Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích những vướng mắc trong quy định của pháp luật về đấu giá hàng hoá và đề xuất giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.47 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Khái quát về ĐGHH và pháp luật về BĐGHH thương mại ở Việt Nam.
1. Khái quát về ĐGHH.
1.1. Khái niệm ĐGHH.
1.2. Đặc điểm của ĐGHH.
1.3. Vai trò của ĐGHH.
2. Khái quát pháp luật về BĐGHH.
II. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về ĐGHH trong thương mại.
1. Các hình thức bán đấu giá hàng hóa.
2. Chủ thể tham gia vào quan hệ ĐGHH.
3. Các nguyên tắc cơ bản trong ĐGHH.
3.1. Nguyên tắc công khai.
3.2. Nguyên tắc trung thực.
3.3. Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
4. Thủ tục và trình tự BĐGHH.
4.1. Lập hợp đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá.
4.2. Xác định giá khởi điểm.
4.3. Chuẩn bị BĐGHH.
4.4. Tiến hành bán đấu giá.
4.5. Hoàn thành văn bản bán đấu giá hàng hóa.
5. Quản lí nhà nước về ĐGHH.
III. Thực trạng BĐGHH và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
BĐGHH trong thương mại ở Việt Nam.
1. Hoạt động đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt Nam hiện nay.
1.1. Thực trạng hoạt động BĐGHH trong thương mại.
1.2. Những nguyên nhân cơ bản.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
ĐGHH.


KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Một số cụm từ viết tắt:
BĐGHH
: Bán đấu giá tài sản
LTM
: Luật thương mại
TTDVBĐGTS: Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản

MỞ ĐẦU
1


Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã
hội, đấu giá hàng hóa đã và đang ngày càng khẳng định vai trò là một bộ phận quan
trọng trong các hoạt động thương mại. Đồng thời, pháp luật về BĐG cũng từng bước
được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên trên thực tế hình thức BĐGHH chưa thực sự
trở thành một hình thức bán hàng được ưa chuộng và sử dụng rộng rãi. Một trong
những nguyên nhân mang tính pháp lí dẫn đến thực tế trên là những quy định về
BĐGHH còn nhiều bất cập, dẫn đến giảm tính hiệu quả và tăng nguy cơ rủi ro đối với
việc BĐG. Để pháp luật BĐGHH phát triển hơn nữa trên thực tế, đáp ứng kịp với tốc độ
phát triển kinh tế của quốc gia thì việc hoàn thiện pháp luật về BĐG là điều cần thiết.

NỘI DUNG
I. Khái quát về đấu giá hàng hóa và pháp luật về ĐGHH thương mại ở Việt Nam.
1. Khái quát về đấu giá hàng hóa.
1.1. Khái niệm đấu giá hàng hóa.
Bán đấu giá là một hình thức bán hàng đặc biệt bởi lẽ người bán có thể tự mình hoặc
thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai tại một địa điểm và
thời gian đã thông báo trước để những người muốn mua đến trả giá. Chủ nhân mới của

hàng hóa là người trả giá cao nhất.
Theo khoản 1 Điều 185 LTM 2005 thì: “Đấu giá hàng hóa là hoạt động thương mại,
theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán
hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất”.
Như vậy về bản chất BĐGHH là một phương thức mua bán công khai với sự tham gia
trả giá của nhiều người.
1.2. Đặc điểm của ĐGHH.
BĐGHH mang đặc trưng của một hoạt động thương mại tuy nhiên nó vẫn có những
điểm đặc thù so với các hoạt động thương mại khác, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, ĐGHH là hoạt động bán hàng có thể thông qua trung gian. Có nghĩa là người
có hàng hóa có thể tự mình đứng ra tổ chức bán đấu giá hoặc thuê người trung gian làm
dịch vụ bán đấu giá. Trong đó:
- Người bán hàng là chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ sở hữu ủy quyền bán hoặc
người có quyền bán hàng hóa của người khác theo quy định của pháp luật (K2
Đ186LTM);
- Bên mua là những tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua hàng hóa và đáp ứng các điều
kiện của pháp luật để tham gia trả giá;
- Bên trung gian (người làm dịch vụ BĐG) là những tổ chức được người bán hàng ủy
quyền tiến hành việc bán đấu giá.
Như vậy, trong quan hệ BĐG có thể diễn ra giữa các đối tượng sau:
+ Người có hàng hóa (chủ sở hữu hàng hóa) – người mua;
+ Người có hàng hóa – người bán hàng hóa (được chủ sở hữu ủy quyền bán hoặc có
quyền bán theo quy định của pháp luật) – người mua;
+ Người có hàng hóa – người bán đấu giá (thương nhân kinh doanh dịch vụ ĐGHH) –
người mua.
Thứ hai, đối tượng của BĐG có thể là hàng hóa thương mại thông thường nhưng do đặc
thù của việc bán hàng theo phương thức này nên hầu hết chỉ có những hàng hóa đặc thù
về giá trị cũng như giá trị sử dụng mới được cân nhắc để lựa chọn bán hàng theo
phương thức BĐG. Những hàng hóa này khó định giá và xác định giá trị, vì vậy người
2



-

-

bán chỉ đưa ra giá tham khảo (giá khởi điểm) còn giá trị thực của hàng hóa sẽ do người
mua quyết định trên cơ sơ cạnh tranh trong giá cả.
Thứ ba, hình thức pháp lí của quan hệ BĐG có thể được thành lập dưới một dạng rất
đặc biệt là hợp đồng ủy quyền BĐG và văn bản BĐGHH nên hình thức pháp lí của
quan hệ BĐG không giống như một quan hệ thương mại thông thường. Hợp đồng ủy
quyền BĐG được xác lập giữa người bán và người làm dịch vụ BĐG. Hợp đồng ủy
quyền sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy quyền
BĐGHH. Văn bản BĐG thực chất là HĐMBHH xác lập giữa các bên liên quan. Văn
bản này là cơ sở pháp lí để xác lập quyền sở hữu của người mua hàng với HHBĐG.
1.3. Vai trò của ĐGHH.
Mua bán hàng hóa theo phương thức BĐGHH phần nào thể hiện được chất lượng của
hàng hóa và khả năng tài chính của người mua được hàng hóa đấu giá đồng thời đảm
bảo tính khách quan, trung thực về giá cả của hàng hóa đó.
BĐGHH được thực hiện một cách công khai, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng, ngăn
ngừa được những hành vi tiêu cực; thông qua đó quyền lợi của các bên được thỏa mãn
một cách tốt nhất.
Với tính khách quan, công khai, thủ tục chặt chẽ hợp lí việc đem BĐG các loại hàng
hóa sẽ được xử lí nhanh chóng với mức giá mà tài sản đó có thể đạt được. BĐGHH giúp
cho việc mua bán diễn ra nhanh chóng, do tập trung được quan hệ cung cầu về một loại
quan hệ nào đó vào một thời gian và một địa điểm nhất định. Vì vậy, cơ hội để bán
được hàng hóa cho người muốn mua là rất cao.
BĐGHH còn đảm bảo lợi ích của các chủ thể khác có liên quan như người nhận cầm cố,
nhận thế chấp, nhận bảo lãnh.
2. Khái quát về pháp luật bán đấu giá hàng hóa.

Hoạt động BĐGHH luôn làm phát sinh nhiều mối quan hệ, nó liên quan và ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Do
vậy, hoạt động BĐGHH phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
Nội dung cụ thể của pháp luật về ĐGHH bị chi phối bới các điều kiện kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nhìn chung PL về ĐGHH có những nội dung cơ bản sau:
Các nguyên tắc trong đấu giá hàng hóa;
Các hình thức đấu giá hàng hóa;
Hàng hóa đấu giá;
Quyền, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức và tham gia đấu giá;
Trình tự, thủ tuc đấu giá hàng hóa.
Ở VN trong cơ chế kinh tế tập trung bao cấp về cơ bản không tồn tại điều kiện kinh tế,
xã hội cho sự ra đời và phát triển của hoạt động ĐGHH trong thương mại, vì vậy không
có pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại.
Kể từ khi nhà nước thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng thì hoạt động kinh tế
ở nước ta cũng dần phát triển và có nhiều khởi sắc. Hoạt động BĐGHH ra đời và ngày
càng phát triển; pháp luật về ĐGHH từng bước được xây dựng và hoàn thiện.
Các văn bản pháp luật quy định về BĐG hiện nay gồm:
Bộ luật dân sự năm 2005;
Nghị định của Chính phủ số 17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010 về bán đấu giá tài sản (thay
thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP);
Luật thương mại năm 2005 (từ Điều 185 đến Điều 213).
3


II. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về ĐGHH trong thương mại.
1. Các hình thức bán đấu giá hàng hóa.
Đấu giá hàng hóa là một quy trình phức tạp, có thể tiến hành theo nhiều hình thức khác
nhau, tùy thuộc vào đối tượng hàng hóa, mục đích và điều kiện tổ chức cuộc BĐG. Có
thể phân chia các hình thức đấu giá như sau:
- Căn cứ vào phương pháp xác định giá, có đấu giá theo phương pháp nâng giá và đấu

giá theo phương pháp hạ giá.
Đấu giá theo phương pháp nâng giá là hình thức mà tại cuộc BĐG, nhân viên điều hành
BĐG nêu lên giá khởi điểm thấp nhất của lô hàng hay tài sản bán đấu giá. Sau đó những
người mua sẽ trả giá nâng dần lên theo từng mức mặc cả nhất định. Người trả giá cao
nhất theo sự kết luận của nhân viên điều hành đấu giá sẽ được quyền mua lô hàng hoặc
tài sản đó. Hình thức này được áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có
lợi cho cả bên mua và bên bán.
Đấu giá theo phương pháp hạ giá là hình thức mà tại cuộc bán đấu giá, nhân viên điều
hành đấu giá nêu lên mức giá khởi điểm cao nhất, rồi sau đó hạ dần từng nấc một để
người mua đặt giá. Nếu không có người mua nào đặt giá thì lại hạ tiếp xuống mức thấp
hơn. Cứ như thế cho đến khi có người chấp nhận mua ở một mức giá nào đó thì hàng
hóa được bán cho người đó. Hình thức này chỉ áp dụng đối với một số loại hàng hóa và
thực sự nó không hấp dẫn với cả người mua và người bán hàng.
- Căn cứ vào hình thức biểu đạt trong cuộc bán đấu giá, có đấu giá dùng lời nói và đấu
giá không dùng lời nói.
Đấu giá dùng lời nói là hình thức mà trong phiên bán đấu giá, nhân viên điều hành đấu
giá dùng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm. Những người mua đặt giá sẽ cũng
bằng lời nói hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người điều hành đấu giá biết. Hình thức
đấu giá dùng lời nói có ưu điểm là sự trả giá của mọi người mua đều công khai, người
trả giá cao nhất được xác định ngay mà không phải mất nhiều thời gian để so sánh.
Đấu giá không dùng lời nói là hình thức mà việc trả giá của người mua không được thể
hiện bằng lời nói hoặc việc làm dấu hiệu mà được viết ra giấy hoặc thông qua một hình
thức nào đó sẽ thông báo cho nhân viên điều hành đấu giá biết. Nhân viên điều hành sẽ
thông báo mức giá cao nhất qua mỗi lần trả giá trên cơ sở so sánh các mức giá chấp
nhận mà họ được thông báo. Việc đấu giá kéo dài cho đến lần trả giá mà không có ai trả
cao hơn giá đã trả cao nhất của lần trả giá liền trước đó. Tuy thủ tục có phức tạp và làm
mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức này hạn chế được tình trạng chạy đua giữa
những người mua nâng giá lên cao một cách quá đáng so với giá trị thực của hàng hóa.
Theo Luật thương mại 2005, việc ĐGHH được thực hiện theo một trong hai phương
thức sau đây:

+ Phương thức trả giá lên là phương thức bán đấu giá, theo đó người mua trả giá cao
nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng;
+ Phương thức hạ giá xuống là phương thức bán đấu giá, theo đó người đầu tiên chấp
nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là
người có quyền mua hàng.
2. Chủ thể tham gia vào quan hệ đấu giá hàng hóa.
* Người bán hàng hóa
Người bán hàng hóa là chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ sở hữu hàng hóa ủy quyền
bán hoặc người có quyền bán hàng hóa của người khác theo quy định của pháp luật
(khoản 2 Điều 186 LTM).
4


-

-

-

Như vậy, người bán hàng hóa ở đây được phân biệt với người tổ chức ĐGHH. Người
bán hàng có thể chính là chủ sở hữu hàng hóa đứng ra kí hợp đồng dịch vụ tổ chức
BĐGHH với người tổ chức bán đấu giá hàng hóa hoặc người bán hàng có thể là một
trung gian, làm công việc cầu nối giữa người có hàng hóa (chủ sở hữu của hàng hóa)
với người tổ chức BĐGHH. Trong trường hợp là một bên trung gian, người bán hàng
hóa có thể đóng vai trò thay mặt người có hàng hóa thiết lập các quan hệ với người tổ
chức ĐGHH, vì quyền lợi của người có hàng hóa, theo sự ủy quyền của người có hàng
hóa. Mặt khác, người bán hàng hóa cũng có thể là những người không có quan hệ trực
tiếp, không nhận được sự đồng thuận của người có hàng hóa nhưng lại có quyền bán
hàng hóa. Quyền này có thể phát sinh từ những quan hệ pháp lí, những thỏa thuận trước
đó giữa người có quyền bán hàng hóa và chủ sở hữu hàng hóa hoặc có thể phát sinh

theo quy định của pháp luật.
Trong quan hệ BĐGHH, người bán hàng hóa với tư cách độc lập với người tổ chức
BĐG, có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Quyền của người bán hàng hóa (Điều 191 LTM 2005):
+ Nhận tiền hàng đã bán đấu giá và khoản chênh lệch thu được trong trường hợp người
trả giá rút lại giá đã trả hoặc nhận lại hàng hóa trong trường hợp đấu giá không thành;
+ Giám sát việc tổ chức BĐGHH.
Nghĩa vụ của người bán hàng hóa (Điều 192 LTM 2005).
Một trong những nghĩa vụ cơ bản của người bán hàng hóa là trả thù lao dịch vụ cho tổ
chức đấu giá. Về nguyên tắc, người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá phải
thỏa thuận về thù lao dịch vụ đấu giá hàng hóa. Tuy nhiên, nếu không có thỏa thuận thì:
Thứ nhất, trong trường hợp cuộc đấu giá thành công, thù lao dịch vụ đấu giá được xác
định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung
ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lí, phương thức thanh toán và các điều kiện
khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ; thứ hai, trong trường hợp đấu giá không thành,
người bán hàng phải trả mức thù lao bằng 50% của mức thù lao xác định theo trường
hợp thứ nhất.
Ngoài ra, trong trường hợp giữa người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá hàng
hóa không có thỏa thuận về chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá thì người bán hàng
phải chịu chi phí vận chuyển hàng hóa đến địa điểm đã thỏa thuận và chi phí bảo quản
hàng hóa trong trường hợp không giao hàng hóa cho người tổ chức đấu giá bảo quản
(khoản 1 Điều 212 LTM 2005).
* Người tổ chức BĐGHH và người điều hành bán đấu giá.
Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng kí kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là
người bán hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá (khoản 1
Điều 186 LTM 2005).
Xét về bản chất, người tổ chức BĐG là người tiến hành các công việc cụ thể của một
cuộc BĐGHH. Trong trường hợp người bán hàng không tự mình tổ chức BĐGHH mà
thuê một người tổ chức BĐG chuyên nghiệp tiến hành BĐG thì giữa hai người này phải
hình thành một hợp đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá trước khi các công việc liên quan

đến BĐGHH được tiến hành.
Người tổ chức BĐGHH trong trường hợp không phải là người bán hàng hóa, có những
quyền và nghĩa vụ sau đây:
Quyền của người tổ chức đấu giá (Điều 189 LTM 2005).
Nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá (Điều 190 LTM 2005).
5


Người tổ chức đấu giá có nghĩa vụ thanh toán cho người bán hàng tiền hàng đã bán, kể
cả khoản tiền chênh lệch thu được từ người rút lại giá đã trả hoặc trả lại hàng hóa không
bán được cho người bán hàng theo thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận thì phải
thanh toán tiền cho người bán hàng chậm nhất là ba ngày làm việc sau khi nhận được
tiền của người mua hàng hoặc phải trả lại ngay hàng hóa trong thời hạn hợp lí sau cuộc
đấu giá.
Ngoài ra, trong trường hợp giữa người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá hàng
hóa không có thỏa thuận về chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá thì người tổ chức
đấu giá chịu chi phí bảo quản hàng hóa được giao, chi phí niêm yết, thông báo, tổ chức
bán đấu giá và các chi phí có liên quan khác (K2 Đ212 LTM 2005).
Người điều hành đấu giá
Người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người được tổ chức đấu giá ủy
quyền điều hành bán đấu giá (K2 Đ187 LTM 2005). Người điều hành chính là người
xuất hiện chủ yếu và điều khiển các phiên bán đấu giá theo một trình tự được pháp luật
quy định với những điều kiện bán hàng do người bán hàng đưa ra.
Người điều hành đấu giá có các quyền và nghĩa vụ theo (hoặc là) quy định của người tổ
chức BĐGHH trong trường hợp người điều hành là người của tổ chức BĐGHH trong
các trường hợp khác.
* Người mua hàng hóa
Người mua hàng hóa chính là người tham gia đấu giá hàng hóa, bao gồm tổ chức, cá
nhân đăng kí tham gia cuộc đấu giá (khoản 1 Điều 187 LTM 2005).
Về đối tượng đăng kí mua hàng hóa, trên nguyên tắc nhà nước khuyến khích sự cạnh

tranh rộng rãi có lợi cho người bán hàng trong hoạt động bán đấu giá. Tuy nhiên, để bảo
vệ tính trung thực và hợp pháp của các cuộc bán đấu giá, pháp luật vẫn cấm một số đối
tượng không được quyền tham gia trả giá (Điều 198 LTM 2005):
+ Người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc người tại thời
điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
+ Những người làm việc trong tổ chức BĐGHH; cha, mẹ, vợ, chồng, con của những
người đó.
+ Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hóa đấu giá theo quy định của pháp
luật.
Người mua hàng hóa có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhưng chủ
yếu tập trung vào một số vấn đề chính như:
- Quyền của người mua hàng hóa:
+ Tham gia trả giá;
+ Được quyền mua hàng hóa nếu đạt điều kiện trong cuộc bán đấu giá;
+ Được quyền nhận lại tiền đặt cọc trong trường hợp không mua được hàng hóa;
+ Được quyền trả lại hàng hóa trong trường hợp hàng hóa không đúng với niêm yết,
thông báo;
+ Được quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đối với những sai sót về thông tin hàng
hóa về hàng hóa của người tổ chức bán đấu giá.
- Nghĩa vụ của người mua hàng hóa:
+ Đặt cọc để đăng kí mua hàng theo yêu cầu của người tổ chức bán đấu giá;
+ Tham gia trả giá;
6


+ Chịu mọi chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá nếu đã được chọn là người mua hàng
mà lại từ chối mua hàng dẫn đến cuộc bán đấu giá không thành.
3. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu giá hàng hóa.
Việc tổ chức BĐGHH cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo

sự cạnh tranh công bằng và tính trung thực của cuộc bán đấu giá. Điều 188 LTM quy
định việc đấu giá hàng hóa trong thương mại phải được thực hiện theo nguyên tắc công
khai; trung thực; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
3.1. Nguyên tắc công khai
Đấu giá là hình thức công khai lựa chọn người mua hàng hóa nên mọi vấn đề có liên
quan đến cuộc BĐG và những thông tin về hàng hóa bán đấu giá phải được công khai
cho tất cả những ai muốn mua biết dưới các hình thức như niêm yết, thông báo, trưng
bày, giới thiệu về hàng hóa… Những nội dung bắt buộc phải công khai là: thời gian, địa
điểm tiến hành bán đấu giá; tên loại hàng hóa bán đấu giá; số lượng, chất lượng, giá
khởi điểm của hàng hóa; địa điểm trưng bày giới thiệu hàng hóa, các hồ sơ tài liệu liên
quan đến hàng hóa; công khai họ tên người bán hàng, tên tổ chức bán đấu giá và những
người đăng kí mua hàng hóa (nếu theo quy định của pháp luật, người mua hàng phải
đăng kí trước)… Tại phiên bán đấu giá, người điều hành bán đấu giá phải công khai các
mức giá được trả và họ tên người mua trả giá cao nhất của mỗi lần trả giá…
3.2. Nguyên tắc trung thực
Các thông báo về cuộc bán đấu giá và thông tin về hàng hóa, các giấy tờ có liên quan
đến hàng hóa bán đấu giá, những đặc điểm khuyết tật không nhìn thấy của hàng hóa
(nhất là khi hàng hóa là những tài sản có giá trị về mặt lịch sử, nghệ thuật), các giấy tờ
xác định tư cách người tham gia đấu giá phải thật rõ ràng, chính xác và đầy đủ để không
tạo ra sự nhầm lẫn hay lừa dối đối với các bên mà sự nhầm lẫn hay lừa dối đó sẽ làm
cho cuộc đấu giá bị vô hiệu. Người bán cần phải trung thực khi xác định giá khởi điểm
của hàng hóa. Người mua có quyền trả lại hàng hóa cho tổ chức bán đấu giá và yêu cầu
bồi thường thiệt hại nếu chất lượng hàng hóa không đúng như thông báo. Yêu cầu về
tính trung thực còn thể hiện ở việc pháp luật quy định những người có thân phận pháp lí
hay hoàn cảnh đặc biệt mà sự tham gia của họ có ảnh hưởng đến sự trung thực của cuộc
bán đấu giá thì không được tham gia trả giá.
3.3. Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
Quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên trong quan hệ đấu giá hàng hóa đều phải
được coi trọng và bảo đảm đầy đủ. Người bán hàng có quyền xác định giá khởi điểm
của hàng hóa, có quyền yêu cầu tổ chức bán đấu giá thanh toán đầy đủ tiền bán hàng

hóa ngay sau khi cuộc đấu giá kết thúc, được bồi thường thiệt hại nếu tổ chức bán đấu
giá hoặc bên mua có hành vi xâm phạm đến lợi ích của mình. Người mua hàng có
quyền xem hàng hóa, yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, được tự đặt giá,
được xác lập quyền sở hữu đối với hàng hóa sau khi hoàn thành văn bản đấu giá và họ
đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán. Tổ chức bán đấu giá được thu của người bán
hàng lệ phí và các khoản chi phí cần thiết khác cho việc tổ chức bán đấu giá theo quy
định của pháp luật.
4. Thủ tục và trình tự bán đấu giá hàng hóa.
BĐGHH cũng được tiến hành theo thủ tục và trình tự giống như BĐGTS nói chung.
Theo quy định của LTM 2005, thủ tục đó gồm các bước sau:
4.1. Lập hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa
7


ĐGHH có thể được thực hiện bởi chính chủ sở hữu hàng hóa hoặc thông qua một người
bán hàng không phải là tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp - các chủ thể tự tiến hành
ĐGHH và tự chịu trách nhiệm về công việc này. Tuy nhiên, do tính chất khá phức tạp
của việc tổ chức một cuộc bán đấu giá và do tính đặc thù của hàng hóa mà sự thành
công hay thất bại của một cuộc BĐGHH phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức bán
đấu giá. Chính vì vậy, hầu hết các chủ sở hữu hàng hóa, khi đã lựa chọn bán hàng bằng
phương thức đấu giá thì cũng lựa chọn cho mình một người trung gian – thương nhân
bán đấu giá chuyên nghiệp để tiến hành đấu giá.
Đối với các trường hợp BĐGHH thông qua trung gian thì phải lập hợp đồng dịch vụ tổ
chức ĐGHH. Hợp đồng này được kí kết giữa người bán hàng và người bán đấu giá, hợp
đồng này phải được kí dưới hình thức văn bản (hoặc các hình thức khác có giá trị pháp
lí tương đương). Trường hợp hàng hóa được đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì
hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá phải được sự đồng ý của bên nhận cầm cố, thế chấp
và bên bán phải thông báo cho các bên tham gia đấu giá về hàng hóa đang bị cầm cố,
thế chấp. Trường hợp hợp đồng cầm cố, thế chấp có thỏa thuận về việc bán đấu giá mà
người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lí do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp

đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa thì hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá được giao
kết giữa người nhận cầm cố, thế chấp với người tổ chức đấu giá (Điều 193 LTM ).
4.2. Xác định giá khởi điểm
Giá khởi điểm của hàng hóa do người bán hàng xác định với sự tham gia của đại diện tổ
chức bán đấu giá. Giá khởi điểm cũng có thể do người bán đấu giá xác định nếu được
người bán ủy quyền nhưng phải thông báo cho người bán hàng hóa biết trước khi được
công bố cho người mua. Trong trường hợp BĐGTS cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì
người nhận cầm cố, người nhận thế chấp, người nhận bảo lãnh cùng người cầm cố,
người thế chấp, người bảo lãnh xác định giá khởi điểm của tài sản với sự tham gia của
tổ chức bán đấu giá. Nếu người cầm cố, người thế chấp, người bảo lãnh vắng mặt mà
không có lí do chính đáng hoặc từ chối tham gia xác định giá khởi điểm thì giá khởi
điểm của tài sản do người nhận cầm cố, thế chấp xác định. Mức giá khởi điểm phải phù
hợp với giá trị thực tế của hàng hóa bán đấu giá.
4.3. Chuẩn bị bán đấu giá hàng hóa
Sau khi hợp đồng dịch vụ tổ chức BĐGHH được xác lập, các bên đã xác định được giá
khởi điểm, người bán hàng hóa hoặc người tổ chức BĐG phải tiến hành mọi công việc
chuẩn bị để tổ chức thành công cuộc BĐG, trong đó có các công việc chủ yếu sau:
* Niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá
Trước khi tiến hành BĐG chậm nhất là 7 ngày, người bán đấu giá phải niêm yết việc
bán đấu giá tại nơi tổ chức đấu giá, nơi trưng bày hàng hóa và nơi đặt trụ sở của người
tổ chức đấu giá. Nếu không thông qua trung gian, người bán hàng hóa có quyền ấn định
thời gian niêm yết. Mục đích của việc niêm yết và thông báo này là để nhiều người
muốn mua hàng hóa được biết và tham gia trả giá. Thông báo và niêm yết ĐGHH phải
có đầy đủ các nội dung quy định tại Điều 197 LTM.
* Đăng kí mua hàng hóa bán đấu giá và đặt cọc
Việc đăng kí người mua trong ĐGHH là cần thiết để tổ chức bán đấu giá nắm được số
lượng cũng như tư cách của những người sẽ tham gia đấu giá. Người muốn tham gia
đấu giá phải ghi tên mình vào danh sách phải đăng kí tại tổ chức bán đấu giá đồng thời
người mua phải đặt trước một khoản tiền. Khoản tiền đặt trước được xác định theo tỉ lệ
phần trăm giá khởi điểm của hàng hóa nhưng phải phù hợp để vừa khuyến khích cạnh

8


tranh lại vừa chống lại tình trạng những người tham gia BĐG liên kết với nhau để dìm
giá hoặc sẵn sàng chịu mất số tiền đặt trước khi từ chối mua với mục đích gây khó khăn
cho người có quyền và lợi ích liên quan hoặc vì mục đích vụ lợi. Thông thường, người
tổ chức đấu giá có thể đưa giá mức đặt cọc nhưng không quá 2% giá khởi điểm của
hàng hóa được đấu giá (K2 Đ199 LTM). Nếu người đăng kí không mua được hàng hóa
bán đấu giá thì khoản tiền đặt trước được trả lại ngay sau khi cuộc bán đấu giá kết thúc;
trong trường hợp mua được hàng hóa thì khoản tiền đặt cọc được trừ vào giá mua; trong
trường hợp người đăng kí mua đã nộp tiền đặt trước nhưng sau đó tự ý không tham gia
đấu giá thì khoản tiền đặt trước của người đó thuộc về người tổ chức bán đấu giá.
* Trưng bày, xem hàng hóa bán đấu giá
Việc trưng bày, xem hàng hóa nhằm tạo điều kiện để người tham gia đấu giá có dịp tận
mắt xem hàng hóa và hồ sơ gốc của hàng hóa bán đấu giá, giúp họ an tâm về chất lượng
và tính hợp pháp của hàng hóa để có những quyết định đúng đắn khi tham gia đấu giá.
Đối với những hàng hóa là động sản có giá trị lớn thì phải trưng bày công khai tại trụ sở
của tổ chức bán đấu giá hoặc tại một địa điểm khác nhưng phải được thông báo trước.
Đối với hàng hóa là động sản có giá trị nhỏ thì có thể không cần trưng bày để giảm bớt
chi phí nhưng cũng phải tạo điều kiện để người mua được tận mắt chứng kiến hàng hóa
đó. Nếu hàng hóa là bất động sản thì phải tổ chức cho người mua đến tận nơi có bất
động sản đó để tham quan. Việc trưng bày, xem xét tài sản phải tiến hành cùng thời
điểm niêm yết và thông báo việc bán đấu giá.
4.4. Tiến hành bán đấu giá.
Cuộc BĐGHH có thể được tổ chức công khai tại trụ sở của tổ chức BĐG hoặc tại nơi có
tài sản BĐG để những người muốn mua đến tham dự và trả giá. Địa điểm và thời gian
tổ chức cuộc bán đấu giá phải được công bố rộng rãi hoặc ít nhất phải được thông báo
tới những người đã đăng kí, trong trường hợp theo quy định người mua hàng hóa phải
đăng kí trước. Cuộc BĐG chỉ được tiến hành khi có số người tham gia trả giá tối thiểu
đủ đảm bảo sự cạnh tranh về giá. Nếu sau khi đã hết hạn niêm yết, thông báo công khai

về cuộc bán đấu giá mà chỉ có một người đăng kí mua và trả giá ít nhất bằng giá khởi
điểm thì hàng hóa được bán cho người đó mà không phải tổ chức cuộc bán đấu giá.
Tại cuộc bán đấu giá, người điều hành bán đấu giá thực hiện những công việc sau đây:
+ Điểm danh người đã đăng kí tham gia đấu giá hàng hóa;
+ Giới thiệu từng hàng hóa bán đấu giá, nhắc lại giá khởi điểm, trả lời các câu hỏi của
người tham gia đấu giá và yêu cầu người tham gia đấu giá trả giá:
+ Xác định người trả giá hợp lệ để trở thành người mua hàng hóa;
+ Tổ chức rút thăm giữa những người đồng thời trả mức giá cuối cũng đối với phương
thức trả giá lên hoặc mức giá đầu tiên đối với phương thức đặt giá xuống;
+ Lập văn bản bán đấu giá hàng hóa ngay tại cuộc đấu giá, kể cả trong trường hợp đấu
giá không thành.
Việc trả giá được xem như hành vi chấp nhận hợp đồng. Vì vậy, sau khi đã trả giá cao
nhất mà người mua rút lại mức giá đó thì coi như họ vi phạm hợp đồng và sẽ phải chịu
những hậu quả pháp lí phát sinh. Trường hợp người trả giá cao nhất rút lại giá đã trả thì
việc bán đấu giá được tổ chức lại ngay, và bắt đầu từ mức giá đã trả trước đó. Hậu quả
pháp lí đối với người rút lại giá đã trả bao gồm: thứ nhất, không được tham gia trả giá
tiếp; thứ hai, nếu giá bán hàng hóa đấu giá thấp hơn giá mà người rút lại đã trả, người
rút lại sẽ phải trả khoản tiền chênh lệch cho tổ chức bán đấu giá, nếu hàng hóa bán được
giá cao hơn thì người rút lại không được hưởng khoản tiền chênh lệch đó; thứ ba, trong
9


trường hợp cuộc đấu giá không thành thì người rút lại giá đã trả phải chịu chi phí cho
việc bán đấu giá và không được hoàn trả khoản tiền đặt trước (Điều 204 LTM 2005).
Trong trường hợp hoặc là không có người tham gia đấu giá trả giá hoặc là giá cao nhất
đã trả thấp hơn mức giá khởi điểm đối với phương thức trả giá lên thì cuộc đấu giá coi
như không thành (Điều 202 LTM). Tổ chức bán đấu giá và người bán hàng hóa có thể
thỏa thuận tổ chức bán đấu giá lần thứ hai hoặc các lần tiếp theo. Các lần bán đấu giá
sau cũng được tiến hành theo thủ tục như đối với lần bán đầu tiên.
4.5. Hoàn thành văn bản bán đấu giá hàng hóa

Văn bản bán đấu giá là căn cứ xác nhận việc mua bán, có thể coi văn bản này là hợp
đồng mua bán hàng hóa giữa người bán hàng hóa, tổ chức bán đấu giá và người mua
hàng hóa bán đấu giá. Nó không chỉ có giá trị xác nhận quan hệ mua bán hàng hóa
thông qua đấu giá mà còn là căn cứ pháp lí để chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa
bán đấu giá mà theo quy định của pháp luật phải đăng kí quyền sở hữu. Căn cứ vào văn
bản BĐGHH và các giấy tờ hợp lệ khác, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách
nhiệm đăng kí quyền sở hữu hàng hóa cho người mua theo quy định của pháp luật.
Văn bản bán đấu giá hàng hóa được lập ngay tại cuộc bán đấu giá, kể cả trường hợp
đấu giá không thành. Văn bản này ghi rõ kết quả phiên đấu giá, có chữ kí của người
điều hành bán đấu giá, người mua hàng hóa và hai người chứng kiến được mời trong số
những người tham gia đấu giá. Tùy thuộc vào từng loại hàng hóa mà văn bản bán đấu
giá có bắt buộc phải công chứng hay không. Văn bản bán đấu giá hàng hóa phải có các
nội dung của một hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong trường hợp đấu giá không thành, văn bản bán đấu giá vẫn phải được lập. Nếu đã
xác định được người mua hàng văn bản bán đấu giá đã được lập nhưng người này từ
chối mua hàng thì việc từ chối mua hàng này phải được người bán hàng hóa chấp nhận,
ngoài ra, người từ chối mua hàng phải chịu những hậu quả pháp lí nhất định.
Về thời hạn, địa điểm, phương thức thanh toán tiền mua hàng hóa, về nguyên tắc là do
tổ chức bán đấu giá và người mua hàng thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận thì người
mua phải thanh toán đủ một lần toàn bộ số tiền mua hàng hóa tại trụ sở kinh doanh của
tổ chức bán đấu giá ngay sau khi nhận hàng hóa; hàng hóa được giao ngay sau khi lập
văn bản đấu giá hoặc sau khi hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người
mua; địa điểm giao hàng hóa bán đấu giá là nơi có hàng hóa hoặc nơi bán đấu giá hàng
hóa nếu hàng hóa là động sản trong trường hợp không có thỏa thuận khác giữa người tổ
chức bán đấu giá và người mua hàng hóa.
5. Quản lí nhà nước về ĐGHH.
Quản lí nhà nước về lĩnh vực BĐGHH là vấn đề đang được quan tâm và cần được tăng
cường trong giai đoạn hiện nay. Việc quản lí nhà nước hiện nay đối với vấn đề ĐGHH
được thông qua Thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực BĐG. Việc thanh tra về BĐGHH
được giao cho thanh tra tư pháp, cụ thể là thanh tra của Bộ tư pháp, Thanh tra của Sở tư

pháp là những cơ quan có thẩm quyền thanh tra trong phạm vi quản lí nhà nước của Bộ
tư pháp, Sở tư pháp nói chung và kiểm tra về tổ chức và hoạt động của các cá nhân, tổ
chức hành nghề BĐGTS nói riêng. Riêng đối với Thanh tra Sở tư pháp thì việc tiến
hành thanh tra Trung tâm BĐG thuộc Sở tư pháp là thanh tra hành chính. Do đó, Thanh
tra Sở tư pháp có thẩm quyền thanh tra toàn diện về việc chấp hành chính sách pháp
luật và nhiệm vụ được giao của Trung tâm BĐGTS.
Tuy nhiên, thanh tra đối với các doanh nghiệp BĐGTS là hoạt động của thanh tra
chuyên ngành vì doanh nghiệp BĐGTS không phải là đơn vị thuộc quyền quản lí trực
10


tiếp của Sở tư pháp hay Bộ tư pháp. Do đó khi tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với
doanh nghiệp BĐGTS và Hội đồng BĐGTS, Đoàn thanh tra phải căn cứ vào khoản 3
Điều 4 Luật thanh tra 2004. Theo điều khoản này phạm vi thanh tra đối với doanh
nghiệp BĐGTS có giới hạn, chỉ tiến hành thanh tra với việc chấp hành pháp luật, những
quy định chuyên môn, quy tắc quản lí của ngành tư pháp.
III. Thực trạng BĐGHH và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
BĐGHH trong thương mại ở Việt Nam.
1. Hoạt động bán đấu giá hàng hóa trong thương mại hiện nay.
1.1. Thực trạng hoạt động BĐGHH trong thương mại hiện nay.
BĐGHH là một hình thức mua hàng ưu việt, đem lại lợi ích không những cho người
bán mà còn cho cả người mua. Trong môi trường bán đấu giá còn chưa phát triển như ở
Việt Nam, thì hoạt động bán đấu giá từng bước được cải thiện, ngày càng sôi nổi và thu
hút người tham gia đấu giá. Tuy nhiên hoạt động thương mại này chưa thực sự gây
được tiếng vang, cũng như chỗ đứng trên thị trường, gần đây có nhiều vụ việc xảy ra đã
gây tranh cãi và ảnh hưởng tới lợi ích của cả người mua và người bán.
Có thể thấy thực trạng BĐGHH tại VN trên một số phương diện cụ thể:
Thứ nhất, về các chủ thể tham gia BĐGHH.
Hiện nay có 63 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản đã được thành lập ở 63 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Trong quá trình củng cố, kiện toàn các Trung tâm dịch vụ

bán đấu giá tài sản, một số tỉnh đã thực hiện việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
đối với Trung tâm của địa phương mình. Số còn lại tuy cũng là đơn vị sự nghiệp có thu
nhưng vẫn đang được đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên. Nhìn chung,
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản các tỉnh, thành phố đã có khá đầy đủ phương tiện,
trang thiết bị cần thiết đáp ứng yêu cầu của công tác bán đấu giá tài sản.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản, đến nay số lượng doanh
nghiệp tăng đáng kể, đặc biệt tăng lên nhanh chóng trong năm 2007 và năm 2008. Hiện
nay cả nước có tổng số 104 doanh nghiệp nhưng chủ tập trung tại thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hà Nội có 35 doanh nghiệp, thành phố Hồ Chí
Minh có 25 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp bắt đầu mở chi nhánh cả trong và ngoài
tỉnh. Các doanh nghiệp đều được thành lập theo luật doanh nghiệp và xây dựng theo
hình thức Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần.
Tuy nhiên, dù là doanh nghiệp BĐG, TTDVBĐGTS hay Hội đồng BĐGTS đều có
chung thực trạng:
+ Đây là lĩnh vực còn mới mẻ nên hầu hết những người làm công việc này còn bỡ ngỡ,
thiếu tính chuyên nghiệp. Mặt khác, đa số doanh nghiệp BĐG kinh doanh đa ngành
nghề, trong đó BĐG chỉ là một lĩnh vực đăng kí kinh doanh mới được bổ sung do vậy
quy mô của doanh nghiệp còn tương đối nhỏ;
+ Đội ngũ đấu giá viên còn mỏng, ít kinh nghiệm thực tiễn, chủ yếu là vừa học, vừa
làm;
- Hiện tượng “bỏ cọc” và trò đùa với đấu giá từ thiện nhằm đánh bóng tên tuổi của
những người tham gia đấu giá:
+ Hiện tượng “bỏ cọc” của những người tham gia ĐGHH điển hình như trong phiên đấu
giá cổ phần Bảo hiểm Dầu khí (PVI) vào cuối năm 2006. Một số nhà đầu tư trúng giá
PVI đã không đến nộp tiền mua, chấp nhận mất tiền đặt cọc vì đã “lỡ” đặt giá quá cao.
Hiện tượng “bỏ cọc” trong phiên bán đấu giá thường gây thất thoát tiền bạc, tài sản của
nhà nước, làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của các cuộc đấu giá.
11



+ Tuy bán đấu giá từ thiện không phải là hoạt động thương mại theo quy định của pháp
luật song thực tế cho chúng ta thấy mặt trái của hoạt động bán đấu giá từ thiện nói riêng
và BĐGHH trong thương mại nói chung. Ví dụ như vụ việc “đấu giá từ thiện” với nhiều
tài sản quý giá như Bộ Tứ linh (long - lân - quy - phụng) có giá đấu khởi điểm là 40 tỷ
đồng, chiếc trống đồng kỷ vật 1000 năm Thăng Long được trả mua với giá thu về là12
tỷ đồng, bức tranh đá quý có chữ ký của khoảng 80 thí sinh Miss Earth được trả với giá
3 tỷ đồng và viên đá rubi khổng lồ được trả với giá 11 tỷ đồng….Cuộc đấu giá thu về
lên tới 75 tỷ đồng nhưng không có cá nhân, đơn vị nào thực hiện việc mua và trả tiền
như đã đề cập trong phiên đấu giá.1
Như vậy, sự không nghiêm túc trong cuộc BĐG từ thiện đã tước đi quyền thắng đấu giá
của những doanh nghiệp thực sự muốn mua và có tiềm năng tài chính; làm mất đi tính
cạnh tranh công bằng trong các cuộc BĐG.
- Bên cạnh những người tham gia đấu giá chính còn xuất hiện một đối tượng khác. Sự
xuất hiện của đối tượng này hoàn toàn lũng đoạn cuộc đấu giá, khiến cho cuộc đấu giá
không còn công bằng, làm mất tính cạnh tranh của các cuộc BĐG. Đó là “cò đấu giá”.
Hiện tượng “cò đấu giá” móc ngoặc với đấu giá viên không hiếm thấy, hiện tượng này
làm cho cuộc đấu giá đứng trước thực trạng: các đơn vị tổ chức đấu giá ngán ngẩm hiện
tượng thông đồng, còn khách hàng cũng không muốn khổ vì bị “cò” thao túng. Có thể
chỉ ra một số ví dụ sau:
• Chưa đấu giá đã biết người thắng cuộc.
Khi tham gia một cuộc bán đấu giá, buổi sáng người tham gia đấu giá có tên
trong bảng niêm yết, thông báo công khai tham gia cuộc bán đấu giá; nhưng đến buổi
chiều họ đã nhận được điện thoại sẽ được bồi dưỡng nếu ngồi im khi phát giá. Do vậy,
nhiều khách hàng sau một vài lần tham gia đấu giá các loại hàng hóa đã lần lượt rút
khỏi cuộc chơi nhường cho những đơn vị có “máu mặt”.
• “Cò đấu giá” hung hăng như xã hội đen.
Chị Nguyễn Thị H (quận Tân Bình), một khách hàng lần đầu tham gia mua tài
sản BĐG, cũng bị dằn mặt trước khi buổi đấu giá diễn ra bởi tài sản đấu giá trong cuộc
BĐG lần này là tài sản của một tay anh chị khét tiếng mới bị thụ án, tịch thu, phát mại.
Có thể thấy rằng, tình trạng trên xảy ra là do sự quản lí không có trách nhiệm cao

trong công việc của các Giám đốc Trung tâm bán đấu giá. Theo ông Nguyễn Hoàng
Huy – GĐTTDVBĐGTS thành phố HCM – trong buổi đấu giá rất khó phát hiện “cò
đấu giá” xuất hiện cũng như cấm cản bất cứ người nào có đủ tư cách công dân tham gia
và trung tâm chỉ quản lí được bên trong khuôn viên cuộc BĐG còn bên ngoài thì không
thể kiểm soát được.
Thứ hai, về thủ tục BĐG.
Theo đánh giá của các chuyên gia pháp lí, chuyên gia BĐG và cả khách hàng cho
thấy thủ tục BĐG của VN còn nhiều khê, rườm rà. Dù đã thắng trong cuộc BĐG nhưng
người mua cũng còn phải đợi để tiến hành các thủ tục khác mất rất nhiều thời gian như
thuế, thủ tục công nhận tài sản sở hữu sau khi trúng giá…trước khi nhận được tài sản.
Về thủ tục Điều 206 LTM có quy định về việc đăng kí quyền sở hữu đối với hàng
hóa bán đấu giá phải đăng kí quyền sở hữu, nghĩa vụ của người bán đấu giá khi làm thủ
tục chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua. Song ở điều luật này lại không đưa
ra các căn cứ cụ thể cho việc chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa bán đấu giá mà chỉ
quy định rất chung chung là căn cứ vào văn bản đấu giá hàng hóa và các giấy tờ hợp lệ
1 />12


khác thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm đăng kí quyền sở hữu hàng
hóa cho người mua. Điều luật không chỉ rõ giấy tờ hợp lệ là những giấy tờ nào. Ví dụ
như đối với hàng hóa của cá nhân, tổ chức cần chỉ rõ là giấy chứng nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng hàng hóa đó hoặc giấy tờ hợp lệ khác mà pháp luật quy định. Hay đối
với hàng hóa đấu giá thuộc sở hữu nhà nước thì đó phải là quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, quyết định bán hàng hóa của doanh nghiệp nhà nước có quyền bán
hàng hóa do mình quản lí và sử dụng.
Hay quy định tại Điều 205 LTM về việc người mua từ chối mua hàng hóa phải
được sự chấp thuận của người bán. Quy định này còn chưa phù hợp và gò bó, ảnh
hưởng tới quyền lợi của người mua.
Trình tự thủ tục BĐGTS thi hành án khiến nhiều người sợ mua phải tài sản thi
hành án. Có trường hợp người mua tài sản đấu giá thi hành án, tài sản đã chuyển sở hữu

cho người mua sau nhiều năm vẫn chưa nhận được tài sản do bản án còn bị nhiều cơ
quan có thẩm quyền kháng nghị, ra quyết định tạm hoãn thi hành án.
Việc niêm yết, thông báo công khai khi BĐGTS là công việc mà các doanh
nghiệp, TTBĐGTS phải làm trước khi tổ chức BĐG. Tuy nhiên, họ chỉ đăng báo lấy lệ,
thông tin mập mờ, khó hiểu, chẳng hạn như không đăng nguồn gốc tài sản và nơi để tài
sản, nhiều đơn vị không thực hiện việc dán niêm yết, thông báo theo đúng quy định của
pháp luật. Theo đó, khách hàng tiềm năng, những người muốn mua hàng thực sự sẽ mất
cơ hội đăng kí tham gia do thiếu thông tin về hàng hóa và thời gian đăng kí. Như vậy,
khả năng mua được hàng hóa với giá thấp hơn sẽ đến với những người đăng kí được,
thậm chí tạo cơ hội cho một số đơn vị có máu mặt “bày binh bố trận” trước hòng lũng
đoạn kết quả đấu giá.
1.2. Những nguyên nhân cơ bản.
Những thực trạng nêu trên trong các phiên ĐGHH được bắt nguồn từ rất nhiều
nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng trong BĐG còn chưa
hoàn thiện.
Pháp luật không cấm khách hàng từ chối mua sau khi thắng đấu giá, cũng không
cấm ngưởi tổ chức BĐGTS cho người trả giá liền kề người bỏ cuộc, không cấm khách
hàng không được quyền thỏa thuận với nhau về giá… Do vậy, đã tạo điều kiện cho
khách hàng “lách luật”, “thông đồng giá”, đưa giá cao hơn thực tế rồi rút lui, chấp nhận
bỏ cọc để lũng đoạn kết quả đấu giá. Sau đó, chia nhau làm lợi cho một nhóm người
gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Các quy định về hoạt động đấu giá hiện nay chưa
dự liệu hết tình huống này nên khi khách hàng liên kết với nhau để ép giá thì chủ sở hữu
phải chấp nhận.
Pháp luật VN về ĐGHH chưa làm rõ về giá trị pháp lí của các quan hệ có tính
chất tiến triển hướng tới việc giao kết hợp đồng đấu giá, nhưng thực tế thì hợp đồng
không được giao kết do một bên tự động chấm dứt và làm ảnh hưởng tới bên kia thì
quan hệ này có tính chất ràng buộc hay không đối với các bên chưa được làm rõ.
Pháp luật về BĐG còn chưa đủ quy định để tạo nên một cơ sở pháp lí vững chắc
bảo vệ quyền của người bán, người tổ chức đấu giá và người mua. Cần phải có những

quy định mang tiếng chuyên biệt để điều chỉnh những tình huống không dự liệu trước
được.
Thứ hai, chế tài xử lí vi phạm còn chưa đủ mạnh.
13


Chế tài xử lí vi phạm về bán đấu giá đặt ra với các đối tượng là người tham gia đấu giá,
người bán đấu giá và người điều hành cuộc bán đấu giá. Thực tế cho thấy, chế tài xử lí
vi phạm chưa đủ mạnh để răn đe người vi phạm hoặc khiến những người có ý định vi
phạm thấy e ngại nếu thực hiện hành vi vi phạm.
- Với người tham gia đấu giá có hành vi vi phạm các quy định về BĐG, Nghị định cũng
chưa quy định cụ thể chế tài xử phạt mà chỉ quy định chung chung tại khoản 3 Điều 54
như sau: “Người tham gia đấu giá tài sản có hành vi vi phạm các quy định của Nghị
định này thì tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử phạt vi phạm hành chính, hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật”. Trong khi đó, Thông tư số 23/2010/TT-BTP hướng dẫn Nghị định 17/2010/NĐCP cũng không có hướng dẫn rõ các hành vi vi phạm của người tham gia đấu giá tài sản
cũng như những hành vi nào sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, hành vi nào bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
- Nếu tổ chức bán đấu giá tài sản, người điều hành cuộc BĐGTS có các hành vi vi phạm
theo quy định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP và các quy định khác của pháp luật thì sẽ
bị xử lí theo quy định tại Điều 54. Tuy Điều 54 Nghị định 17/2010/NĐ-CP có nhắc đến
chế tài xử lí đối với 2 đối tượng nói trên song các chế tài đó đều quy định một cách quá
chung chung, do vậy ít có tác dụng răn đe. Ngoài vấn đề quy định của pháp luật còn
chưa đủ chặt chẽ, trên thực tế khi các vụ việc thông đồng, dìm giá, lũng đoạn kết quả
bán đấu giá xảy ra và đã có kết luận rõ ràng của các cơ quan chức năng để xử lí vụ việc
xong việc làm rõ và xử lí những người có trách nhiệm trong việc tổ chức, điều hành,
giám sát cuộc bán đấu giá lại chưa được chú trọng đến mức cần thiết.
Thứ ba, đội ngũ giám sát bán đấu giá còn mỏng, hoạt động kém hiệu quả.
Mục đích của việc bố trí, giám sát các phiên bán đấu giá là để phát hiện ra những dấu
hiệu vi phạm pháp luật của người tổ chức bán đấu giá, người tham gia đấu gia để từ đó

kịp thời có những xử lí nhằm nhanh chóng chấm dứt tình trạng vi phạm pháp luật về
đấu giá, bảo vệ quyền lợi của người bán hàng, người mua hàng và đem lại sân chơi
công bằng cho những người tham gia đấu giá. Tuy nhiên phản ứng của đội ngũ giám sát
bán đấu giá còn quá chậm và kém hiệu quả. Thực tế cho thấy trách nhiệm giám sát của
họ hầu như không có. Và khi các vụ việc có được kết luận chính xác của các cơ quan
chức năng thì việc xử lí đối với những người có trách nhiệm giám sát này cũng không
được đặt ra.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
đấu giá hàng hóa tại VN.
Để xây dựng thành công mô hình bán đấu giá tài sản tại VN, nhà nước ta không thể
không hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá, đặc biệt là BĐGHH trong thương mại. Thực
tế cũng cho thấy những khó khăn, tắc trách trong BĐGHH ở nước ta thường phát sinh
từ những thiếu sót, những sơ hở trong hệ thống pháp luật. Trong hoạt động bán đấu giá
ở VN còn nhiều vấn đề quan trọng nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời. Chẳng hạn,
pháp luật về BĐGHH chưa có những chế tài nghiêm khắc áp dụng đối với các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong khi tham gia quan hệ đấu giá mà vi phạm pháp luật như: các cơ
quan này có chức năng cung cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng
hóa bán đấu giá nhưng do nguyên nhân nào đó không cung cấp hoặc cung cấp rất chậm
trễ trong việc làm các thủ tục để cấp những giấy tờ này, từ đó làm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của người bán, người mua hàng hóa…
14


Bên cạnh việc quy định đầy đủ các vấn đề thiết yếu trên thực tế, có phải đảm bảo tính
hợp lí, khoa học trong các quy định về trình tự, thủ tục đấu giá hàng hóa nhằm tránh
gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân có hàng hóa đấu giá. Cũng cần nâng cao hiệu quả
hoạt động BĐGHH và hiệu lực của văn bản đấu giá theo chiều hướng tạo cơ sở pháp lí
cho việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng hóa đã được bán đấu giá. Tuy nhiên
để tăng hiệu quả hơn cho hoạt động BĐGHH thì cần thiết phải có những quy định cụ
thể hơn đối với văn bản bán đấu giá và các giấy tờ hợp lệ khác để chứng thực sự có hiệu

lực hơn với vai trò là căn cứ pháp lí cho việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng
hóa bán đấu giá.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật và thực tế áp dụng pháp luật BĐG cũng như
phân tích nguyên nhân của thực trạng bán đấu giá tại VN trên đây, có thể thấy việc đề ra
các giải pháp cho việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BĐGHH là
rất cần thiết. Pháp luật về BĐGHH cần sửa đổi, hoàn thiện trên nguyên tắc BĐG phải
được quy định chặt chẽ hơn để thực sự đảm bảo cho hoạt động BĐGHH được thực hiện
một cách có hiệu quả. Hơn nữa pháp luật về BĐGHH phải đáp ứng chủ trương xã hội
hóa, tạo sự bình đẳng giữa các tổ chức BĐGTS, góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp
và hạn chế những đầu mối BĐG không chuyên, nâng cao tiêu chuẩn đấu giá viên và
quy định chặt chẽ về điều kiện hành nghề đấu giá. Pháp luật về BĐGHH cũng cần đảm
bảo sự quản lí thống nhất của nhà nước đối với các hoạt động bán đấu giá. Do vậy,
trong tương lai cần thiết phải xây dựng một văn bản hoàn chỉnh bao quát tất cả các vấn
đề phát sinh trong lĩnh vực BĐGHH, cụ thể là cần xây dựng luật đấu giá.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, cần xiết chặt hơn chế tài xử lí vi phạm.
-Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng lũng đoạn kết quả các cuộc đấu giá
kể trên là do chế tài xử lí vi phạm chưa nghiêm. Do vậy cần sửa đổi, bổ sung hướng dẫn
khoản 3 Điều 54 Nghị định 17/2010/NĐ-CP về BĐGTS theo hướng buộc bồi thường
thiệt hại (nếu có) hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự với người tham gia đấu giá có hành
vi phá rối, cản trở cuộc đấu giá hoặc liên kết thông đồng dìm giá.
-Với trường hợp từ chối mua tài sản, cần quyết định mức phạt cao hơn nữa đối với
người tham gia đấu giá mà người đó từ chối mua hàng hóa. Quy định hiện nay về vấn
đề này, người tham gia đấu giá mua được hàng hóa nhưng lại từ chối mua hàng chỉ mất
khoản tiền mà người đó đã đặt cọc để tham gia cuộc đấu giá. Như vậy, người tham gia
mua hàng thường ít phải cân nhắc về việc rút lại giá đã trả vì họ chỉ mất một khoản tiền
nhỏ nhưng đạt được mục đích lớn hơn. Do vậy, cần quy định như sau: Khi tài sản được
đem bán cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề ít nhất bằng giá khởi điểm thì người
đã từ chối mua phải chịu trách nhiệm thanh toán phần giá trị chênh lệch giữa giá mình
đã trả so với giá bán hàng hóa cho người trả giá liền kề; khi người trả giá liền kề không

đồng ý mua hoặc trả giá liền kề thấp hơn giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá coi như
không thành và người từ chối mua phải chịu một khoản tiền phạt ít nhất bằng số tiền chi
phí để tổ chức cuộc bán đấu giá và cuộc bán đấu giá tổ chức lại sau đó để bán hàng hóa.
Quy định như vậy sẽ làm người có ý định rút giá đã trả sẽ phải cân nhắc kĩ hơn khi thực
hiện hành vi vì hậu quả kinh tế đem lại do hành vi rút lại giá là không nhỏ.
Hai là, cần quy định cụ thể về cách tính các loại thời hạn trong đấu giá hàng hóa để
khắc phục các vướng mắc có liên quan trong thực tế. Chẳng hạn như việc quy định thời
điểm thanh toán tiền mua hàng hóa theo Điều 207 LTM 05: “Thời điểm thanh toán tiền
mua hàng hóa do người tổ chức đấu giá và người mua hàng hóa đấu giá thỏa thuận,
15


nếu không có thỏa thuận thì thời điểm thanh toán tiền mua hàng hóa là thời điểm theo
quy định tại Điều 55 của Luật này”. Việc quy định như vậy có thể dẫn đến mâu thuẫn
không đáng có giữa người BĐG và người mua được hàng hóa do việc người mua không
chịu thanh toán tiền mua hàng hóa hoặc chậm trễ trong việc thanh toán vì không muốn
mua hàng nữa. Vì thế trong trường hợp này pháp luật phải quy định chính xác bao nhiêu
ngày người mua phải hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình cũng như các biện pháp
cưỡng chế sẽ áp dụng nếu không thực hiện nghĩa vụ trên.
Ba là, nâng mức tiền đặt trước và mức lệ phí hồ sơ đấu giá.
Cùng với việc nâng chế tài xử lí đối với trường hợp người mua từ chối mua hàng hóa
khi đac công bố người mua được hàng hóa thì cần nâng mức tiền đặt trước và mức lệ
phí hồ sơ đấu giá. Theo quy định hiện nay mức tiền đặt trước tối đa là 2% (khoản 2
Điều 199 LTM 05), theo Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì mức tiền đặt trước tối thiểu là
1% tối đa là 15% của giá khởi điểm. Tuy nhiên mức tối thiểu cần được nâng cao hơn, có
thể là 10% của giá khởi điểm để tránh tình trạng đăng kí tràn lan, khắc phục việc những
người tham gia đấu giá liên kết với nhau để dìm giá hoặc họ sẵn sàng chịu mất số tiền
đặt trước trong trường hợp từ chối mua tài sản với mục đích gây khó khăn cho người có
quyền và lợi ích liên quan hoặc vì mục đích vụ lợi. Đồng thời, quy định mức trần với sự
linh hoạt nhất định vẫn bảo đảm phù hợp với thực tiễn của từng địa phương.

Việc thu lệ phí để mua hồ sơ đấu giá cũng cần nâng lên một khoản nhất định để vừa
tăng thu ngân sách, vừa hạn chế việc khách hàng thông đồng dìm giá.
Bốn là, cần quy định thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đơn giản và nhanh
chóng hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển quyền đồng thời nâng cao hiệu
lực của văn bản BĐGHH. Quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng hóa, BĐGHH của người
mua được hàng hóa cần được bảo đảm theo hướng đã mua hàng hóa qua tổ chức BĐG
phải công khai thì người mua mới trở thành chủ sở hữu, chủ sử dụng hàng hóa trong
mọi trường hợp. Nếu quyền và lợi ích của người có hàng hóa đấu giá bị xâm phạm thì
cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm, kể cả phải bồi
thường thiệt hại nếu thiệt hại xảy ra trên thực tế.
Năm là, với tốc độ phát triển công nghệ thông tin như hiện nay cần quy định thêm hình
thức BĐGHH mới là BĐGHH thông qua mạng Internet nhằm đáp ứng cho đại bộ phận
những người trẻ, những người độ tuổi đi học, người trong độ tuổi lao động có nhu cầu
cần mua bán hàng hóa thông qua mạng Internet vừa tiết kiệm thời gian và chi phí. Đặc
biệt cần tạo hành lang pháp lí an toàn để bảo vệ người bán hàng hóa trước những người
mua gây nhiễu và cản trở quá trình kinh doanh của người bán và đồng thời bảo vệ người
mua hàng trước các thông số hàng hóa mà người bán đưa ra.

KẾT LUẬN
Pháp luật về bán đấu giá hàng hóa với tư cách là một bộ phận của kinh tế, đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nền kinh tế thị trường. Pháp
luật Việt Nam về bán đấu giá hàng hóa đã và đang từng bước tạo được hành lang pháp lí
vững chắc nhằm bảo vệ lợi ích cho người bán và cả người mua, khuyến khích và kích
thích mọi người tin tưởng tham gia. Sự phát triển theo hướng hoàn thiện pháp luật về
bán đấu giá hàng hóa đã thể hiện một thực tế pháp luật Việt Nam đang ngày càng hòa
nhập vào xu thế chung với pháp luật của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có
nền luật pháp phát triển.

16



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GIÁO TRÌNH
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập II), Nxb. CAND, Hà Nội,
2006;
2. Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật kinh tế (tập 2), Nxb. ĐHQG, Hà
Nội, 2006;
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
3. Luật thương mại 2005;
4. Bộ luật dân sự năm 2005;
5. Luật thanh tra 2004;
6. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về việc ban hành quy chế
đấu giá tài sản;
7. Thông tư số 23/2010/TT-BTP hướng dẫn Nghị định 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản;
8. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002;
LUẬN ÁN, LUẬN VĂN
9. Nguyễn Thị Minh Hường, Pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt
Nam, KLTN, Hà Nội, 2011;
10. Phạm Dương Minh Thu, Tìm hiểu pháp luật về bán đấu giá hàng hóa ở Việt Nam,
KLTN, Hà Nội, 2006;
BÀI VIẾT, TẠP CHÍ
11. Nguyễn Văn Mạnh, Một số bất cập của pháp luật về bán đấu giá tài sản, Tạp chí dân
chủ và pháp luật, Số chuyên đề tháng 10/2006;
12. Chưa đấu giá đã biết người thắng, Báo người lao động, ngày 15/3/2006;
13.Cuộc đấu giá từ thiện bị biến thành trò đùa, Báo điện tử Vnexpress ngày 24/11/2010;
14.;
15. www.tuvanluat.com.vn.


17



×