Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đề tài nghiên cứu các thông số lưu huyết não và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.3 KB, 7 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là một trong những bệnh rối loạn chuyển hóa rất thường gặp.
Bệnh không chỉ phổ biến ở các nước phát triển mà ngay ở các nước đang phát triển và
các nước nghèo cũng có tỷ lệ mắc bệnh đáng kể
Theo ước tính của Viện Đái Tháo Đường quốc tế, năm 1997 trên thế giới có
khoảng 124 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, trong đó 120 triệu người mắc đái
tháo đường type 2. Ước tính đến năm 2010, bệnh đái tháo đường sẽ tăng gấp 2-3 lần ở
các nước châu Á, châu Phi.Trong những năm gần đây, theo thống kê của một số bệnh
viện lớn trong toàn quốc thấy rằng số bệnh nhân đái tháo đường type 2 nhập viện
ngày càng tăng
Bệnh tim mạch bao gồm bệnh động mạch vành và bệnh mạch máu não là nguyên
nhân thường gặp nhất ở bệnh nhân đái tháo đường type 1 và type 2-chiếm hơn 65%
nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân đái tháo đường (50% do bệnh động mạch vành,15%
do bệnh động mạch não). Đối với não,bệnh nhân đái tháo đường thường có vữa xơ
động mạch não đưa đến những biến chứng như xuất huyết não, tắc mạch não.
Trên thực tế, một tỷ lệ không nhỏ bệnh lý mạch máu lớn im lặng ở bệnh nhân
đái tháo đường với hình thành những tổn thương nội mạc động mạch không triệu
chứng trên lâm sàng, đặc biệt tỷ lệ này rất cao ở bệnh nhân đái tháo đường type
2.Chính vì thế khi bệnh nhân nhập viện vì biến chứng mạch máu não cũng chính là lúc
phát hiện bệnh đái tháo đường
Hiện nay, việc đánh giá mức độ tổn thương mạch máu não trên bệnh nhân đái
tháo đường chủ yếu thông qua siêu âm Doppler mạch. Siêu âm Doppler mạch đã trở
thành phương pháp không xâm nhập cho phép chẩn đoán chính xác, không những thăm
dò về hình thái mà còn cả huyết động.Tuy nhiên siêu âm Doppler mạch đòi hỏi kinh
nghiệm của người làm siêu âm, chi phí tương đối cao, và chỉ sẵn có ở một số trung
tâm chuyên khoa. Ngoài ra quá trình thực hiện tương đối tốn thời gian và không thích
hợp cho các chương trình sàng lọc. Phương pháp đo Lưu huyết não đáp ứng những yêu
cầu này bởi cấu trúc đơn giản, phân tích kết quả chủ yếu dựa vào phần mềm và dễ
sử dụng (Angiologic Diagnostic System P.5)
Khảo sát các chỉ số lưu huyết não để phát hiện sớm và đánh giá mức độ tổn
thương xơ vữa động mạch não thông qua đánh giá lưu lượng tuần hoàn lên não ở nước


ta vẫn còn ít được quan tâm, đặc biệt tại Miền trung nói chung và Thừa Thiên Huế nói
riêng
Nhằm khảo sát và tìm hiểu Lưu huyết não đồ ở bệnh nhân đái tháo đường, chúng
tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu các thông số lưu huyết não và một số yếu tố liên
quan trên bệnh nhân đái tháo đường” với các mục tiêu:
1.Xác định các thông số lưu huyết não ở bệnh nhân đái tháo đường(type 2)
2.Tìm hiểu mối liên quan giữa các thông số lưu huyết với một số yếu tố nguy
cơ(thời gian bị bệnh, béo phì, trị số huyết áp) ở bệnh nhân đái tháo đường


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.1.1. Định nghĩa
Theo TCYTTG 2002: Đái tháo đường(ĐTĐ) là một bệnh mạn tính gây ra do thiếu
sản xuất insulin của tuỵ hoặc tác dụng insulin không hiệu quả do nguyên nhân mắc
phải và/hoặc do di truyền với hậu quả tăng glucose máu. Tăng glucose máu gây tổn
thương nhiều hệ thống trong cơ thể, đặc biệt mạch máu và thần kinh
Theo Hội ĐTĐ Hoa Kỳ 2004: Đái tháo đường là một nhóm các bệnh lý chuyển
hoá đặc trưng bởi tăng glucose máu do khiếm khuyết tiết insulin, khiếm khuyết hoạt
động insulin hoặc cả hai.Tăng glucose máu mạn tính trong ĐTĐ sẽ gây tổn thương, rối
loạn chức năng hay suy nhiều cơ quan đặc biệt là mắt, thận, thần kinh và mạch máu
1.1.2. Lịch sử và phân loại bệnh đái tháo đường
Bệnh ĐTĐ được mô tả lần đầu tiên trong Ebers-Papyrus khoảng 1500 năm trước
công nguyên. Người Ai Cập đã mô tả bệnh này như một bệnh lý có kèm theo tiểu
nhiều nhưng mãi đến hai thế kỷ sau từ đái đường (Diabetes) mới được một thầy thuốc
nổi tiếng người Hy Lạp mô tả một bệnh cảnh lâm sàng đầy đủ. Ngay từ thế kỷ đầu
tiên Aretee de Cappadoce là người đầu tiên đã nói về bệnh này như sau: “một bệnh
làm mất nhiều sinh lực do tiểu nhiều”. Năm 1674, Willis đặt tên là “đái nhiều chất
ngọt như mật” (Diabetes mellitus), một thế kỷ sau Dolson đã chứng minh vị ngọt đó từ
đường mà ra

Khoảng đầu thế kỷ 19, Brokman đã ghi nhận về đảo tụy nhưng mang tên
Langerhans (Langerhans đã mô tả đảo tuỵ năm 1869). Năm 1877, Lancereau phát hiện
tổn thương đảo tụy ở bệnh nhân mắc ĐTĐ. Năm 1889, Vonmering và Minkovski đã
chứng minh các tiểu đảo Langerhans của tuỵ có chức năng bài tiết insulin, là hormon
chủ yếu chuyển hoá glucose trong cơ thể và gây bệnh ĐTĐ trên chó bằng cách cắt bỏ
tụy. Năm 1921, Banting và Best cùng các cộng sự đã được giải thưởng Nobel về công
trình nghiên cứu phân lập insulin từ tụy. Năm 1922, lần đầu tiên insulin được sử dụng
cho bệnh nhân ĐTĐ. Trong giai đoạn này một số tác giả cũng đề cập đến bệnh lý
ĐTĐ xuất hiện ở người nhiều tuổi có các triệu chứng lâm sàng như ĐTĐ ở người trẻ
nhưng không cần điều trị insulin suốt đời mà có thể chỉ dùng chế độ ăn kiêng bệnh
cũng có thể thuyên giảm rõ rệt.
Năm 1951, Bornstein và Lawrence dựa trên phương pháp định lượng insulin huyết
thanh bằng RIA đã chia ĐTĐ ra làm hai thể:
+ĐTĐ thể 1 (giảm hoặc không có insulin máu)
+ĐTĐ thể 2 (insulin máu bình thường hoặc cao)
Năm 1985 TCYTTG phân loại ĐTĐ thành 4 thể:
+ĐTĐ phụ thuộc insulin
+ĐTĐ không phụ thuộc insulin
+ĐTĐ liên quan đến suy dinh dưỡng
+ĐTĐ thai kỳ


Năm 2004 Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ đưa ra bảng phân loại gồm:
+ĐTĐ type 1
+ĐTĐ type 2
+Các type đặc biệt khác: bao gồm:
Giảm chức năng tế bào bêta do khiếm khuyết gene
Giảm hoạt tính insulin do khiếm khuyết gene
Bệnh lý tụy ngoại tiết
Bệnh nội tiết

ĐTĐ do thuốc, hoá chất
Nhiễm khuẩn
Các thể không thường gặp của ĐTĐ qua trung gian miễn dịch
Một số hội chứng di truyền đôi khi kết hợp với ĐTĐ
+ĐTĐ thai nghén
1.1.3. Đái tháo đường type 2
Sinh lý bệnh ĐTĐ type 2 đặc trưng bởi tình trạng đề kháng insulin tại gan, mô
mỡ, mô cơ và các rối loạn tiết insulin từ các tế bào bêta tụy. Sự phối hợp lại các bất
thường này dẫn đến tình trạng tăng đường huyết mạn tính và các biến chứng lâu dài
nặng nề
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tình trạng đề kháng insulin thường đi
trước sự xuất hiện các triệu chứng lâm sàng của bệnh ĐTĐ type 2. Trên nhiều đối
tượng có tình trạng đề kháng insulin, nồng độ insulin nội sinh thường tăng để bù trừ
cho tình trạng đề kháng insulin. Tuy nhiên khi nồng độ insulin không đủ để vượt qua
tình trạng đề kháng, tình trạng tăng đường huyết mạn và bệnh ĐTĐ thực sự sẽ xuất
hiện
1.1.3.1. Vai trò của tình trạng đề kháng insulin
Đề kháng insulin được xem như một trong những khiếm khuyết tiên phát tạo
điều kiện cho sự xuất hiện bệnh ĐTĐ type 2. Đề kháng insulin gây rối loạn khả năng
sử dụng glucose ở cơ vân và mô mỡ làm tăng sản xuất glucose tại gan. Cả 2 khiếm
khuýêt này góp phần làm tăng đường huyết trên bệnh nhân ĐTĐ type 2 và đã có những
bằng chứng rõ rệt chứng minh rằng đề kháng insulin là rối loạn chuyển hoá được phát
hiện sớm nhất trước khi có tình trạng tăng đường huyết. Tình trạng đề kháng insulin
một phần được cho là do yếu tố di truyền, nhưng các yếu tố môi trường như béo phì,
tuổi già và lối sống thụ động cũng góp phần vào sự phát triển của tình trạng này và
tiếp theo sau đó là ĐTĐ type 2. Những thay đổi này phản ánh mức độ đô thị hoá ngày
càng tăng và lối sống phương Tây hoá nhất là ở các nước đang phát triển
1.1.3.2. Vai trò của rối loạn chức năng tế bào bêta tụy
Rối loạn chức năng tế bào bêta tụy cũng là một yếu tố quan trọng trong việc hình
thành và phát triển bệnh ĐTĐ type 2. Khi tuyến tụy không còn khả năng bài tiết để bù

trừ cho sự đề kháng insulin và duy trì mức đường huyết bình thường. Sự đề kháng
insulin và các yếu tố về gene được cho là đóng vai trò quan trọng trong sự rối loạn
chức năng tế bào bêta và giảm tiết insulin. Những yếu tố góp phần trong sự rối loạn
chức năng tế bào bêta tuỵ bao gồm sự tăng đường huyết và acid béo tự do trong máu
làm nhiễm độc tụy. Hơn nữa sự tăng tiết insulin trong thời gian dài để bù trừ sự đề
kháng insulin cũng làm tuyến tụy hoạt động quá sức dẫn đến rối loạn chức năng tế
bào bêta tụy
1.1.3.3. Sự liên quan của các acid béo tự do


Nồng độ acid béo cao trong máu có ảnh hưởng tới đề kháng insulin:
+Ức chế quá trình oxy hoá glucose
+Giảm nhạy cảm của insulin với tổ chức mỡ
+Ức chế gắn insulin với thụ thể đặc hiệu ở tế bào đích
1.2.Lưu huyết não đồ
1.2.1.Lịch sử Lưu huyết não đồ
Vấn đề ghi lưu huyết để đánh giá tuần hoàn não được đề cập từ những năm 20
của thế kỷ XX do các tác giả Schulter Grant,Meyer Grant,Ganller và một số tác giả
khác. Năm 1937, H.Mann đã đề nghị dùng cầu Wheatstone để nghiên cứu tính dẫn điện
của cơ thể sống. Sau đó, Nyboer qua các công trình nghiên cứu của mình đã sử dụng
dòng điện xoay chiều tấn số cao để nghiên cứu tuần hoàn máu và gọi phương pháp
này bằng một tên mới là ghi thể tích điện trở (Impedance plethysmography)
Danh từ”Ghi lưu huyết” do W.Holzer và K.Polzer nêu ra năm 1945. Hai tác giả
này cùng Marko (1945) là những người đầu tiên sử dụng phương pháp ghi lưu huyết
vào mục đích lâm sàng, nghiên cứu hoạt động của tim, các tác giả gọi phương pháp
của mình là ghi lưu huyết tim (Rheocardiography)
Vào năm 1950, K.Polzer và F.Schuhfried là những người đầu tiên sử dụng phương
pháp ghi lưu huyết để nghiên cứu hệ thống mạch máu não. Những công trình của K.
Iarrullin vào những năm 1962, 1963, 1966 và một số tác giả khác đã nghiên cứu sâu
hơn và đặt nền móng cho phương pháp ghi lưu huyết não, chỉ ra những khả năng to

lớn của phương pháp này trong nghiên cứu và chẩn đoán các loại bệnh lý mạch máu
não. Cũng trong thời gian này, danh từ “Ghi lưu huyết não” lần đầu tiên được
F.Jenkner nêu ra và nhanh chóng được sử dụng rộng rãi. Đến những năm 1970 nó đựơc
Swanson cải tiến hoàn chỉnh và sử dụng có hiệu quả
Ngày nay, với sự trợ giúp của máy vi tính, ngoài chức năng hỗ trợ cho phân tích,
tính toán, đánh giá lưu huyết não, nó còn giúp cho việc lưu trữ, hiển thị và in ấn đạt độ
chính xác cao
1.2.2.Nguyên lý và phương pháp ghi lưu huyết não
1.2.2.1. Nguyên lý chung
Ghi lưu huyết não (Rheoencephalography) là một bộ phận của ghi lưu huyết
chung (Rheography). Rheography là phương pháp ghi đại lượng điện trở biến đổi của
các mô sống,cơ quan hoặc các phần của cơ thể khi cho một dòng điện xoay chiều tần
số cao,cường độ yếu chạy qua
Đối với các tổ chức trong cơ thể, trong thời điểm ghi thì điện trở của nó thay đổi
chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi của lượng máu tuần hoàn qua nó (vì các yếu tố khác là
hằng định). Vì vậy, theo dõi sự thay đổi điện trở của cơ quan tổ chức giúp ta đánh giá
được trạng thái tuần hoàn của cơ quan tổ chức đó
Ta có thể coi sọ não là một mẫu điện tích, trong đó da, cơ và xương sọ ở mỗi
dưới điện cực ghi được biểu diễn bằng tế bào điện tích. Như vậy thay đổi điện trở
ghi được thể hiện cả sự tuần hoàn máu lên da đầu, tổ chức dưới da và xương sọ,
nhưng lưu lượng tuần hoàn này không đáng kể so với sự tuần hoàn qua não.Vì vậy,
đường ghi thay đổi điện trở chủ yếu biểu hiện sự thay đổi lưu lượng tuần hoàn qua
não, khi máu qua não nhiều thì điện trở của não giảm đi, cường độ dòng điện tăng lên
và ngược lại
1.2.2.2.Phương pháp ghi lưu huyết


Cơ sở vật lý phương pháp ghi lưu huyết: người ta sử dụng cầu Wheaston để ghi
điện trở biến đổi. Cầu này có 4 nhánh với 4 giá trị điện trở cân bằng nhau. Đường ghi
dòng điện phát sinh do sự thay đổi điện trở của cầu chính là lưu huyết đồ. Như vậy,

về thực chất đường ghi lưu huyết não thể hiện sự biến thiên điện trở của mạch máu
Máy ghi lưu huyết: Có 2 kiểu máy chính dùng để ghi lưu huyết não và thường
được gọi là kiểu REGI và REGII
Máy ghi lưu huyết kiểu I được cấu tạo sao cho dòng điện xoay chiều tần số cao
được truyền vào các vùng não qua các điện cực đặt trên đầu và những biến thiên điện
trở của các mạch máu não được dẫn vào máy ghi lưu huyết thông qua chính các điện
cực này
Máy ghi lưu huyết kiểu II có một đôi điện cực chuyên dùng để đưa dòng điện
xoay chiều vào não,còn các điện cực khác thu nhận biến thiên điện trở ở các vùng não
khác nhau rồi đưa vào máy lưu huyết. Hai điện cực đưa dòng điện vào não cần được
đặt ở các vị trí đối xứng của đầu theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang
Ưu điểm của máy ghi lưu huyết kiểu II là khắc phục được ảnh hưởng của điện
trở tiếp xúc giữa da đầu-điện cực và phân bố dòng điện không đều tại điểm tiếp xúc
của kiểu máy REGI gây nên kết quả thiếu chính xác
1.2.3.Phân tích, đánh giá đường ghi lưu huyết não
1.2.3.1 Hình dạng sóng:

Hình dạng sóng cho ta thông tin tổng quát về trạng thái chức năng của mạch máu
não, gồm có: nhánh lên, đỉnh sóng, nhánh xuống và sóng phụ
Nhánh lên của đường cong tương ứng với thời gian máu qua các động mạch não
trong pha dồn máu nhanh, khi máu qua nhiều nhất thì đường cong đạt tới đỉnh của nó
Đỉnh sóng REG tương ứng với điểm biến đổi rõ nhất về tính dẫn điện ở vùng
não đang nghiên cứu. Nếu sự biến đổi điện trở xảy ra nhanh, đỉnh sóng có dạng nhọn
và ngược lại, sự biến đổi điện trở xảy ra chậm đỉnh sóng có dạng phẳng
Nhánh xuống tương ứng với lúc máu qua các tiểu động mạch, mao mạch rồi tĩnh
mạch. Thông thường ở 1/3 trên xuất hiện 1 hoặc 2 sóng phụ thể hiện sóng dội của
mạch máu. Số lượng sóng phụ và sự biểu hiện của sóng phụ (rõ, mờ, không xuất
hiện)là chỉ tiêu đánh giá trương lực mạch máu não. Khi trương lực mạch máu tăng:
sóng phụ mờ, nằm ở vị trí cao sát đỉnh hay mất. Khi trương lực mạch máu giảm
(mạch giãn), sóng phụ xuất hiện rõ nét và nằm ở vị trí thấp gần đường đẳng điện

1.2.3.2.Một số thông số chính của lưu huyết não
Các thông số đánh giá cường độ dòng máu não:
Biên độ sóng REG: được tính từ chân sóng đến điểm cực đại của sóng được tính
ra Ohm. Đánh giá đại lượng dao động thể tích mạch máu. Nó phụ thuộc vào thể tích
nhát bóp của tim, tính chất và trạng thái của thành mạch máu, huyết áp động mạch


Chỉ số lưu huyết (Rheoindex) là tỷ số giữa biên độ sóng REG thu được và biên độ
chuẩn. Cường độ dòng máu vào não càng lớn thì chỉ số lưu huyết càng cao và ngược
lại.
Hệ số mất đối xứng: đánh giá mức độ cân bằng trong quá trình cung cấp máu cho
các vùng não đối xứng hai bên bán cầu
Độ dốc nhánh lên: là góc của đường tiếp tuyến với nhánh lên. Thông số này
tương đương với tỷ số độ dốc (Slope Quotient) là tỷ số giữa độ dốc lớn nhất của
nhánh lên với trở kháng nền, đơn vị p.m/s(p.m=per millie:phần nghìn). Thông số này
vừa đánh giá cường độ dòng máu và trương lực mạch máu
Lưu lượng máu não (alternating blood flow-ABF):
ABF= (amlitude/crest time).heart period.(6000/basic impedance)
Trong đó: 6000=60 seconds.100ml đơn vị là phần trăm ml máu trên 100ml tổ chức/
phút (%/min)
Các thông số đánh giá trương lực mạch máu não:
Thời gian nhánh lên hay thời gian đỉnh (Crest time): là thời gian tính từ điểm xuất
phát đầu tiên đến điểm cực đại của sóng REG tính ra giây, phản ánh thời gian giãn
mạch cực đại của mạch máu não.Yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến nó là tình trạng của
thành mạch máu: độ đàn hồi và trương lực mạch máu
Thời gian truyền sóng tim-mạch (propagation): là thời gian tính từ đỉnh sóng R của
điện tim đến lúc bắt đầu xuất hiện sóng lưu huyết, nó phản ánh trương lực mạch máu
não. Khi thời gian truyền ngắn thì trương lực mạch máu tăng và ngược lại
Độ rộng đỉnh:là khoảng thời gian giữa hai điểm nằm hai bên đỉnh của đường
cong ở vị trí 95% biên độ cực đại, nó phản ánh tính chất của đỉnh sóng lưu huyết


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
2.1.1.Chọn bệnh nhân
Chúng tôi chọn 40 bệnh với chẩn đoán xác định ĐTĐ type 2
Tuổi bệnh nhân từ 40 trở lên
Nhập viện và điều trị tại khoa Nội-bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
Thời gian chọn mẫu nghiên cứu từ tháng 5/2007 đến tháng 03/2008
2.1.2.Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ
Tiêu chuẩn chẩn đoán của TCYTTG năm 1998 và đã được xác định lại 2002.
Chẩn đoán xác định ĐTĐ nếu có một trong ba tiêu chuẩn dưới đây và phải có ít nhất
hai lần xét nghiệm ở hai thời điểm khác nhau
1.Glucose huyết tương bất kỳ trong ngày >=200mg/dl (>=11,1mmol/l), kèm ba
triệu chứng lâm sàng gồm tiểu nhiều, uống nhiều, sụt cân không giải thích được
2.Glucose huyết tương lúc đói >=126 mg/dl (>=7mmol/l) ( đói có nghĩa là trong
vòng 8 giờ không được cung cấp đường)
3.Glucose huyết tương hai giờ sau uống 75g glucose >=200mg/d l(>=11,1 mmol/l)
khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống
2.2.Phương pháp nghiên cứu
2.2.1.Nghiên cứu lâm sàng
Bệnh nhân khi vào điều trị tại khoa Nội-Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế
được khám tỉ mỉ


Tìm hiểu ĐTĐ bằng cách hỏi bệnh để xác định:
Họ tên,tuổi,giới,nghề nghiệp
Địa chỉ
Tìm hiểu về tiền sử
Khám xét lâm sàng
Xác định chỉ số BMI (Body Mass Index:Chỉ số khối cơ thể) và số đo vòng eo

bệnh nhân lúc vào viện:
Đo cân nặng, chiều cao, vòng bụng và vòng mông của bệnh nhân
Thời điểm đo trong nghiên cứu: khi bệnh nhân được đưa vào khoa điều trị
Đánh giá kết quả: BMI=Trọng lượng(kg)/chiều cao(m2)
Bảng 2.1.Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh béo phì dựa vào BMI và số đo vòng eo-áp
dụng cho người trưởng thành châu Á (theo TCYTTG ban hành tháng 2/2000)
Phân loại

BMI(kg/m2)

Gầy

<18,5

Bình thường
Béo:
+Có nguy cơ
+Béo độ 1
+Béo độ 2

18,5-22,9
>=23
23-24,9
25-29,9
>30

Yếu tố phối hợp
Số đo vòng eo:<90cm(với nam)>=90cm
<80cm(với nữ) >=80cm
Thấp(nhưng là yếu Trung bình

tố nguy cơ với các
bệnh khác)
Trung bình
Có tăng cân
Tăng cân
Béo vừa phải
Béo nhiều

Tăng vừa phải
Béo nhiều
Quá béo

Xác định huyết áp bệnh nhân lúc vào viện:
Đo huyết áp: Bệnh nhân được đo HA bằng máy đo thuỷ ngân hoặc máy đo đồng
hồ đã được chuẩn hoá 6 tháng 1 lần, lấy tay trái làm chuẩn đo 2 lần cách nhau 3-5 phút
theo khuyến cáo của TCYTTG. Nếu 2 lần đo chênh nhau trên 5 mmHg thì đo lại 1 đến
2 lần nữa rồi lấy trung bình cộng. Tuy nhiên, cần đo huyết áp cả 2 bên để đề phòng có
hẹp động mạch bên trái
Thời điểm đo trong nghiên cứu: khi bệnh nhân được đưa vào khoa điều trị
Đánh giá kết quả: Huyết áp tâm thu là áp lực tương ứng với tiếng đập động
mạch đầu tiên và huyết áp tâm trương là áp lực tương ứng với khi bắt đầu không còn
nghe tiếng đập của động mạch. Nếu rối loạn nhịp tim thì đo 3 lần sau đó lấy trung
bình cộng các chỉ số
Bảng 2.2.Phân loại THA ở người từ 18 tuổi trở lên (theo JNC VI.1997)
Giai đoạn
Bình thường
Bình thường cao
Giai đoạn I
Giai đoạn II
Giai đoạn III


HA tâm thu
130
130-139
140-159
160-179
>180

HA tâm trương
<85
85-89
90-99
100-109
>110



×