Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận phân tích các nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ logistics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.95 KB, 19 trang )

Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng
của hoạt động xuất khẩu và đầu tư, dịch vụ logistics Việt Nam đang có bước phát triển
mạnh mẽ.Để hiểu rõ hơn các nội dung của pháp lý về dịch vụ logistics, từ đó tìm ra
giải pháp tạo cơ sở cho thị trường logistics Việt Nam phát triển, nhóm đã chọn đề tài:
“Phân tích các nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ logistics” làm đề tài cho bài tập
nhóm.
I.Khái quát về dịch vụ logistics:
1.Khái niệm dịch vụ logistics:
Điều 233 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Dịch vụ logistics là hoạt động
thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm
nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ
khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ
khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Như vậy ta có thể hiểu: dịch vụ logistics là việc thực hiện và kiểm soát hàng hóa
cùng những thông tin có liên quan từ nơi hình thành nên hàng hóa đến nơi tiêu thụ hàng
hóa cuối cùng.
2.Đặc điểm của dịch vụ logistics:
Thứ nhất: quan hệ dịch vụ logistics có chủ thể gồm hai bên: người làm dịch vụ
và khách hàng. Trong đó, người làm dịch vụ bắt buộc phải là thương nhân và có đăng
ký kinh doanh dịch vụ logistics. Thương nhân bao gồm: công ty Cổ phần, công ty
TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một thành viên trở lên, công ty Hợp
doanh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh,
cá nhân kinh doanh. Pháp luật quy định cụ thể thủ tục đăng ký kinh doanh dịch vụ này
phụ thuộc vào hình thức pháp lý của thương nhân. Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trong đó có ghi rõ ngành nghề kinh doanh là loại
dịch vụ logistics cho thương nhân.
Khách hàng có thể là thương nhân hoặc là không phải là thương nhân. Họ là
những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ (người có hàng hóa cần gửi hoặc cần nhận), là
người vận chuyển hoặc là người làm dịch vụ logistics khác. Họ có thể sở hữu hoặc


không phải chủ sở hữu hàng hóa.
Thứ hai:Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm các công việc như:
 Nhận hàng từ người gửi để tổ chức vận chuyển: đóng gói bao bì, ghi ký
mã hiệu; chuyển hàng từ từ kho của người gửi tới cảng, bến tàu, bến xe và địa điểm
giao hàng khác theo thỏa thuận giữa người vận chuyển với người thuê vận chuyển;
 Làm các thủ tục, giấy tờ cần thiết (thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển,
làm thủ tục gửi giữ hàng hóa, làm các thủ tục nhận hàng…) để gửi hàng hóa hoặc
nhận hàng hóa được vận chuyển đến;
1


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

 Giao hàng hóa cho người vận chuyển; xếp hàng hóa lên phương tiện vận
chuyển theo quy định; nhận hàng hóa được vận chuyển đến;
 Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hóa hoặc thực hiện
việc giao hàng hóa được vận chuyển đến cho người có quyền nhận hàng.
Thứ ba: Dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ. Thương nhân kinh doanh
dịch vụ giao nhận hàng hóa được khách hàng trả tiền công và các khoản chi phi hợp lý
khác từ việc cung ứng dịch vụ.
Thứ tư, cơ sở pháp lý của hoạt động cung ứng dịch vụ logistics là hợp đồng dịch
vụ logictics giữa thương nhân kinh doanh dịch vụ logictics và khách hàng.
Ngoài ra ta còn có thể tìm thấy những đặc điểm khác của dịch vụ Logistics như:
 Logistics là tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trên ba khía cạnh chính
là: Logistics sinh tồn (có liên quan tới các nhu cầu cơ bản của cuộc sống, là bản chất
và nền tảng của logistics nói chung); Logistics hoạt động (là bước phát triển mới của
logistics sinh tồn và gắn với toàn bộ quá trình và hệ thống sản xuất các sản phẩm của
doanh nghiệp); Logistics hệ thống (giúp cho việc duy trì hệ thống hoạt động, với các
yếu tố như máy móc thiết bị, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, nhà xưởng…).
 Logistics hỗ trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp: hỗ trợ toàn phần quá trình

hoạt động của doanh nghiệp, ngay cả khi sản phẩm đó ra khỏi dây chuyền sản xuất và
đến tay người tiêu dung.
 Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận. Vận tải
giao nhận gắn liền và nằm trong logistics.
 Logistics là sự phát triển hoàn thiện của dịch vụ vận tải đa phương thức.
3. Các loại dịch vụ logistics:
Điều 4 Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định có các loại hình dịch vụ sau:
1. Các dịch vụ logistic chủ yếu, bao gồm: dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt
động bốc xếp container; dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động
kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị; dịch vụ đại lý vận tải,
bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý thông tin liên
quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi lô-gi-stíc; hoạt động xử
lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái
phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
2. Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm: dịch vụ vận tải hàng hải; dịch
vụ vận tải thuỷ nội địa; dịch vụ vận tải hàng không; dịch vụ vận tải đường sắt; dịch vụ
vận tải đường bộ; dịch vụ vận tải đường ống.
3. Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm: dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ
thuật; dịch vụ bưu chính; dịch vụ thương mại bán buôn; dịch vụ thương mại bán lẻ, bao
2


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân
phối lại và giao hàng; Các địch vụ hỗ trợ vận tải khác.
4.Vai trò của dịch vụ logistics:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa,
khu vực hóa, dịch vụ logistics đóng vai trò hết sức quan trọng và ngày càng thể hiện

được những ưu thế so với dịch vụ khác:
-Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong
quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Với việc hình thành và phát triển dịch vụ logistics sẽ giúp các doanh nghiệp cũng
như toàn bộ nền kinh tế quốc dân giảm được chi phí trong chuỗi logistics, làm cho quá
trình sản xuất kinh doanh tinh giản hơn và đạt hiệu quả hơn. Logistics giúp giảm chi
phí trong sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản, hiệu quả sản xuất kinh
doanh được nâng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
-Dịch vụ logistics có tác dụng tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông
phân phối.
Giá cả hàng hóa chính bằng giá sản xuất công với chi phí lưu thông. Chi phí lưu
thông hàng hóa, chủ yếu là chi phí vận tải chiếm một tỷ trọng không nhỏ và là bộ cấu
thành giá cả hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là hàng hóa trong buôn bán quốc tế. Vận
tải là yếu tố quan trọng của lưu thông, có nhiệm vụ đưa hàng hóa đến nơi tiêu dùng và
tạo khả năng để thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Thương mại quốc tế,
chi phí vận tải chiếm tỷ trọng khá lớn. Theo số lượng thống kê của UNCTAD thì chi
phí vận tải đường biển chiếm trung bình 10-15 % giá FOB, hay 8-9% giá CIF, mà vận
tải là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống logistics cho nên dịch vụ logistics ngày
càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết kiệm cho chi phí vận tải và các chi phí khác phát
sinh trong quá trình lưu thông dẫn đến tiết kiệm và giảm chi phí lưu thông.
-Dịch vụ logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận
tải giao nhận.
Dịch vụ logistics là loại dịch vụ có quy mô rộng và phức tạp hơn nhiều so với hoạt
động vận tải giao nhận thuần túy. Trước kia, người kinh doanh dịch vụ vận tải giao
nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản, thuần túy và đơn lẻ. Ngày
nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của một sản phẩm có thể do
nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một sản phẩm của doanh nghiệp có thể tiêu thụ
tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác nhau. Vì vậy, dịch vụ mà khách hàng yêu cầu
từ người kinh doanh vận tải giao nhận phải đa dạng và phong phú. Người kinh doanh
vận tải giao nhận hiện nay đã triển khai cung cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu

thực tế của khách hàng. Họ trở thành người cung cấp dịch vụ logistics (logistics
service provider). Rõ ràng, dịch vụ logistics đã góp phần làm gia tăng giá trị kinh
doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận.
3


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

-Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong thương mại quốc tế.
Sản xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên sản xuất kinh doanh, vấn đề thị
trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh doanh quan
tâm. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản
phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics có tác dụng
như chiếc cầu nối trong việc dịch chuyển hàng hóa trên các tuyến đường mới đến các
thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Dịch vụ logistics phát triển
có tác dụng rất lớn trong việc khai thác và mở rộng thị trường kinh doanh cho các
doanh nghiệp.
-Dịch vụ logistics phát triển góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa
chứng từ trong kinh doanh quốc tế.
Thực tiễn, một giao dịch trong Thương mại quốc tế thường phải sử dụng các loại
giấy tờ, chứng từ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí về về giấy tờ để phục vụ
cho mọi mặt giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm đã vượt quá 420 tỷ USD.
Theo tính toán các chuyên gia, riêng các loại giấy tờ, chứng từ rườm rà hàng năm
khoản chi phí tiêu tốn cho nó cũng chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu dịch quốc tế, ảnh
hưởng rất lớn tới các hoạt động buôn bán quốc tế. Logistics đã cung cấp các dịch vụ đa
dạng trọn gói có tác dụng giảm rất nhiều các chi phí giấy tờ, chứng từ trong buôn bán
quốc tế. Dịch vụ vận tải đa phương thức do người kinh doanh dịch vụ logistics cung
cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục, nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ
cũng như giảm khố lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa, từ đó nâng
cao hiệu quả buôn bán quốc tế.

Ngoài ra, cùng với sự phát triển của logistics điện tử (electronic logisticis) sẽ tạo ra
cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong
lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ logistics ngày
càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và thời gian trong
dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn
trong hoạt động sản xuất và lưu thông.
II.Những nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ logistics ở Việt Nam:
1. Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics:
Luật Thương mại 2005 không quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh dịch vụ
logistics.Tuy nhiên tại Điều 234 Luật Thương mại đã quy định: thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics phải là doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ
logistics theo quy định của pháp luật.
Tại Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007, Chính phủ đãhướng dẫn chi tiết
Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối
với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Quy định này được coi là hành lang pháp
4


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

lý quan trọng để phát triển loại hình dịch vụ này tại Việt Nam, theo đó điều kiện kinh
doanh đối với ba loại hình logistics như đã nêu trên được quy định như sau:
1.1. Điều kiện kinh doanh các dịch vụ logistics chủ yếu:
Điều 5 Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định thương nhân kinh doanh các dịch vụ
logistics chủ yếu phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Thứ nhất, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải là doanh nghiệp có
đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam, đáp ứng các điều kiện của
Luật Doanh nghiệp cũng như các văn bản hướng dẫn. Cụ thể tại khoản 1 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp 2005 thì:“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm

mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.Theo đó thì thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics có thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh…Bên cạnh đó thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cũng phải đáp ứng đầy
đủ các quy định của pháp luật về loại hình đăng ký kinh doanh của mình.
Bên cạnh điều kiện là doanh nghiệp, thương nhân muốn kinh doanh dịch vụ
logistics còn phải: “Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn,
kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu”. Các phương tiện, thiết bị, công cụ
ở đây được hiểu là:xe nâng hạ hàng hóa, dây chuyền, phương tiện đóng gói mã hàng
hóa, hệ thống đường ống, đèn chiếu sáng… Đội ngũ nhân viên phải được đào tạo đáp
ứng nhu cầu công việc, phải đáp ứng được các yêu cầu trình độ, năng lực, chuyên môn
nghiệp vụ và kiến thức hiểu biết pháp luật trong nước cũng như pháp luật quốc tế. Ví
dụ: Đối với thương nhân tiến hành kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì phải có đội ngũ
nhân viên thông thuộc mạng lưới giao thông vận tải để tính toán, lựa chọn phương án
tối ưu theo yêu cầu của chủ hàng, giải quyết việc tiếp chuyển giữa các phương tiện vận
tải và các chứng từ hàng hóa liên quan đến quá trình vận chuyển, đồng thời phải am
hiểu pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và vận dụng có hiệu quả pháp luật Việt
Nam, tập quán thương mại quốc tế trong công việc.
Đối với thương nhân nước ngoài khi tham gia kinh doanh dịch vụ logistics bên
cạnh việc phải đáp ứng các yêu cầu như đã nêu trên còn phải đáp ứng các điều kiện cụ
thể về vốn góp, tỷ lệ vốn góp, hình thức tồn tại, các điều kiện khác và tuân thủ các cam
kết của Việt Nam về mở cửa thị trường kinh doanh dịch vụ logistic khi gia nhập WTO.
Khoản 3 Điều 5 của NĐ 140/2007/CP quy định: “Thương nhân nước ngoài kinh doanh
dịch vụ lô-gi-stíc ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này chỉ
được kinh doanh các dịch vụ lô-gi-stíc khi tuân theonhững điều kiện cụ thể sau đây:
a) Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập công ty liên
doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%;
b)
Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì được thành lập công ty liên doanh, trong
đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%; hạn chế này chấm dứt
vào năm 2014;

5


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

c) Trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập công ty liên doanh,
trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, được thành lập
công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm
2014;
d) Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập công ty liên doanh,
trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51%
kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.”
1.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải:
Điều 6 Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định về điều kiện đối với thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải như sau: thứ nhất “là doanh nghiệp
có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam”, điều kiện thứ hai có sự
khác nhau do liên quan đến lĩnh vực khác nhau nhưng đều phải “Tuân thủ các điều
kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
Ví dụ: Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải đường biển
thì phải tuân thủ các quy định của Bộ luật Hàng hải và các văn bản liên quan; thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải đường không thì phải tuân thủ
các quy định của Luật Hàng không dân dụng, điều lệ vận chuyển hàng hóa quốc tế của
hãng hàng không quốc gia Việt Nam và các văn bản hướng dẫn Luật Hàng không dân
dụng.
Tóm lại, ngoài các quy định của Luật Thương mại, Nghị định 140/2007/NĐ-CP,
các chủ thể muốn kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải còn phải tuân thủ
các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Riêng với thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận
tải, ngoài việc đáp ứng 2 điều kiện “là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp
theo pháp luật Việt Nam”và “tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy

định của pháp luật Việt Nam” thìcòn phải đáp ứng những điều kiện cụ thể khác quy
định tại khoản 3 Điều 6 NĐ 140/2007/NĐ-CP: “Thương nhân nước ngoài kinh doanh
dịch vụ lô-gi-stíc ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại các khoản 1, 2 Điều
này chỉ được kinh doanh các dịch vụ lô-gi-stíc khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau
đây:
a) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hải thì chỉ được thành lập công ty
liên doanh vận hành đội tàu từ năm 2009, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước
ngoài không quá 49%; được thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc
tế trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này
chấm dứt vào năm 2012;
b) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải thuỷ nội địa thì chỉ được thành lập công
ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%;
c) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thì thực hiện theo quy định
của Luật hàng không dân đụng Việt Nam;
6


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

d) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường sắt thì chỉ được thành lập công ty
liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%;
đ) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ thì được thành lập công ty
liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế
này là 51% kể từ năm 2010;
e) Không được thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác”.
1.3. Điều kiện kinh doanh các dịch vụ logistics liên quan khác
Điều 7 Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định :
“1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam.
2. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc chỉ được kinh doanh các dịch

vụ lô-gi-stíc khi tuân theo những điều kiện cụ thể sau đây:
a) Trường hợp kinh doanh dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật:
Đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ thì
chỉ được thực hiện dưới hình thức liên doanh sau ba năm hoặc dưới các hình thức
khác sau năm năm, kể từ khi doanh nghiệp tư nhân được phép kinh doanh các dịch vụ
đó.
Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các
phương tiện vận tải.
Việc thực hiện dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các
khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng.
b) Trường hợp kinh doanh dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, dịch
vụ thương mại bán lẻ thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
c) Không được thực hiện các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác, trừ trường hợp điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác”.
Các thương nhân phải đáp ứng rất nhiều điều kiện để có thể kinh doanh dịch vụ
logistics, ngoài việc đáp ứng yêu cầu chung thì thương nhân còn phải đáp ứng các yêu
cầu riêng của loại hình dịch vụ mình muốn cung ứng theo quy định của pháp luật
chuyên ngành.
2. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:
Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là nội dung cơ
bản của quy định pháp luật về dịch vụ logistics nằm rải rác trong các quy định của hệ
thống pháp luật chung và hệ thống pháp luật chuyên ngành điều chỉnh dịch vụ này.
Điều 235 Luật Thương mại 2005 quy định quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics như sau:
“1. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có
các quyền và nghĩa vụ sau đây:
7


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2


a) Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác;
b) Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách
hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn
của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng;
c) Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hoặc
toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin
chỉ dẫn;
d) Trường hợp không có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách
hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.
2. Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.”
Như vậy các chủ thể kinh doanh dịch vụ logistics có quyền thỏa thuận với nhau về
quyền và nghĩa vụ.Pháp luật luôn ưu tiên sự thỏa thuận của các chủ thể. Trong trường
hợp các chủ thể không thỏa thuận được thì theo quy định, họ có các quyền và nghĩa vụ
theo quy định tại Điều 235 Luật thương mại, quyền được “hưởng thù lao dịch vụ và
các chi phí hợp lý khác”.
Về nguyên tắc, khi thực hiện hợp đồng, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
phải tuân thủ các quy định về nghĩa vụ trong hợp đồng trong đó có việc tuân theo các
chỉ dẫn của khách hàng. Tuy nhiên, “Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do
chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có
thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách
hàng”. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cách hiểu thế nào là “có lý do chính
đáng”nên việc xác định thế nào là lý do chính đáng nếu không được thỏa thuận ghi
trong hợp đồng gây rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết khi có tranh chấp. Ta có
thể hiểu “lý do chính đáng” có thể là do thời tiết, hay một lý do khách quan nào khác,
để đảm bảo lợi ích cho khách hàng thương nhân kinh doanh dịch vụ này không làm
theo các chỉ dẫn của khách hàng. Các chỉ dẫn này thường được ghi rõ trong hợp đồng
có thể là chỉ dẫn về phương tiện để vận chuyển hàng hóa, chỉ dẫn về hình thức bảo
quản hàng…

Để đảm bảo quyền lợi cho các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, Nhà
nước đã có những quy định cụ thể các quyền của thương nhân, trong đó tại khoản 1
Điều 239 Luật Thương mại 2005 quy định: “Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
có quyền cầm giữ một số lượng hàng hoá nhất định và các chứng từ liên quan đến số
lượng hàng hoá đó để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng nhưng phải thông báo
ngay bằng văn bản cho khách hàng”. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo
cầm giữ hàng hóa cùng các chứng từ liên quan đến hàng hóa mà khách hàng nợ mà
khách hang không trả lời thì thương nhân có quyền định đoạt số hàng hóa đó tương
ứng với số tiền mà khách hàng đã nợ mình và chi phí liên quan.Bên cạnh quyền được
cầm giữ và định đoạt hàng hóa thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics còn có các
8


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

nghĩa vụ được quy định tại Điều 240 Luật Thương mại: “Bảo quản, giữ gìn hàng hóa”,
“Không được sử dụng hàng hóa nếu không được bên có hàng hóa bị cầm giữ đồng ý”,
“Bồi thường thiệt hại cho bên có hàng hóa bị cầm giữ trong trường hợp để hư hỏng
mất mát hàng hóa”. Nghĩa vụ này chỉ được đặt ra trong trường hợp khi thương nhân
chưa thực hiện quyền định đoạt của mình, còn sau khi đã định đoạt thì nghĩa vụ này
không được đặt ra, bởi khi đó về thực chất không còn hàng hóa nữa.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật Thương mại thì các thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics còn có các quyền và nghĩa vụ cụ thể được quy định
trong các luật chuyên ngành.
Ví dụ: Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics vận chuyển đường biển:
nghĩa vụ của họ được quy định tại Điều 75 Bộ luật Hàng hải như: người vận chuyển
phải mẫn cán để trước khi bắt đầu chuyến đi, tàu biển có đủ khả năng đi biển, có
thuyền bộ thích hợp, được cung ứng đầy đủ trang thiết bị…
Ngoài các quyền, nghĩa vụ quy định ở các văn bản pháp luật trong nước thì
quyền và nghĩa vụ của các thương nhân kinh doanh dịch vụ này còn được quy định ở

các Công ước quốc tế, Điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập ký kết như: Công ước
của Liên Hợp Quốc về vận tải hàng hóa quốc tế đa phương thức năm 1980, Công ước
Kyoto…
3. Giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:
Thông thường, giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc do các bên tự thỏa thuận. Giới hạn trách
nhiệm đến đâu thường được các bên thể hiện rất rõ trong hợp đồng. Điều khoản về giới
hạn trách nhiệm bao giờ cũng được các bên rất quan tâm, đặc biệt là thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics.
Theo Điều 238 Luật Thương mại năm 2005 thì: “Trừ trường hợp có thoả thuận
khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không vượt
quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất toàn bộ hàng hoá”. Đây là trách nhiệm cao
nhất được đặt ra đối với thương nhân, tủy nhiên quy định cũng chưa chỉ rõ giới hạn tổn
thất cho khách hàng là giới hạn tổn thất hiện tại hay giới hạn tổn thất cho khách hàng
trong tương lai.Thực tế có những tổn thất xuất hiện tại thời điểm hàng hóa bị hư hỏng,
nhưng có những tổn thất có tính “tương lai”.Ví dụ: Do hàng hóa bị giao chậm, ảnh
hưởng đến thu nhập hình thành trong tương lai của khách hàng.
Thương nhân sẽ không được hưởng giới hạn trách nhiệm bồi thường này trong
trường hợp: “nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh được sự mất mát, hư
hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cố ý
hành động hoặc không hành động”. Trong trường hợp này thương nhân không được
hưởng quyền giới hạn trách nhiệm, nghĩa là lúc này thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics có thể phải chịu trách nhiệm lớn hơn tổn thất gây ra đối với toàn bộ hàng hóa.
9


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

Điều 8Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định chi tiết giới hạn trách nhiệm đối với
thương nhân kinh doanh trong lĩnh vực vận tải, theo đó:

“1. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc liên quan đến
vận tải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới hạn trách nhiệm
trong lĩnh vực vận tải.
2. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc không thuộc
phạm vi khoản 1 Điều này do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không có thoả
thuận thì thực hiện như sau:
a) Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về gía trị của hàng hoá thì giới
hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường.
b) Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về giá trị của hàng hoá và được thương
nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc xác nhận thì giới hạn trách nhiệm là toàn bộ giá trị
của hàng hoá đó.
3. Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ lô gi-stíc
tổ chức thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác nhau là giới
hạn trách nhiệm của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất.”Trong lĩnh vực vận
tải, giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ vận tải phải chịu sự điều
chỉnh của pháp luật về vận tải.
Ví dụ: Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh vận tải đa phương thức quy
định tại Điều 121 Bộ luật Hàng hải: “Trường hợp hàng hóa bị mất, hư hỏng xảy ra ở
một phương thức vận tải nhất định của quá trình vận chuyển, các quy định của pháp
luật tương ứng điều chỉnh phương tiện vận tải đó của vận tải đa phương thức. Như
vậy, nếu họ sử dụng tàu biển để vận chuyển hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm cụ thể
của họ được quy định tại Bộ luật Hàng hải, Nghị định 115/2007/NĐ-CP ngày 5/7/2007
về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển.
Nhưng ta cũng phải lưu ý rằng giới hạn trách nhiệm do các bên thỏa thuận được
coi là ưu tiên số một trong hợp đồng. Trong trường hợp họ không thỏa thuận thì các
nhà làm luật cũng đưa ra mức tối đa: “Trường hợp khách hàng không có thông báo
trước về giá trị của hàng hoá thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với
mỗi yêu cầu bồi thường”. Tuy nhiên, giới hạn trách nhiệm tối đa 500 triệu đồng chỉ áp
dụng trong “Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về giá trị của hàng hoá
đó”, còn trong trường hợp khách hàng đã thông báo về giá trị của hàng hóa thì “giới

hạn trách nhiệm là tòan bộ giá trị của hàng hóa đó”. Đây là quy định nhằm đảm bảo
lợi ích cho khách hàng trong trường hợp họ đã thông báo trước về giá trị của hàng hóa
và thương nhân kinh doanh dịch vụ cũng đã xác nhận, đồng thời quy định này cũng bảo
vệ quyền lợi cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics bởi thực tế đã có trường hợp
khi có tổn thất về hàng hóa, khách hàng nói khống giá trị của hàng hóa lên, khi đó giới
hạn trách nhiệm của thương nhân gần như không có, dẫn đến nhiều tranh chấp xảy ra.
10


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

4. Quy định về quản lý Nhà nước đối với dịch vụ logistics:
Quản lý nhà nước có tác dụng rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ
logistics. Xuất phát từ bản chất của dịch vụ logistics “là một chuỗi dịch vụ”, việc quản
lý nhà nước tương ứng là một hệ thống các cơ quan như: Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài
chính…, mà đứng đầu là Bộ Công thương giữ vai trò chủ đạo.
Đối với mỗi lĩnh vực logistics cụ thể lại có một Bộ chuyên môn ngành quản lý.Để
quản lý, các cơ quan nói trên phải sử dụng đến công cụ là hệ thống các văn bản pháp
luật và bộ máy hành chính. Trong trường hợp, các chủ thể có hành vi vi phạm thì “tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật” (Điều 10 Nghị định 140).
Ví dụ: Dịch vụ logistics đường thủy sẽ do Bộ Giao thông vận tải quản lý, cụ thể là
Cục Hàng hải Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tế, một chủ thể khi tiến hành kinh doanh
một dịch vụ logistics nhất định thì chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan. Ví dụ: Đối
với một chủ thể muốn kinh doanh dịch vụ logistics trong lĩnh vực vận tải đường biển
thì sẽ chịu sự quản lý của các cơ quan: Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh; Bộ Công thương quản lý chung; cơ quan quản lý trực
tiếp là Bộ Giao thông Vận tải.
5.Cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường Logistics khi gia nhập WTO:

5.1. Về dịch vụ vận tải hàng hải:
Việt Nam cam kết “không hạn chế” về dịch vụ vận tải hàng hải. Theo đó Việt Nam
sẽ cho phép các công ty vận tải hàng hải nước ngoài được thành lập liên doanh với tỷ lệ
vốn góp không quá 51% ngay khi gia nhập và được thành lập doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để thực hiện các hoạt động liên quan đến hàng
hóa do chính công ty đó vận chuyển bằng đường biển đi đến Việt Nam nhằm cung cấp
dịch vụ trọn gói cho khách hàng của họ. Tuy nhiên các liên doanh, doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài do công ty vận tải hàng hải nước ngoài thành lập chỉ được phép thực
hiện các hoạt động phục vụ cho chính công ty mẹ, không được phép cung cấp dịch vụ
cho khách hàng khác.
Đối với dịch vụ xếp dỡ container, Việt Nam cam kết cho phép nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài được thành lập liên doanh với tỷ lệ vốn góp không quá 50% và không có
lộ trình mở rộng hơn nữa. Tuy nhiên Việt Nam không đưa dịch vụ đại lý tàu biển vào
biểu cam kết dịch vụ để bảo hộ các doanh nghiệp nội địa hoạt động trong lĩnh vực
này.Đồng thời không có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp nước ngoài khi thực hiện các dịch vụ vận tải hàng hải như; đưa tàu vào cảng,
kho bãi, hoa tiêu, tiền công đóng gói.
5.2. Về dịch vụ vận tải hàng không:
11


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

Đối với dịch vụ vận tải hàng không, WTO không điều chỉnh về vận tải hàng hóa và
vận tải hành khách bằng đường hàng không mà chỉ điều chỉnh về một số dịch vụ hỗ trợ
như tiếp thị và bán sản phẩm hàng không, đặt giữ chỗ bằng máy tính, dịch vụ bảo
dưỡng và sửa chữa máy bay. Theo đó Việt Nam cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bảo
dưỡng và sửa chữa máy bay, cho phép bên nước ngoài thành lập liên doanh với đối tác
Việt Nam vào thời điểm gia nhập WTO được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài sau 5 năm gia nhập WTO.

5.3.Về các dịch vụ vận tải khác:
Tương tự các phân nghành dịch vụ vận tải khác như vận tải đường thủy nội địa và
vận tải đường bộ đều có những cam kết tương đối chặt chẽ so với quy định của pháp
luật hiện hành.Đối với dịch vụ vận tải đường sắt đang thuộc độc quyền của nhà nước,
nay chuyển sang hướng tự do hóa cung cấp dịch vụ cho mọi thành phần kinh tế nên
cũng được xem xét cam kết ở mức độ thận trọng hơn cho phép thành lập liên doanh tối
đa 49% vốn nước ngoài.
5.4. Về dịch vụ chuyển phát nhanh:
Việt Nam và Hoa Kỳ không có cam kết nào về dịch vụ chuyển phát nhanh theo
BTA, song theo thỏa thuận đàm phán song phương gia nhập WTO của Việt Nam với
Hoa Kỳ, Việt Nam cam kết cho phép các công ty chuyển phát nhanh của nước ngoài
được hoạt động với tư cách bên góp vốn đa số trong liên doanh với đối tác Việt Nam ở
thời điểm gia nhập và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5 năm gia
nhập WTO không có hạn chế nào đối với chuyển phát tài liệu, bưu kiện, gói hàng, hàng
hóa và các vật khác, bằng tất cả các phương thức cung cấp dịch vụ. Các doanh nghiệp
nước ngoài sẽ được đối xử như bưu điện Việt Nam.

III. Thực trạng thực thi các nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ logistics
ở Việt Nam và giải pháp hoàn thiện:
1. Thực trạng thực thi pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam:
Dịch vụ logistics ở nước ta chiếm khoảng 20 % GDP. Nếu chỉ tính riêng khâu quan
trọng nhất trong dịch vụ logistics là vận tải – chiếm khoảng 40-60 % chi phí, thì vận tải
cũng đã là một thị trường dịch vụ khổng lồ, là con số hấp dẫn đối với nhiều nhà kinh
doanh. Vì vậy, trong thời gian gần đây, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
logistics đã lên khoảng gần 1000. Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp
là 5 năm, với vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng/doang nghiệp.Các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đều còn “trẻ” và quy mô được xếp vào loại vừa,
nhỏ và rất nhỏ. Trong thực tiễn, các doanh nghiệp này đã không liên kết, hợp tác với
nhau, mà còn cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Cạnh tranh không lành mạnh để
được ký hợp đồng , đó là thực trạng hoạt động logistics ở Việt Nam hiện nay. Ở ngành

dầu khí, các doanh nghiệp vẫn độc quyền tiến hành dịch vụ logistics.
12


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

Theo Hiệp hội giao nhận kho vận việt Nam (VIFFAS), có bốn thuận lợi cơ bản để
kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay:
- Thứ nhất, pháp luật đang được điều chỉnh dần dần để phù hợp với đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường và các cam kết của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế;
- Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập AFTA và WTO tạo nhiều điều kiện phát triển kinh
tế, trong đó có dịch vụ logistics. Theo dự báo, đến năm 2020, kim ngạch xuất nhập
khẩu của nước ta sẽ đạt tới 200 tỷ USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ
logistics của Việt Nam còn khá lớn. Cơ hội kinh doanh dịch vụ logistics sau khi Việt
Nam gia nhập WTO sẽ nhiều hơn;
- Thứ ba, Việt Nam có bờ biển dài, có biên giới trên đất liền với Trung Quốc, Lào và
Campuchia, thuận lợi cho việc kết hợp nhiều phương thức vận tải, vận tải quá cảnh,
trong đó vận tải đa phương thức là một nhân tố rất quan trọng để thiết lập chuỗi cung
ứng dịch vụ logistics;
- Thứ tư, nguồn nhân lực trong nước có thể đáp ứng yêu cầu của ngành logistics;
Tuy nhiên, ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức, đó là:
- Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong thị trường dịch vụ
logistics. Theo tính toán của Cục Hàng hải Việt Nam, trong lĩnh vực quan trọng nhất
của dịch vụ logistics là vận tải hàng hải, thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng
chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi
phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Điều nay thực sự là một thua thiệt lớn cho
doanh nghiệp Việt Nam, khi mà trên thực tế gần 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được
vận chuyển bằng đường hàng hải.
- Khó khăn nhất hiện nay chính là quy mô doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tư nhân

hiện nay đang chiếm khoảng 80% tổng số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics.
Các doanh nghiệp này có quy mô vốn rất nhỏ, chỉ đăng ký vốn kinh doanh 300 – 500
triệu đồng. Với quy mô vốn như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam không thể đáp ứng
yêu cầu gia nhập thị trường dịch vụ logistics thế giới. Vì trên thực tế, nếu muốn ký vận
đơn vào Hoa Kỳ, doanh nghiệp phải ký quỹ tới 150.000 USD. Nhiều doanh nghiệp chỉ
có 3 – 5 người và chỉ đáp ứng được một số công việc đơn giản của khách hàng. Cũng
chính vì thiếu vốn và nhân lực, nên tổ chức bộ máy của các doanh nghiệp rất đơn giản,
không có tính chuyên nghiệp về dịch vụ logistics.
- Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài,
trong khi dịch vụ logistics hiện nay có xu thế toàn cầu.
- Tính nghiệp đoàn của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics còn rất rời
rạc, thiếu hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh với nhau nhưng không
cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, và đang có nguy cơ bị mất thị phần
nội địa. Các hiệp hội như: Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải (VISABA), VIFFAS…,
chưa thực hiện được vai trò là liên kết các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics
13


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

với nhau.Hầu kết các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics trong vận tải hàng hải ở
Việt Nam mới chỉ đóng vai trò là một nhà cung cấp dịch vụ “vệ tinh” cho các đối tác
nước ngoài. Chưa có một doanh nghiệp nào của Việt Nam đủ khả năng tổ chức và điều
hành tòan bộ quy trình dịch vụ logistics. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đều có
điểm yếu là không kết nối được với mạng lưới dịch vụ logistics toàn cầu và doanh
nghiệp Việt Nam chỉ hoạt động như những nhà cung cấp dịch vụ cấp 2, thậm chí là cấp
3, cấp 4 cho các đối tác nước ngoài có mạng điều hành dịch vụ toàn cầu. Các doanh
nghiệp Việt Nam mới chỉ làm thuê một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ logistics
mà doanh nghiệp nước ngoài giành được ngay trên thị trường Việt Nam.
- Các văn bản quy định của pháp luật chưa hoàn thiện. Các doanh nghiệp chưa nắm

vững pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế liên quan đến dịch vụ logistics. Đây là
một nguy cơ tiềm ẩn khả năng thua thiệt trong kinh doanh, vì hiểu biết pháp luật để áp
dụng là điều không thể thiếu trong kinh doanh dịch vụ logistics.
- Cơ sở hạ tầng về vận tải, kho bãi còn rất yếu kém.
Gia nhập WTO, áp lực cạnh tranh về dịch vụ logistics của Việt Nam ngày một cao
hơn. Với tầm quan trọng và nguồn lợi từ dịch vụ logistics, việc phát triển dịch vụ này
đòi hỏi phải có một chiến lược quốc gia với những cơ chế, chính sách và pháp luật phù
hợp, để tạo điều kiện thuận lợi và thu hút sự đầu tư phát triển cho dịch vụ logistics ở
Việt Nam.
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam:
 Xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ và vững chắc:
Xuất phát từ bản chất của dịch vụ logistics là dịch vụ mang tính tổng hợp, không
phải là những dịch vụ đơn lẻ, nên để điều chỉnh lĩnh vực này, nước ta đã có một hệ
thống pháp luật, từ Luật Thương mại 2005, Bộ luật Hàng hải 2005…, cùng các văn bản
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, các hệ thống pháp luật trên mặc dù đã được ban hành
nhưng không bao quát hết được các loại hình dịch vụ logistics, nhất là khi Việt Nam đã
trở thành thành viên của WTO, thì đòi hỏi hơn nữa việc phải có một hành lang pháp lý
đầy đủ, hoàn thiện. Để có được điều này, chúng ta phải tiến hành những công việc sau:
- Thứ nhất, tiến hành rà soát, sửa đổi các quy định trong các văn bản pháp luật hiện
hành điều chỉnh dịch vụ logistics. Bởi ngay bản thân các quy định trong Luật Thương
mại điều chỉnh trực tiếp dịch vụ logistics nói chung cũng đã gây nhiều tranh cãi.
Ví dụ: tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh
doanh dịch vụ logistics chủ yếu: “Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu
chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu kỹ thuật”. Vấn đề đặt
ra là thế nào là “phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật”?
Quy định như vậy dẫn đến phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan kiểm tra.

14



Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

Trong các văn bản chuyên ngành điều chỉnh từng loại dịch vụ logistics trong từng lĩnh
vực nhất định cũng vậy, việc quy định chồng chéo, bất cập trong các quy định cụ thể
đòi hỏi cần có sự rà soát và hệ thống hóa một cách tương đối.
- Thứ hai, ban hành các văn bản mới, phù hợp với thực tế và các cam kết của Việt
Nam về mở cửa thị trường dịch vụ logistics thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế
và sau đó nội luật hóa các văn bản trên. Vì thực tế, ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự
mở cửa thị trường cho một số lĩnh vực thương mại dịch vụ, có những dịch vụ chưa có
quy định cho người nước ngoài được kinh doanh (viễn thông, hàng không…), và có
những dịch vụ logistics còn chưa có quy định pháp luật cụ thể như dịch vụ đóng gói,
dịch vụ hội nghị… Vì chưa có quy định cụ thể nên rất khó khăn cho việc cấp đăng ký
kinh doanh cho các nhà kinh doanh. Một số dịch vụ còn sử dụng những quy định mang
tính hạn chế về số lượng người cung cấp dịch vụ; tỷ lệ góp vốn, hình thức công ty của
bên nước ngoài,… Vì vậy, trong thời gian tới cần ban hành các văn bản để điều chỉnh
các loại hình dịch vụ này.
 Tổ chức quản lý trong ngành dịch vụ logistics bằng cách nâng cao
vaitrò của hiệp hội:
Việc thực hiện các quy định của pháp luật cũng như kiến nghị với các cơ quan có
thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để điều chỉnh dịch vụ logistics, có
vai trò rất lớn của hiệp hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có hiệp hội logistics, cộng
đồng những người cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam mới chỉ là các công ty giao
nhận. Do vậy, có thể coi hiệp hội cao nhất trong ngành logistics của Việt Nam chính là
VIFFAS. VIFFAS là đại diện tầm cỡ quốc gia của những nhà giao nhận vận tải Việt
Nam, và là đại diện cho quyền lợi chung của những doanh nghiệp vận tải Việt Nam
trong mối quan hệ với Chính phủ Việt Nam và các tổ chức giao nhận quốc tế. VIFFAS
có vai trò rất lớn trong việc tư vấn, tham mưu cho Chính phủ trong việc ban hành các
văn bản điều chỉnh dịch vụ logistics. Ngoài VIFFAS còn có các hiệp hội nghề nghiệp
khác như hội chủ tàu, tổ chức đại lý tài biển…Những hiệp hội này có vai trò quan trọng
trong việc tư vấn, tham mưu cho Nhà nước ban hành các văn bản điều chỉnh dịch vụ

logistics. Vì vậy, để ban hành các văn bản điều chỉnh dịch vụ logistics được sát hơn với
thực tế thì chúng ta phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao vai trò của các hiệp hội
này, đặc biệt là VIFFAS.
 Phát triển nguồn nhân lực:
Có thể thấy, yếu tố con người là một yếu tố vô cùng quan trọng. Hiện nay, chúng ta
có nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực logistics nhiều nhưng trình độ còn thấp.
Do vậy, trong những năm tới, việc đào tạo và thu hút chất xám là cực kỳ cần thiết. Hầu
hết các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét là trình độ ngoại ngữ, đàm phán của các
doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, hiểu biết về pháp luật quốc tế còn hạn chế, tài liệu và
các thông tin liên quan còn thiếu và nắm bắt chưa kịp thời. Vì vậy, để nâng cao năng
lực cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, chúng ta phải nâng cao năng
15


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

lực, trình độ hiểu biết cho các doanh nghiệp và đội ngũ nhân viên làm việc trong các
lĩnh vực của dịch vụ logistics về ngoại ngữ, chuyên môn, đặc biệt là kiến thức về pháp
luật trong nước và pháp luật quốc tế bằng cách mở các trường đào tạo trong nước, bổ
sung các môn dạy về dịch vụ logistics ở các trường như Đại học Ngoại thương, Đại học
Kinh tế quốc dân… Trên thực tế, các trường này đã có những môn học chuyên về dịch
vụ logistics. Tuy nhiên, dạy về logistics nhưng họ mới chỉ tiếp cận dưới góc độ kinh tế.
Vì vậy, mở rộng việc tiếp cận logistics dưới góc độ pháp luật là rất cần thiết, để làm sao
đội ngũ nhân viên làm việc trong lĩnh vực dịch vụ logistics vừa có kiến thức chuyên
môn, vừa có kiến thức pháp luật nhằm đảm bảo sự thắng thế của các doanh nghiệp
logistics Việt Nam ngay trên sân nhà.
 Không ngừng phát triển cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nước ta còn kém, đặc biệt thiếu năng lực vận tải container.
Mà container đóng vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển dịch vụ
logistics. Vận tải container rất thích hợp cho việc vận chuyển từ cửa đến cửa, góp phần

phát triển dịch vụ gom hàng và vận tải đa phương thức. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vận tải
container chưa có điều kiện phát triển, hệ thống đường bộ chật hẹp, không đảm bảo
chất lượng, các cảng biển, sân bay chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, việc nâng cao
chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật là việc cần thiết để phát triển dịch vụ logistics.
 Sự nỗ lực của chính các doanh nghiệp:
Bên cạnh những giải pháp nói trên, cần phải có sự nỗ lực của chính các doanh
nghiệp – chủ thể chính trong nganh mới có thể thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ
logistics. Vấn đề cấp bách hiện nay chính là vấn đề nhận thức về logistics. Ngay chính
các công ty có hoạt động cung cấp dịch vụ logistics vẫn còn mơ hồ về khái niệm dịch
vụ logistics và chưa qua những khóa đào tạo về lĩnh vực này. Vì vậy, các doanh nghiệp
cần chủ động với các tổ chức, các trường đại học đào tạo về logistics của các nước phát
triển để tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn và dài hạn về giao nhận kho vận, vận tải đa
phương thức, giúp các thành viên trong doanh nghiệp hiểu đúng bản chất và đặc điểm
của loại hình dịch vụ này; đồng thời phải tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp
luật điều chỉnh về dịch vụ này.
IV. Kết luận:
Ta có thể dễ dàng nhận thấy hiện nay dịch vụ logistics đang ở thời kỳ phát triển sôi
động nhất thế giới và mang lại cho các công ty kinh doanh dịch vụ này những nguồn
lợi to lớn. Tuy nhiên, đây lại là lĩnh vực còn khá mới mẻ ở Việt Nam.Chính vì vậy
chúng ta cần phải có những giải pháp để ngành logistics Việt Nam tương lai sẽ phát
triển đúng hướng, hội nhập sâu vào ngành công nghiệp logistics toàn cầu, tối ưu hóa
hoạt động tổ chức, sản xuất, kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp trong nước, từ đó
tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế và năng năng lực cạnh tranh quốc gia.
16


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

PHỤ LỤC
-


Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động dịch vụ loggistics:
Luật Thương mại năm 2005 (Từ Điều 233 – Điều 240);
Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007;
Bộ luật Dân sự năm 2005;
Luật Doanh nghiệp năm 2005;
Luật Đầu tư năm 2005;
Luật Cạnh tranh năm 2004;
Luật Hải quan năm 2005;
Luật Đường sắt năm 2005;
Luật Giao thông đường bộ năm 2001;
Thể lệ vận chuyển hàng hoá bằng đường ô-tô năm 1990;
Nghị định số 110/2006/NĐ-CP ngày 28/9/2006 về điều kiện kinh doanh vận tải
bằng ô-tô;
Luật Giao thông đường thuỷ nội địa năm 2004;
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006;
Điều lệ vận chuyển hàng hoá quốc tế của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam
năm 1993;
Bộ luật Hàng hải năm 2005;
Nghị định số 49/2006/NĐ-CP ngày 18/5/2006 về thủ tục đăng ký tàu biển (bao
gồm thế chấp tàu biển);
Nghị định số 115/2007/NĐ-CP ngày 5/7/2007 về điều kiện kinh doanh dịch vụ
vận tải biển;
Pháp lệnh Bưu chính và Viễn thông năm 2002;
Nghị định số 157/2004/NĐ-CP ngày 18/8/2004 quy định chi tiết việc thi hành
một số điều khoản về bưu chính của Pháp lệnh Bưu chính và Viễn thông
năm 2002;

17



Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

MỤC LỤC
I.Khái quát về dịch vụ logistics
1.Khái niệm về dịch vụ logistics
2.Đặc điểm của dich vụ logistics
3.Các loại dịch vụ logistics
4.Vai trò của dịch vụ logistics
II.Những nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ logistics ở Việt Nam:
1.Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics:
2.Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
3.Giới hạn trách nhiệm với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
4.Quy định về quản lý Nhà nước đối với dịch vụ logistics
5.Cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường logistics khi gia nhập WTO
III.Thực trạng thực thi các nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ logistics ở
Việt Nam và giải pháp hòan thiện
1.Thực trạng thực thi pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam
2.Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam
IV.Kết luận

Tµi liÖu tham kh¶o
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại. NXB. CAND, Hà Nội,
2011.
2. Luật thương mại năm 2005.
3. Bộ luật Hàng hải năm 2005.
4. Luật Hàng không dân dụng.
5. Nghị đinh của Chính phủ số 140/2007/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2007 quy định
chi tiết luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn trách
nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics.

18


Bài tập nhóm thương mại 1 Module 2 – Nhóm 01 Lớp N02 TL2

6. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư –
Những vấn đề pháp lý cơ bản, NXB.CTQG, Hà Nội, 2008.
7. Bùi Ngọc Cường, Pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số
5/2008.
8. Ngô Thị Hồng Ngọc, Pháp luật về kinh doanh dịch vụ logistic tại Việt Nam theo
luật thương mại 2005, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2008.
9. Vũ Thị Nhung, Pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội, 2009.
10. Nguyễn Huyền Trang, khóa luận tốt nghiệp “Những khía cạnh pháp lý về dịch vụ
logistics”, Hà nội , 2011

19



×