Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TỔNG HỢP TÌNH HUỐNG BÀI TẬP TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.83 KB, 10 trang )

Tố giác hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tháng 6/2017 tôi có quen 1 người tên Duy (cùng chỗ làm và ở cùng phòng). Sau đó người này
mượn xe của tôi sử dụng và tự ý mang đi cầm cố để lấy tiền sử dụng. Sau khi cầm cố thì anh ta
hứa vài tháng sau sẽ chuộc về trả lại cho tôi nên tôi cũng chấp nhận. Tuy nhiên, hiện nay Duy đã
về quê, có dấu hiệu bỏ trốn và không lên Sài Gòn. Tôi đã làm đơn khiếu nại đến công an phường
để yêu cầu xử lý, nhưng đã được gần 5 tháng vẫn chưa được giải quyết. Xin hỏi trong trường hợp
này tôi phải làm gì?
TRẢ LỜI:
Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị
giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong
các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại
và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình
thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời
hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình
thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng
trả lại tài sản…”
Trong trường hợp trên, Duy (Bà A của Bà A) đã có hành vi mượn xe (hợp đồng mượn tài sản),
rồi đã mang xe đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân và có dấu hiệu bỏ trốn về quê. Nếu chiếc máy
trên có giá trị trên 4.000.000đ thì hành vi của Duy có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

1


đoạt tài sản nói trên và Bà A hoàn toàn có thể khai báo, tố giác với cơ quan công an để can thiệp


giải quyết.
Khoản 3 Điều 146 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định: Công an phường, thị
trấn, đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận,
tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu,
đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin
báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, Điều 147 BLTTHS năm 2015 quy định về thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cụ thể như sau:
“1. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm
tra, xác minh và ra một trong các quyết định:
a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;
b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết
phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo,
kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc
kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02
tháng.
Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề
nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác
minh…”

2


Trong trường hợp nói trên của Bà A, Bà A đã tố giác hành vi vi phạm pháp luật của Duy với

công an phường, và công an phường đã chuyển cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra vụ án,
tuy nhiên đến nay đã 5 tháng nhưng chưa được giải quyết. Bà A cần tiếp tục yêu cầu cơ quan
điều tra cung cấp các thông tin về quá trình giải quyết vụ việc nói trên bằng cách trực tiếp yêu
cầu hoặc yêu cầu bằng văn bản cũng như cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết để góp phần
làm rõ hành vi vi phạm của Duy.

Vấn đề về cho vay nặng lãi
Bà A vay của bên vay nặng lãi với số tiền 90.000.000 đồng, tiền lãi là 9.000.000đ/1 tháng. Hiện
nay Bà A đã bỏ trốn, nhóm người cho vay nặng lãi thường xuyên đến công ty và gia đình làm
phiền ép người nhà bà A phải trả nợ, tuy nhiên trên giấy nợ Bà A có ký nhưng không ghi rõ nội
dung về lãi phải trả và không có điểm chỉ vân tay, tờ giấy nợ cũng không được nguyên vẹn chỉ là
một mảnh giấy nhỏ. Xin hỏi, trong trường hợp này Bà A sẽ bị xử lý như thế nào?
TRẢ LỜI:
1. Điều 463 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn
trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Hiện nay, pháp luật không quy định hình thức của hợp đồng vay tiền bắt buộc phải lập thành văn
bản nên các bên có thể giao kết, thỏa thuận về việc vay thông qua các hình thức như: lời nói, văn
bản,.... Nếu có tranh chấp về hợp đồng vay mà phải khởi kiện tại tòa án thì các bên cần cung cấp
chứng cứ để chứng minh về việc vay tiền hoặc trả tiền.
Điều 468 BLDS 2015 quy định về lãi suất cụ thể như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất
theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có
liên quan quy định khác. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được
quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

3



2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có
tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại
khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
Như vậy, căn cứ theo Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: Mức lãi suất tối đa trong hợp đồng
vay là 20% giá trị khoản vay/năm tương ứng với 1,67% giá trị khoản vay/tháng. Nếu không có
quy định mức lãi suất đối với tiền lãi chậm trả thì lãi suất tối đa cho phần tiền lãi là: 10% tiền lãi
trên nợ gốc tương ứng với 0,83%/tháng.
Nghĩa vụ thanh toán của bên cho vay bao gồm: (1). Nợ gốc; (2). Lãi trên nợ gốc trong thời hạn
hợp đồng vay = Nợ gốc x lãi suất vay trong hợp đồng x thời hạn hợp đồng vay; (3). Lãi phát sinh
đối với phần tiền lãi trên nợ gốc = Lãi trên nợ gốc x 0,83% x thời gian chậm trả; (4). Lãi trên nợ
gốc quá hạn = Nợ gốc x 1,5 x lãi suất vay trong hợp đồng x thời gian quá hạn.
Như vậy, đối với trường hợp của Bà A, nếu có thông tin về thời hạn cho vay Bà A hoàn toàn có
thể tính được khoản tiền mà Bà A phải trả theo quy định của pháp luật hiện nay.
2. Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự, cụ thể như sau:
“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi
suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên155, thì bị phạt tiền từ 200.000.000
đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Theo đó, hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự. Đó là hành vi cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất được quy định
trong BLDS năm 2015. Hành vi này bị coi là tội phạm nếu thỏa mãn 1 trong các dấu hiệu sau:
4



- Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm.
Như vậy, đối với trường hợp của Bà A, theo quy định của BLDS năm 2015 thì Mức lãi suất tối
đa trong hợp đồng vay nói trên là 20% giá trị khoản vay/năm tương ứng với 1,67% giá trị khoản
vay/tháng, tức không quá 1.503.000đ/tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp này Bà A lại phải trả
đến tận 9.000.000đ/tháng cao hơn gấp gần 6 lần so với mức lãi suất cao nhất được quy định
trong BLDS năm 2015 nói trên. Nếu hành vi cho vay nặng lãi này mà người cho vay thu lợi bất
chính từ 30.000.000đ trở lên hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì có thể bị truy cứu TNHS theo Điều
201 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Thời hạn tạm giam và bồi thường thiệt hại nếu bị oan sai như thế nào?
Anh A bị tam giam để điều tra. Trong quá trình này, Anh A bị ép cung và dùng nhục hình. Đến
khi xử phiên tòa đầu tiên thì tòa án trả hồ sơ về viện để điều tra lại. Anh A tiếp tục bị tạm giam
thêm 6 tháng nữa. Khi phiên tòa thứ 2 mở thì bên Viện Kiểm sát vẫn chưa đủ chứng cứ lời khai
nhân chứng xác minh. Tòa án lại tiếp tục trả hồ sơ và Anh A tiếp tục bị giam. Vậy xin cho tôi hỏi:
1. Thời hạn tạm giam điều tra lại tối đa là bao nhiêu ngày?
2. Nếu Anh A thật sự không có tội thì ai sẽ phải chịu trách nhiệm về những ngày qua Anh A trong
trại giam?
TRẢ LỜI:
1. Theo quy định tại khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì thời hạn tạm giam và gia
hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại thực hiện theo quy định tại Điều 173 của
Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể:

5


1.1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất

nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, thì có thể được gia hạn:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;
- Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;
- Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không
quá 04 tháng.Thời hạn tạm giam để điều tra.
1.3. Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng. Trường hợp thời hạn gia
hạn tạm giam quy định tại khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn
cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không
quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Trường hợp đặc biệt đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh
quốc gia mà không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
1.4. Trường hợp cần thiết đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an
ninh quốc gia và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng;
trường hợp đặc biệt không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
2. Nếu Anh A không có tội thì theo quy định tại Điều 18 của Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước, Nhà nước sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Anh A.

6


Người dưới 16 tuổi phạm tội cướp giật tài sản thì có bị truy cứu trách nhiệm
hình sự không?
A dưới 16 tuổi, phạm tội cướp giật. Vụ việc cụ thể như sau: A chở một người bạn 15 tuổi, chạy

xe máy của A, cướp điện thoại di động trị giá dưới 5 triệu đồng của 1 người nước ngoài. A điều
khiển xe, người bạn ngồi sau thực hiện hành vi cướp. Người nước ngoài chạy xe máy đuổi theo,
sau đó va chạm với A. Khi té ngã, xe A và xe người nước ngoài đè lên xe một người đang lưu
thông trên đường, khiến người này qua đời sau đó ở bệnh viện.
Xin hỏi A sẽ bị truy tố với tội danh gì và liệu A đối diện với mức án cao nhất là bao nhiêu năm
tù? Gia đình A là nhân thân tốt, A chưa có tiền án, chỉ một lần bị tiền sự cảnh cáo do gây rồi trật
tự công cộng. Gia đình A đã hỗ trợ mai táng cho người mất.
TRẢ LỜI:
1. Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151,
168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và
304 của Bộ luật Hình sự.
Về cách phân loại tội phạm, khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự quy định: Tội phạm rất nghiêm
trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù. Tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15
năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Căn cứ vào Điều 9 và Điều 171 của Bộ luật Hình sự thì người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản nếu phạm tội thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 171, cụ thể:
"2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
7


a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
11% đến 30%;
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người
không có khả năng tự vệ;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc
tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 %
trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
8


d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp".
2. Đối với hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo quy định tại Điều 12
của Bộ luật Hình sự thì người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội này.

Giao cấu với người chưa đủ 16 tuổi
Năm 2016, A đã quan hệ với Bạn gái A 15 tuổi và gia đình bên Bạn gái cũng đồng ý cho chúng A

lấy nhau và hiện nay đã sinh được 1 cậu con trai, nhưng gia đình nhà gái lại muốn kiện A vì A đã
lấy vợ lúc vợ A 15 tuổi (năm nay vợ A đã 17 tuổi). Xin hỏi trong trường hợp này A có bị truy cứu
trách nhiệm hình sự không?
TRẢ LỜI:
Điều 145 BLHS năm 2015 có quy định về Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi như sau:
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều
144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Theo đó, người nào đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) mà thuận tình (được sự đồng ý, tự
nguyện) giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi thì có thể bị truy cứu TNHS về Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 BLHS năm 2015.
Trong trường hợp nói trên của A, năm 2016, A đã quan hệ (hành vi giao cấu) với Bạn gái của A
(15 tuổi) trên cơ sở sự đồng ý, tự nguyện của Bạn gái của A và sau đó gia đình bên Bạn gái cũng

9


đồng ý cho A lấy và hiện nay đã sinh được 1 cậu con trai sẽ không cấu thành tội Tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Trách nhiệm hình sự của đồng phạm
A và một nhóm 03 người tổ chức trộm cắp tài sản cách đây 3 tháng, gồm 01 tivi 50 inches, 02
laptop. Người chủ mưu trong trường hợp này, chỉ vị trí trộm cắp, nhưng không thực hiện hành vi
trộm cắp, sẽ bị xử phạt như thế nào ạ?
TRẢ LỜI:

Căn cứ khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định
“Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức…
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.” Có thể thấy, người
chủ mưu, chỉ vị trí trộm cắp sẽ được coi là đồng phạm trộm cắp tài sản. Việc xử lý đối với đồng
phạm ở vị trí người tổ chức được thực hiện theo nguyên tắc:
- Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
- Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công
chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong
quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án sẽ phải xét đến tính chất của
đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp
dụng đối với người đó (Điều 58 Bộ luật hình sự). Theo đó, tùy theo các tình tiết trong vụ án trộm
cắp do nhóm của A thực hiện, người chủ mưu có thể phải chịu các mức xử phạt quy định tại Điều
173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội trộm cắp tài sản.

10



×