Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Nguyên tắc tôn trong tính khách quan, phát huy tính năng động chủ quan và việc vận dụng nó trong công cuộc xây dựng và phát triển tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.23 KB, 10 trang )

NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN,
PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN VÀ
VIỆC VẬN DỤNG NÓ TRONG CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của
Mác, Ăng-ghen, Lê-nin được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá
trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới quan, phương pháp
luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp
bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện
chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới quan khoa học Mác-Lênin; là hình
thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật; là hệ thống lý luận và phương pháp
luận được xác lập trên cơ sở giải quyết theo quan điểm duy vật biện chứng đối với
vấn đề cơ bản của triết học. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan
trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung
cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thưc khoa học và thực tiễn cách mạng. Nội
dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thành tựu hoạt động thực tiễn,
thành tựu tư duy khoa học của nhân loại trong quá trình phản ánh thế giới.
NỘI DUNG
1. Tìm hiểu chung
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.


Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn;
trong mối quan hệ đó, vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức: không bao giờ


và không ở đâu ý thức lại quyết định vật chất. Trái lại, vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết
để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy
không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sức
mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức,
mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất trong đó con người
hành động theo định hướng của ý thức.
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa
duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung
nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó
là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và có hiệu quả khi và chỉ khi thực hiện
đồng thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan
với phát huy tính năng động chủ quan; phát huy tính năng động chủ quan phải là
trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong
nhận thức và thực tiễn.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính
khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn
bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo qui luật; tôn trọng vai trò
quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã
hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ
thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách,


kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm

ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để
hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa
tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri
thức khoa học; tích cực học tập; nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền
bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn
quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành,
củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống
nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược, sách lược,... đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa
kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ,...
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
3. Vận dụng nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng
động chủ quan” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy
luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và trong hoạt
đông thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm
căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Lênin nhấn mạnh: “Không được lấy chủ quan của mình làm chính sách,
không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách
mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy
ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí”.
Thêm vào đó, phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích
cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò tích cực của nhân tố con



người trong việc sáng tạo vật chất hóa tính tích cực năng động sáng tạo ấy. Bản
thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn
tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được
con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối
với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu nhận
thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng quy luật khách quan, phải có ý
chí, có phương pháp để tổ chức hành động.
“Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan” trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện qua các lĩnh vực sau:
3.1. Kinh tế
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế của Việt Nam: Chuyển đổi từ mô hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa. Đảng xác định: kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát
triền ở giai đoạn cao, trong đó yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều thông qua thị
trường. Các chủ thể kinh tế đều chịu sự tác động quy luật thị trường và thái độ ứng
xử của họ đều tìm kiếm lợi ích cho mình thông qua sự điều tiết của giá cả.
Vận dụng bài học tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan
để thực hiện được tư duy đổi mới đó, cần phải tổ chức lực lượng vật chất để thực
hiện nó. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ
chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ
sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội,
thể hiện trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Cũng có thể nói, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã
hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền
kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Đây là
nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý

của nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội hạn chế tối đa


những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại
đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Đảng ta thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, đa dạng về sở hữu. Bao gồm 5 thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế
hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu
chủ. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo điều
kiện cho mọi thành phần kinh tế có cơ hội phát triển bình đẳng trước pháp luật.
Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo hoạt động trong những lĩnh vực then
chốt, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, hướng dẫn, định hướng, kích thích cho các
thành phần kinh tế khác phát triển nhằm mục đích chung là phát triển kinh tế xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Về cơ chế vận hành, xóa bỏ cơ chế hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp
chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Theo đó, các doanh
nghiệp, cá nhân kinh doanh có quyền tự lựa chọn mặt hàng kinh doanh (trong
khuôn khổ pháp luật) mà không phải theo sự áp đặt của nhà nước như trước kia.
Người mua có quyền lựa chon hàng hóa, số lượng, mẫu mã theo nhu cầu và khả
năng thanh toán của mình (khác với việc nhà nước phân phối định lượng bình quân
trong cơ chế cũ). Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp lấy hiệu
quả kinh tế và lợi nhuận là mục tiêu quan trọng thay vì thể hiện ý chí của nhà
nước. Giá cả hàng hóa do thị trường quyết định phụ thuộc vào các quan hệ cung
cầu, cạnh tranh. Tuy nhiên, cơ chế thị trường phải đặt dưới sự quản lý vĩ mô của
nhà nước nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, nền kinh tế
nước ta cũng được chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa và hội
nhập. Quan hệ kinh tế được thiết lập không chủ với các nước Xã hội chủ nghĩa mà
được mở rộng với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở mối quan hệ hợp tác,
cùng có lợi và tôn trọng nhau.
Có thể thấy rằng, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận mà còn là
sự lựa chọn và khẳng định con đường và mộ hình phát triển trong thực tiễn mang
tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Mô hình kinh tế thị trường định hướng


xã hội chủ nghĩa là mô hình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Ví dụ: Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đang trong quá trình phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước. Vì vậy, Việt Nam mở cửa
thương mại, tham gia vào WTO năm 2006 giúp GDP bình quân đầu người tăng từ
730 USD vào năm 2006 lên 2.228 USD vào năm 2015 và đạt 2.445 USD vào năm
2016; Tham gia vào khối các nước khu vực Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995 đưa
nước ta tiến lên con đường phía trước trên con đường xây dựng nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.2. Chính trị:
Để lãnh đạo đất nước, giúp đất nước vượt qua khó khăn, đạt được các mục
tiêu đã đề ra, Đảng – người lãnh đạo đất nước phải có một đội ngũ cán bộ có văn
hóa chính trị cao, có trình độ và khả năng thực hiện các nội dung chính trị một
cách văn hóa. Chính vì vậy, Đảng luôn tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm
trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng
trong nhân dân. Bản chất văn hóa chính trị tiền bộ cũng xa lạ với tệ nạn quan liêu,
tham nhũng, xa hoa, lãng phí. Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của dân, coi trọng
phản biện xã hội, mở rộng dân chủ trong tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng
bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những tiền đề,
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng tiến triển
mạnh mẽ.
Ví dụ: Biện pháp phòng chống các hành vi trái pháp luật trong bộ máy cơ
quan nhà nước, điều 30, Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu
nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái

pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo…”. Thể hiện đúng tính chất của
nguyên tắc, thể hiện: tôn trọng yếu tố quyền con người của công dân (cụ thể là


quyền khiếu nại, tố cáo), yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải
giải quyết theo đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, tính dân chủ cũng được thể hiện rõ trong Điều 27, Hiến pháp
2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các
quyền này do luật định”. Thể hiện sự tôn trọng quyền làm chủ của công dân trong
công tác bầu cử, công dân không chỉ được tham gia đóng góp ý kiến mà còn có thể
tham gia trực tiếp vào công tác quản lý nhà nước thông qua quyền bầu cử, ứng cử.
3.3. Văn hóa – xã hội
Sự biến đổi cơ cấu nền kinh tế thị trường đã dẫn đến dự biến đổi cơ cấu xã
hội, tạo điều kiện cho sự phát triển các giai tầng trong xã hội, giải phóng sức sản
xuất, đẩy mạnh phân công lao động, vị thế và vai trò của người lao động, các chủ
hộ lao động, của doanh nghiệp và doanh nhân được khẳng định. Các thành phần
kinh tế, các giai cấp tích cực và chủ động tham gia phát triển kinh tế. Đồng thời,
các chính sách xã hội được mở rộng và cải thiện dựa trên sự thay đổi về cơ cấu xã
hội, tăng quyền tự chủ, đảm bảo quyền lợi cho các thành phần xã hội. Nhà nước
khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo pháp luật. Các thể chế pháp lý
đảm bảo cho sự phát triển kinh tế định hướng xã hội có tăng trưởng cao đi liền với
công bằng xã hội: Luật lao động, Luật đất đai, Luật đầu tư,…Chính sách xã hội
không thụ động, gắn liền với chính sách kinh tế tạo ra một thể thống nhất vì mục
tiêu phát triển con người và xã hội, cá nhân và cộng đồng.
Con người xã hội chủ nghĩa, phát huy tính năng động chủ quan của con
người xã hội chủ nghĩa kết hợp với tôn trọng khách quan là chìa khóa thành công
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao giáo dục trong
sự nghiệp đổi mới đất nước nhằm tăng tỉ lệ lao động thông qua đào tạo, tăng lực

lượng lao động có trình độ, kiến thức, kĩ năng chuyên môn vào hoạt động sản xuất,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Mặt khác, hoạt động nghiên cứu, ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ cũng ngày càng được đẩy mạnh.


Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế cũng là
một trong những sự vận dụng nguyên tắc “tôn trọng khách quan, vận dụng sáng
tạo” một cách mềm dẻo và linh hoạt. Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là mục
tiêu, động lực thức đẩy phát triển nền kinh tế - xã hội. Góp phần giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc làm cho văn hóa đi sâu vào mọi kĩnh vực của đời sống xã hội, để
các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội nhằm đẩy lùi
sự xâm nhập của tư tưởng văn hóa phản tiến bộ. Mục tiêu xây dựng một xã hội
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” chính là
mục tiêu giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với
chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ, bài trừ các hủ tục lạc
hậu.
Ví dụ: Điều 61, Hiến pháp 2013 chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài;
Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo
giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu
học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý; Nhà nước ưu tiên
phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài;
tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực đời sống văn hóa, Chỉ thị 27-CT/TƯ, ngày 121-1998, của Bộ Chính trị về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội” ra đời trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trong quá trình
chuyển sang cơ chế thị trường đã thiết lập được một lối sống lành mạnh hơn trong
cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta, với định hướng: Lành mạnh, tiết kiệm, tránh
xa hoa, lãng phí, phiền nhiễu; chống khuynh hướng kinh doanh, vụ lợi; xóa hủ tục,

bài trừ mê tín dị đoan; bảo tồn có chọn lọc, xây dựng những mô hình văn minh góp
phần gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Công tác
quản lý và tổ chức lễ hội ngày càng đi vào nền nếp, đặc biệt là trong những năm


gần đây, không chỉ giúp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp mà
còn khắc phục hạn chế, đẩy lùi hủ tục.


KẾT LUẬN
Trong thời kì đổi mới của nước ta, phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng ta luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông
qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta mà đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân từng bước được ổn định, nâng cao, chế độ xã hội chủ nghĩa
ngày càng củng cố và đất nước ta khỏi khủng hoảng kinh tế, dần có những bước
chuyển biến tích cực trọng tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.



×