hiện tại và rủi ro
tiềm ẩn trong tương lai và nhận biết những rủi ro cho phép. Việc chấp nhận mức độ,
loại rủi ro nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực

trong quá trình quản trị rủi ro.
Có nhiều phương pháp nhận dạng rủi ro và các phương pháp nhận dạng rủi
ro cần phải được kết hợp với nhau: phân tích các báo cáo tài chính, hợp đồng kinh
doanh của doanh nghiệp, chỉ số thanh khoản, các chỉ số khả năng sinh lời, từ đó
đánh giá được khả năng thanh toán, sinh lời, cấu trúc nguồn vốn của khách hàng,
phân loại khách hàng nhằm ước đoán được các tổn thất có thể xảy ra.
Ngân hàng thực hiện các bước nhận dạng rủi ro: theo dõi, xem xét, nghiên
cứu môi trường hoạt động và quy trình cho vay để thống kê các dạng rủi ro tín
dụng, nguyên nhân từng thời kỳ và dự báo được những nguyên nhân tiềm ẩn có thể
gây ra rủi ro tín dụng.
Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt kê tất cả các dạng
rủi ro đa dạng và có thể xuất hiện bằng các phương pháp: lập bảng hỏi nghiên cứu,
tiến hành điều tra, phân tích các hồ sơ tín dụng, đặc biệt quan tâm điều tra các hồ sơ
đã có vấn đề. Kết quả phân tích cho ra những dấu hiệu, biểu hiện, nguyên nhân rủi
ro tín dụng, từ đó nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro.
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát hiện
nhanh chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm này luôn phải có việc kiểm
tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là những dấu hiệu thường
thấy nhất:
Khách hàng cố ý lảng tránh hoặc thoái thác trả lời cán bộ ngân hàng; Doanh
thu bán hàng giảm; Không đáp ứng được những đơn đặt hàng; Các khoản thu tiền
về chậm; Hàng tồn kho gần như không bán được; Nhờ cậy vào chỉ một khách
hàng hoặc một nhà cung cấp; Áp dụng chính sách chiết khấu bất bình thường; Lưu
chuyển tiền mặt ròng giảm; Lợi nhuận giảm; Giá trị của tài sản giảm;


16
Một số dấu hiệu có thể là không đáng kể nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra,
rất có thể khoản vay là có vấn đề. Một cách cụ thể, chúng ta có thể phân loại những
dấu hiệu như sau:

Từ Bảng tổng kết tài sản: Ngân hàng không nhận kịp thời được các báo cáo
tài chính; Chu kỳ các khoản phải thu ngắn đi; Tiền mặt của khách hàng giảm; Giá
trị tuyệt đối và tương đối của các khoản phải thu tăng đột biến; Hệ số tài sản ngắn
hạn tính trên tổng tài sản giảm; Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm; Những
thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định; Các khoản dự trữ tăng mạnh với lượng
lớn; Công ty tập trung đầu tư vào tài sản phi ngắn hạn, nhưng không phải là tài sản
cố định; Mức độ tập trung cao vào tài sản vô hình; Sự thiếu cân đối gia tăng của các
khoản nợ ngắn hạn; Những gia tăng đáng kể của các khoản nợ dài hạn; Những thay
đổi đáng kể trong cơ cấu bảng tổng kết tài sản; Thay đổi tài khoản ngân hàng; Thời
gian trung bình của các khoản phải thu tăng lên; Những thay đổi trong chính sách
mua bán chịu; Xuất hiện thêm các điều kiện gia hạn; Tập trung doanh số vào một
mặt hàng nhất định.
Từ Báo cáo lãi lỗ: Doanh số bán hàng giảm; Doanh số bán hàng gia tăng
một cách nhanh chóng; Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu
ròng; Tỷ lệ chi phí trên tổng doanh thu tăng lên/mức lãi giảm đi; Doanh thu bán
hàng tăng lên nhưng lợi nhuận giảm đi; Các khoản lỗ từ nợ quá hạn tăng lên; Sự
gia tăng không cân xứng của chi phí quản lý so với mức tăng của doanh thu bán
hàng; Tổng tài sản Có gia tăng so với mức độ tăng của tỷ suất Doanh thu bán
hàng/Lợi nhuận; Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh;
Từ hoạt động kinh doanh: Thay đổi về phạm vi kinh doanh; Số liệu tài chính
nghèo nàn và quản lý hoạt động kém hiệu quả; Bố trí nhà máy và thiết bị không hợp
lý; Sử dụng kém cỏi nguồn nhân lực; Mất mát những dây chuyền sản xuất chính,
quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp; Mất một hay nhiều khách hàng có
năng lực tài chính tốt hoặc mất nhà cung ứng chính; Xuất hiện những vụ mua hàng
tồn kho mang tính đầu cơ nằm ngoài nguyên tắc mua hàng thông thường của công
ty; Kém cỏi trong việc duy trì vận hành và bảo hành máy móc thiết bị; Việc thay thế


17
những thiết bị máy móc lỗi thời diễn ra chậm chạp; Những dấu hiệu về hàng tồn

kho kém chất lượng, lưu hàng tồn kho với số lượng lớn hoặc cơ cấu hàng tồn kho
lưu kho không phù hợp;
Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng: Số dư tài khoản tại ngân
hàng giảm; Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc
các nhu cầu về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi; Đặt niềm tin/nhờ cậy
nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn; Những thay đổi đáng kể ở góc độ thời hạn cho
các đề nghị vay vốn; Xuất hiện ở các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ nhưng lại
khó có thể nhận thấy dễ dàng chúng; Xuất hiện những chủ nợ khác, đặc biệt những
chủ nợ nhận tài sản bảo đảm.
Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty: Thay đổi trong thái độ/ thói
quen cá nhân của những người chủ chốt của công ty; Thay đổi trong thái độ đối với
ngân hàng/cán bộ ngân hàng, đặc biệt là khi họ tạo cảm giác thiếu tính hợp tác;
Không có khả năng thực hiện kế hoạch; Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi; Các
chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện sự chắp vá; Mạo hiểm
khi mua bán, khi thực hiện công việc kinh doanh mới, tại khu vực kinh doanh mới
hoặc với dây chuyền sản xuất mới; Mong muốn và khăng khăng đòi "đánh bạc" với
kinh doanh có những rủi ro quá mức; Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách
không thực tế; Những nhân vật chủ chốt của công ty ốm hoặc chết; Những thay đổi
trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt; Tính không liên tục của
các dây chuyền tiêu chuẩn sinh lời; Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi
xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế;

1.2.3.2. Đo lường rủi ro tín dụng
Các nhà kinh tế, các ngân hàng và các nhà phân tích đã sử dụng nhiều mô
hình khác nhau để đo lường rủi ro tín dụng, trong đó có mô hình điểm số Z, mô
hình điểm số tín dụng hay dựa vào hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn
thất tín dụng theo Basel II. Các mô hình lượng hoá rủi ro này có ưu điểm so với
phương pháp truyền thống ở chỗ là, nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng
lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan do đó góp phần tích cực trong



18
việc kiểm soát đo tín dụng ngân hàng
Mô hình định lượng:
Một số ngân hàng đã sử dụng phương pháp chấm điểm khách hàng để lượng
hóa mức độ rủi ro tín dụng người vay. Phương pháp này có ưu điểm là cho phép xử
lý nhanh chóng một khối lượng lớn các đơn xin vay với chi phí thấp và khách quan.
Phương pháp chấm điểm khách hàng sử dụng các số liệu phản ánh những đặc điểm
của người vay để lượng hóa xác suất không trả được nợ và phân loại người vay
thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Để sử dụng phương pháp này, phải xác
định được các tiêu chí về kinh tế và tài chính có liên quan đến rủi ro đối với từng
nhóm khách hành cụ thể.
Hệ thống xếp hạng nội bộ
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng hiện đại trên thế giới đều có một hệ thống
xếp hạng nội bộ cho các khoản vay có các mức độ phức tạp khác nhau
Mô hình điểm số Z.
Mô hình điểm số "Z" do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với
các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro
tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj).
Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman đã đưa ra mô hình cho điểm như sau:

Z = 1,2 X 1 + 1,4 X 2 + 3,3 X 3 + 0,6 X 4 + 1,0 X 5
Trong đó:
X1: là tỷ số "vốn lưu động ròng/tổng tài sản".
X2: là tỷ số "lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản".
X3: Là tỷ số "Lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản".
X4: là tỷ số "thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn".

X5 : là tỷ số "doanh thu/tổng tài sản".
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị


19
số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ
vỡ nợ cao.
Các ngân hàng có thể sử dụng các mô hình trên hệ thống dữ liệu nội bộ để
xác định khả năng tổn thất tín dụng.
Basel II là Hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trị
toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn
chế rủi ro. Theo basel II, các ngân hàng có thể xác định được tổn thất có thể ước
tính với mỗi kì hạn xác định:
EL: Tổn thất có thể ước tính.
EL=PD x EAD x LGD
Trong đó:
PD - xác suất khách hàng không trả được nợ. Cơ sở của xác suất này là các
số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản đã trả, các
khoản trong hạn và khoản nợ không thu hồi được.
LGD- Tỷ trọng tổn thất ước tính;
EAD- Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ.
EAD = Dư nợ ước tính+LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân.
Trong đó:
LEQ: là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng sẽ được khách
hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ
LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân: chính là phần dư nợ
khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân
Cơ sở xác định LEQ là các số liệu quá khứ do đó không thể tính chính xác
được LEQ của một khách hàng tốt
LGD: Tỷ trọng tổn thất ước tính - đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên

tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD bao gồm cả các tổn
thất khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng
không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý
tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một sổ chi phí liên quan.
LGD = (EAD-Số tiền có thể thu hồi)/EAD
Số tiền thu hồi là các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu
được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có thể coi là 100% tỷ lệ vốn thu
hồi được.
Có 3 phương pháp chính để tính LGD:
Một là: Market LGD: Ngân hàng có thể xác định tỷ trọng tổn thất của một


20
khoản vay căn cứ vào giá của khoản vay đó sau một thời gian ngắn sau khi nó bị
xếp vào hạng không trả được nợ.
Hai là: Workout LDG - Ngân hàng sẽ ước tính các luồng tiền trong tương lai,
khoảng thời gian dự kiến thu hồi được luồng tiền và chiết khấu các luồng tiền này.
Ba là: Implied Market LGD - xác định tỷ trọng tổn thất căn cứ vào giá các
trái phiếu rủi ro trên thị trường.
Như vậy ngân hàng sẽ xác định được EL, nếu xác định được chính xác EL
thì sẽ mang lại cho ngân hàng rất nhiều ứng dụng không chỉ đơn thuần giúp ngân
hàng xác định chính xác hơn hệ số an toàn vốn tối thiểu trong mối quan hệ giữa vốn
tự có với rủi ro tín dụng.
Việc xác định được tổn thất ước tính của một khoản cho vay, ngân hàng sẽ
thực hiện được cùng lúc các mục tiêu tăng cường quản trị nhân sự chính là đội ngũ
cán bộ tín dụng, xây dựng hiệu quả hơn quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, xác định
được xác suất khả năng vỡ nợ của khách hàng sẽ giúp ngân hàng tái xếp khách hàng
sau khi cho vay.
Mô hình chấm điểm tín dụng:
Mô hình chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng là một mô hình ưu việt

dựa trên toàn bộ thông tin được quản lý tập trung trong hệ thống và những thông tin
khác được cập nhật từ bên ngoài.
Nhiều ngân hàng sử dụng mô hình cho điểm để xử lý các đơn xin vay của
người vay. Mô hình cho điểm tín dụng thường sử dụng 7 đến 12 hạng mục, mỗi
hạng mục được cho điểm 1 đến 10. Với mô hình cho điểm tín dụng đã loại bỏ được
tính chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng
của ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những nhược điểm như: không thể
tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng kịp thời với những thay đổi trong
nền kinh tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình, có thể sẽ bỏ sót những
khách hàng tiềm năng, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân hàng...

1.2.3.3. Kiểm soát rủi ro tín dụng
Kiểm soát rủi ro là những hoạt động tập trung vào việc ngăn chặn hay làm
giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi có thể xảy ra. Nhằm
kiểm soát rủi ro tín dụng, nhà quản trị ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp:


21
Đa dạng hóa danh mục đầu tư: Đa dạng hóa danh mục đầu tư là việc bỏ
vốn đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, các ngành nghề khác nhau, các khách hàng
khác nhau...có độ rủi ro khác nhau dựa trên những tỷ lệ đầu tư không giống nhau
trên thị trường, xây dựng một cơ cấu tài sản hợp lý để có thể phân tán rủi ro hay hạn
chế tối đa rủi ro đầu tư. Đa dạng hoá danh mục đầu tư trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng tuy không hoàn toàn xoá bỏ hết rủi ro, nhưng nó có thể làm giảm bớt mức
rủi ro theo một nguyên tắc đầu tư "không nên để tất cả trứng vào cùng một rổ".
Có nhiều lý do để giải thích tại sao cần phải đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Một cách đơn giản, việc mở rộng phạm vi đầu tư vào nhiều khách hàng, nhiều lĩnh
vực không có nhiều sự liên kết với nhau, các Ngân hàng có thể kiềm chế bớt sự biến
động giá cả với danh mục của mình do thực tế, rất hiếm khi xảy ra trường hợp: tất cả
các ngành đi lên hay đi xuống với cùng một tốc độ và trong cùng một thời kỳ. Do đó,

đa dạng hóa sẽ đảm bảo sự hoạt động ổn định hơn, ít rủi ro hơn cho các Ngân hàng.
Một danh mục đầu tư tốt nhất là danh mục tối ưu về mặt số lượng và chủng
loại, tức là danh mục có kỳ vọng lợi nhuận cao nhất. Các ngân hàng cần nghiên cứu
các hình thức cấp tín dụng khác nhau, các khách hàng khác nhau, các lĩnh vực và
các ngành nghề khác nhau của khách hàng... so sánh kỳ vọng lợi nhuận và chọn lựa
các ngành ngề, các khách hàng và các hình thức cấp tín dụng có kỳ vọng lợi nhuận
cao nhất. Điều này phụ thuộc vào nhận định riêng của các Ngân hàng, đòi hỏi các
Ngân hàng phải luôn động não, khả năng tư duy, ý chí và bản lĩnh khi phân tích và
đưa ra quyết định.
Để kiểm soát được rủi ro thì phải phân tán rủi ro, không nên tập trung vốn
quá nhiều vào một loại hình kinh doanh, một vùng kinh tế. Đó là khuyến cáo và
cũng là bài học hết sức có ý nghĩa mà các nhà kinh doanh trước kia rút ra khi họ
gánh chịu những thiệt hại, đổ vỡ do không tuân thủ nguyên tắc này. Không nên dồn
vốn đầu tư vào một hoặc một số khách hàng. Nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng
đa dạng hóa là một trong những giải pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu nhất trong
quản lý rủi ro tín dụng. Hoạt động tín dụng của NHTM rất đa dạng và mỗi sản
phẩm tín dụng lại có mức độ rủi ro khác nhau nên cần đa dạng hóa các sản phẩm tín


22
dụng, đa dạng hóa các phương thức cho vay.
Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân đối thời
hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn tín dụng.
Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính,
chiết khấu, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động
kinh doanh.
Huy động các nguốn vốn để đầu tư dự án hiện đại hóa công nghệ và thiết bị
phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đồng thời khẩn trương đưa công nghệ, thiết bị
mới vào khai thác để phát triển đa dạng các dịch vụ tín dụng, thanh toán và tiện ích
ngân hàng, làm tăng hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh.

Sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh
Các công cụ tín dụng phái sinh (credit derivatives): Đây là các hợp đồng tài
chính bảo vệ các Ngân hàng trong trường hợp các khoản nợ không thể được thanh
toán, có thể được sử dụng hiệu quả trong việc giảm rủi ro phát sinh nợ xấu cũng
như giảm rủi ro lãi suất của ngân hàng. Sử dụng công cụ tín dụng phái sinh như:
Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap – CDS), Hợp đồng quyền
tín dụng (Credit options), Hợp đồng trao đổi tín dụng...
Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap – CDS): bản chất là
một loại hợp đồng phái sinh tín dụng, cho phép bên mua bảo hiểm được thanh toán
phần thiệt hại trong trường hợp xảy ra sự kiện tín dụng (credit event) đối với tài sản
tham chiếu mà 2 bên thỏa thuận trong hợp đồng.

Định kỳ, bên mua sẽ thanh toán một khoản phí cho bên bán (gọi là CDS
spread hay Premium).
Đến kỳ đáo hạn:


×