Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích SWOT của thương mại điện tử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.8 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thời đại kinh tế thị trường, việc các doanh nghiệp liên kết, hợp tác hay cạnh
tranh với nhau để tồn tại và phát triển đã trở nên rất quen thuộc. Tất cả nhưng hoạt động
đó đều hướng đến lợi ích của chính doanh nghiệp; mặt khác, trong hoạt động thương
mại không phải lúc nào lợi ích của các bên cũng đi đôi với nhau và trong nhiều trường
hợp lợi ích của các bên là trái ngược nhau, chính vì vậy mà trong thực tiễn hoạt động
thương mại các mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra rất nhiều và thường xuyên; ta gọi đó là
các “tranh chấp thương mại”. Khi các tranh chấp thương mại xảy ra, yêu cầu cơ bản là
phải giải quyết các tranh chấp đó, dẫn tới việc tìm hiểu và áp dụng các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam tồn tại 4 phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm: Thương lượng; Hòa giải; Trọng tài
thương mại; Tòa án. Cả 4 phương thức này đều có những ưu điểm và tầm quan trọng
riêng của nó.
Trong hoạt động thương mại thì biện pháp đầu tiên được sử dụng để giải quyết các
tranh chấp là TTTM Mặc dù nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mới
xuất hiện và được sử dụng, nhưng với những ưu điểm nổi bật thì phương thức giải
quyết tranh chấp bằng TTTM vẫn được các doanh nghiệp lựa chọn nhiều hơn cả ở các
nước phát triển. Tuy nhiên ở Việt Nam phương thức giải quyết này vẫn chưa thực sự
phổ biến, các doanh nghiệp còn chưa thực sự quan tâm nhiều đến TTTM. Nguyên
nhân của tình trạng trên là do những quy định chưa cụ thể rõ ràng trong Luật TTTM
2010. Có thể nói Luật TTTM 2010 ra đời và có hiệu lực từ 01/01/2011 đã khắc phục
được nhiều hạn chế của Pháp lệnh TTTM 2003 trước kia. Tuy nhiên luật cũng còn
nhiều điểm hạn chế, nhiều quy định còn chưa rõ ràng nên khiến cho việc áp dụng nó
trên thực tế thực sự chưa hiệu quả. Vì vậy, em xin phân tích đề tài: “Những hạn chế của
pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện”. Trong quá
trình làm bài, em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại.
1




1. Khái niệm trọng tài thương mại.
Để có thể tìm hiểu về các hạn chế của pháp luật TTTM hiện hành (cụ thể là Luật
Trọng tài thương mại năm 2010), chúng ta cần phải hiểu trọng tài thương mại là gì?
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật TTTM 2010 thì “Trọng tài thương mại là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”.
Như vậy pháp luật Việt Nam hiện hành cũng chưa đưa ra được một khái niệm cụ
thể về TTTM nhưng ta có thể hiểu: Trọng tài thương mại là hình thức tài phán mà
quyền lực của nó được tạo nên bởi chính các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại.
Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, pháp luật quy định nguyên tắc loại trừ
thẩm quyền của tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng tài.
2. Đặc điểm của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài
thương mại.
Một là, TTTM là một tổ chức phi Chính phủ hoạt động theo Luật TTTM 2010 và
quy chế TTTM Quốc tế. Tính chất phi Chính phủ của phương thức này được thể hiện:
- Hội đồng trọng tài, tổ chức trọng tài không phải được thành lập bởi Nhà nước mà
được thành lập theo sáng kiến của trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép.
- Hội đồng trọng tài, các tổ chức trọng tài và các TTV không nằm trong hệ thống
cơ quan quản lý Nhà nước, cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
- Các tổ chức trọng tài hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải mà không được cấp
kinh phí hoạt động trong ngân sách Nhà nước.
- TTV hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân
danh người thứ ba để ra phán quyết.
Hai là, nó có quyền phán quyết như Tòa án và quyết định của trọng tài cũng có
tính cưỡng chế thi hành. Mặc dù TTTM là một tổ chức phi Chính phủ nhưng hoạt động
của trọng tài vẫn luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước: Nhà nước ban hành
các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động như cấp, thay

đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các TTTT. Nhà
nước hỗ trợ các hoạt động của tố tụng trọng tài như: hỗ trợ chỉ định, thay đổi TTV,
cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài.
2


Ba là, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa
thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết
thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận. Do đó, về nguyên tắc thẩm quyền của trọng
tài không bị giới hạn bởi pháp luật, các đương sự có thể lựa chọn bất kì lúc nào, bất cứ
trọng tài ad-hoc nào hoặc bất cứ TTTT nào trên thế giới. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích
của Nhà nước (lợi ích công), một số nước trên thế giới chỉ thừa nhận thầm quyền của
trọng tài trong lĩnh vực luật tư; ở Việt Nam tuy không phân biệt luật công và luật tư
nhưng pháp luật nước ta cũng chỉ thừa nhận thẩm quyền của trọng tài trong lĩnh vực
thương mại và một số lĩnh vực nhất định (Điều 2 Luật Trọng tài năm 2010).
Bốn là, hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đảm bảo quyền tự định đoạt
của các đương sự rất cao: Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn quy tắc
trọng tài, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra một trong các nguyên tắc khi
giải quyết tranh chấp thương mại bằng TTTM là phiên họp giải quyết tranh chấp không
diễn ra công khai trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, nguyên tắc này đã thể hiện
được sự tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong giải quyết
tranh chấp.
Năm là, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị và có hiệu lực thi hành đối với các bên. Nếu một trong các bên không thi hành thì
bên kia có quyền yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài
(Khoản 5 Điều 61 và Điều 66 Luật TTTM 2010).
Sáu là, phương thức TTTM có sự hỗ trợ của Tòa án. Sở dĩ cần sự hỗ trợ của Tòa
án bởi vì phán quyết của Trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nước. Do đó, cần
phải có một cơ quan Nhà nước hỗ trợ, đó là Tòa án. Theo Luật TTTM 2010 của nước ta
quy định thì Tòa án hỗ trợ để đảm bảo thi hành thỏa thuận Trọng tài, hỗ trợ cho Trọng

tài trong việc chỉ định TTV, áp dụng các biện pháp khẩn cấp, kiểm tra, giám sát đối với
các quyết định của Trọng tài, hủy quyết định Trọng tài.
3. Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là Trọng tài vụ việc (trọng tài adhoc) và Trọng tài thường trực.
a.

Trọng tài vụ việc
3


Khoản 7 Điều 3 Luật TTTM 2010 quy định: “Trọng tài vụ việc là hình thức giải
quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thỏa
thuận”.
Đây là phương thức Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập đề giải
quyết vụ tranh chấp giữa các bên và đúng như tên gọi, TTVV tồn tại theo vụ việc. Đây
là hình thức Trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế
giới bởi những ưu thế như: có thể giải quyết nhanh chóng các vụ tranh chấp và ít tốn
kém, quyền lựa chọn TTV của các bên đương sự không bị giới hạn bởi danh sách các
TTV sẵn có như hình thức Trọng tài quy chế mà có thể lựa chọn bất kỳ TTV nào trong
và ngoài danh sách TTV của bất kỳ TTTT nào, các bên tranh chấp có quyền rộng rãi
trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên.
b.

Trọng tài thường trực.

Khoản 6 Điều 3 Luật TTTM 2010 quy định: “Trọng tài quy chế là hình thức giải
quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc tố
tụng của Trung tâm trọng tài đó”.
Ở các nước trên thế giới, hình thức này được tổ chức dưới dạng các TTT (TTTT
Quốc tế Singapore, TTTT thương mại Quốc tế Australia…), các hiệp hội Trọng tài

(Hiệp hội trọng tài Hòa Kỳ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản…) hay các viện Trọng tài
(Viện trọng tài Stockholm – Thụy Điển) nhưng TTTT là hình thức phổ biến nhất cũng là
hình thức được tổ chức ở nước ta. Việc tiến hành giải quyết tranh chấp tại các TTTT
thường được thực hiện theo quy chế do TTTT ban hành với sự tham gia của các TTV do
các bên lựa chọn. Luật TTTM 2010 cũng quy định rõ trình tự thủ tục thành lập TTTT
(Điều 24,25,26). So với PLTTTM 2003 thì Luật TTTM 2010 đã có sửa đổi, theo đó,
TTTT được thành lập không cần sự giới thiệu của Hội luật gia. Một điểm mới nữa là
Luật TTTM 2010 còn cho phép TTTT được thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở
trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, luật cũng quy định quyền và nghĩa vụ của TTTT,
các trường hợp chấm dứt hoạt động của TTTT rất cụ thể.
4. Thi hành quyết định của Trọng tài thương mại.

4


Phán quyết của Trọng tài là chung thẩm, có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
Đó là quyết định của thiết chế giải quyết tranh chấp phi Chính phủ nên cơ chế thi hành
phán quyết của trọng tài phải được đảm bảo, quy định chặt chẽ, Điều 66 Luật TTTM
2010 đã quy định quyền yêu cầu thi hành án phán quyết trọng tài, theo đó: “Hết thời
hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi
hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của
Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quant
hi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.”
Một vấn đề nữa liên quan đến việc thi hành quyết định trọng tài là các quy định về
hủy bỏ quyết định trọng tài. Về vấn đề này, trước đây PLTTTM 2003 cũng quy định
nhưng quy định này rất bất cập, gây nên tình trạng các bên tranh chấp đua nhau làm đơn
yêu cầu hủy quyết định trọng tài nhằm kéo dài thời hạn thực hiện phán quyết. Khắc
phục tình trạng này, Điều 69 Luật TTTM 2010 đã quy định rằng việc yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài chỉ có thể tiến hành nếu như có đủ căn cứ chứng minh được HĐTT đã ra
phán quyết thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật này mới

có quyền làm đơn gửi Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
II. Hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện hành.
Luật TTTM năm 2010 ra đời và kế thừa những quy định của PLTTTM 2003 trước
đó. Mặc dù Luật TTTM đã có nhiều thay đổi, nhiều điểm mới để khắc phục hạn chế của
Pháp lệnh trọng tài thương mại trước đó nhưng Luật TTTM 2010 vẫn còn một số quy
định chưa được phù hợp và còn thiếu tính chặt chẽ.
Trước khi đi sâu và tìm hiểu về những điểm hạn chế của pháp luật về TTTM hiện
hành, em xin đi qua những ưu điểm của nó.
1. Ưu điểm
- Đối tượng được giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài nhiều hơn (Điều 2 của Luật
Trọng tài thương mại).
- Việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài sẽ nhanh chóng hơn, tiết kiệm được
thời gian hơn so với phương thức tranh chấp bằng Tòa án mà vẫn đảm bảo được tính
thực thi của phán quyết.

5


- Chất lượng của việc giải quyết tranh chấp cao hơn. Có thể thấy rằng khi xây
dựng LTTTM 2010 các nhà làm luật đã dành cho trọng tài sự hỗ trợ tối đa từ phía Tòa
án. Tòa án bằng sức mạnh tư pháp của mình có thể hỗ trợ Trọng tài trong việc giải quyết
tranh chấp. Bên cạnh đó, việc quy định về phán quyết Trọng tài cũng đã có sự thay đổi
và có tính thi hành cao hơn.
- Lần đầu tiên Luật có quy định về tranh chấp liên quan đến một bên là người tiêu
dùng. Theo Luật Trọng tài thương mại (Điều 17), đối với các tranh chấp giữa nhà cung
cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, dù điều khoản Trọng tài đã được ghi nhận
trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa
thuận Trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để
giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại
Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.

- Không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là
người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm TTV ở Việt Nam nếu các bên tranh
chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Điều này đã tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt
động Trọng tài ở Việt Nam, khiến cho các TTTT trong nước phải luôn luôn tự học hỏi
và tự nâng cao chất lương hoạt động của mình. Qua đó làm cho chất lượng của các
TTV cũng như TTTT sẽ ngày càng nâng cao và hoàn thiện hơn.
- TTTM mang tính bí mật: các phiên họp giải quyết tranh chấp của Trọng tài
không được tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận được quyết định. Đây là một ưu
điểm lớn của phương thức Trọng tài khi các tranh chấp liên quan đến các bí mật thương
mại và phát minh.
- TTTM mang tính linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền tự định đoạt của các bên.
Nghĩa là các bên có quyền tự quyết định chọn hình thức tổ chức Trọng tài cũng như
TTV mà mình ưa thích; có quyền lựa chọn địa điểm, thời gian sao cho tiện với doanh
nghiệp. Như vậy so với Tòa án, các công việc đó do Thẩm phán có thẩm quyền quyết
định và doanh nghiệp phải tuân theo thì hình thức TTTM tạo cho các bên tranh chấp có
thể chủ động hơn.
6


Tóm lại, sử dụng Trọng tài trong giải quyết tranh chấp có ưu điểm: Phán
quyết Trọng tài có giá trị chung thẩm; Thủ tục linh hoạt; Thời gian giải quyết nhanh
chóng; Nội dung tranh chấp được giữ bí mật; TTV có kiến thức và kinh nghiệm
chuyên môn cao; Phạm vi thi hành phán quyết rộng (tại trên 150 quốc gia và vùng lãnh
thổ) cho nên hình thức này đã được nhiều doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn. Điều này
góp phần thúc đẩy sự phát triển và tránh được các chi phí tổn thất không đáng có cho
doanh nghiệp, tiết kiệm được thời gian kinh phí, góp phần giảm thiểu được gánh nặng
cho Nhà nước.
Bên cạnh những ưu điểm, pháp luật về Trọng tài thương mại hiện hành còn mang
nhiều hạn chế.
2. Hạn chế:

a. Thẩm quyền của Trọng tài thương mại
* Phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài
Có thể thấy mặc dù LTTTM 2010 đã mở rộng thẩm quyền của Trọng tài tuy nhiên
xung quanh vấn đề về thẩm quyền Trọng tài có nhiều ý kiến khác nhau. Và theo quan
điểm của Hội luật gia - cơ quan soạn thảo luật là thẩm quyền của Trọng tài được mở
rộng trong sự giới hạn. Tuy nhiên ta có thể thấy quan điểm này thực sự là chưa phù hợp.
Mục đích của các nhà làm luật khi vẫn giới hạn thẩm quyền của Trọng tài là nhằm
định hướng sự phát triển của hình thức Trọng tài theo hướng tập trung vào lĩnh vực
thương mại để chất lượng của hoạt động Trọng tài được nâng cao. Sau khi đã có nền
tảng đó cùng với đội ngũ TTV sẽ khẳng định được uy tín, tạo được lòng tin trong xã hội
về cách thức giải quyết tranh chấp này có như vậy thì thẩm quyền Trọng tài sẽ được mở
rộng, phạm vi các loại tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài sẽ được tăng lên.
Nhưng, để thực hiện và đạt được mục đích nâng cao chất lượng hoạt động của Trọng
tài, phổ biến hình thức giải quyết bằng Trọng tài trong xã hội thì việc định hướng thực
tiễn bằng cách tạo ra sự giới hạn về thẩm quyền của Trọng tài, chỉ chú trọng vào mảng
thương mại như vậy là không phù hợp.
*Quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp của Hội đồng Trọng tài.
Một trong những vấn đề được coi là bước tiến dài trong Luật TTTM mới là quyền
được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài, theo đó Hội đồng
7


trọng tài được áp dụng 6 biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên mặc dù Luật trao
quyền nhưng lại “quên” không quy định việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, quyết định thay đổi, áp dụng bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Hội đồng trọng tài, việc này gây vướng mắc và khó khăn khi Hội đồng
trọng tài sử dụng các quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
b. Trọng tài viên
*Tiêu chuẩn trọng tài viên
Theo quy định tại Điều 20 của LTTTM 2010 về Tiêu chuẩn TTV:

“1. Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;
b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên;
c) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh
nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có
thể được chọn làm Trọng tài viên.
2. Những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây không được làm Trọng tài viên:
a) Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức
thuộc Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành
án;
b) Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành
xong bản án nhưng chưa được xóa án tích.
3. Trung tâm trọng tài có thể quy định thêm các tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn quy định
tại khoản 1 Điều này đối với Trọng tài viên của tổ chức mình”
Theo quy định như trên thì ta có thấy rằng luật đã quy định khá khắt khe đối với
Trọng tài viên, mặc dù quy định trên của pháp luật chỉ giúp cho các bên tranh chấp có
thể chọn được một trọng tài viên am hiểu về pháp luật và có thể giải quyết các tranh
chấp một cách công bằng và đúng pháp luật nhất. Nhưng việc quy định tiêu chuẩn đối
với TTV như trên đã vô tình vi phạm quyền tự do lựa chọn TTV của các bên tranh
chấp, ảnh hưởng đến việc thành lập một Hội đồng trọng tài theo đúng ý chí của các bên.
TTV là cá nhân được các bên tin tưởng giao cho vụ tranh chấp và các bên đều ý thức
8


được vai trò đặc biệt quan trọng của TTV như vậy nên các bên tranh chấp đã phải lựa
chọn rất kỹ người “cầm cân nảy mực” đối với vụ việc của mình. Việc quy định tiêu
chuẩn về chuyên môn Trọng tài quá khắt khe như vậy là hạn chế số cá nhân muốn trở
thành TTV và đôi khi đi ngược lại với mong muốn các bên tranh chấp.
Một quy định mở mà pháp luật quy định đối với tiêu chuẩn của TTV tại Điểm c

Khoản 1 Điều 20: “Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao
và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b
khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên” nhưng mặc nhiên, lại không có
bất cứ quy định nào của pháp luật giải thích cho điều khoản này cả.
Vấn đề đặt ra là thế nào là “trường hợp đặc biệt”, “ai sẽ là người có thẩm quyền
xác định trường hợp đó là trường hợp đặc biệt”, chuyên gia có trình độ cao là như thế
nào?, nhiều kinh nghiệm thực tiễn là gì (lĩnh vực, thời gian)?. Đây là một thiếu sót của
LTTTM khi đưa ra quy định này.
*Việc chọn trọng tài viên
Theo quy định thì các bên trong quá trình soạn thảo điều khoản thỏa thuận Trọng
tài có thể thỏa thuận tên TTV, hoặc khi xảy ra tranh chấp các bên thống nhất làm một
phụ lục để chọn TTV của TTTT, nhưng vấn đề này rất khó vì các bên đã xảy ra tranh
chấp, không còn sự tin tưởng với nhau nên tất nhiên sẽ có sự nghi ngại đề nghị của một
bên trong việc chọn TTV cụ thể.
Để khắc phục hạn chế trên, pháp luật cũng đã quy định việc Chủ tịch TTTT chỉ
định TTV dựa trên cơ sở riêng của mình trong trường hợp hai bên không thống nhất
chọn được TTV.
c. Các hình thức trọng tài thương mại.
*Trọng tài vụ việc (ad-hoc)
Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) có một nhược điểm rất lớn đó là phải phụ
thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên, do tính chất của TTVV là do các bên tự thỏa
thuận để đưa vào xét xử. Vì vậy nếu một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ
luôn có nguy cơ bị trì hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài
bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng.
Mặt khác, trong TTVV, không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành Trọng tài và
giám sát các TTV. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả
9


năng kiểm soát quá trình tố tụng của các TTV. Cả TTV và các bên sẽ không có cơ hội

nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức Trọng tài thường trực trong
trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các TTV không
thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là từ các
Tòa án.
*Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế)
Mặc dù về mặt lý thuyết, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
TTTM được đánh giá là một phương thức tiết kiệm chi phí và thời gian nhưng trong
thực tế các quy định của pháp luật đã hạn chế các ưu điểm này của TTTM nhất là đối
với hình thức Trọng tài thường trực.
Về chi phí, việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài quy chế (trọng tài thường trực),
ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho các TTV, các bên còn phải trả thêm các chi phí
hành chính khác để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng tài.
Về thời gian, trong một số trường hợp quá trình giải quyết tranh chấp bị kéo dài
mà Hội đồng Trọng tài các các bên bắt buộc phải tuân thủ vì phải tuân theo các thời hạn
theo quy định của quy tắc tố tụng Trọng tài, việc này làm giảm hiệu quả của việc giải
quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài. Mặc dù các quy chế tố tụng trọng tài đã
đem lại cho Trọng tài thường trực một ưu điểm rất lớn.
d. Quá trình điều tra, xác minh sự việc, thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng
của Trọng tài để giải quyết tranh chấp
* Quá trình điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng
Các TTV có thể gặp khó khăn trong quá trình điều tra, xác minh và thu thập
chứng cứ và triệu tập nhân chứng vì tuy pháp luật có ghi nhận các quyền này tại điều
45, điều 46 và điều 47 Luật Trọng tài năm 2010 nhưng quyền của họ chỉ dừng lại ở mức
được “yêu cầu” còn việc có cung cấp chứng cứ hay không phải dựa vào sự tự nguyện và
thiện chí của các bên và người làm chứng.
Bởi Trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, được thành lập và thẩm quyền giải quyết
tranh chấp phát sinh do các bên thỏa thuận, nên không có cơ chế cưỡng chế để bắt buộc
các bên thi hành hay làm đúng theo yêu cầu của Trọng tài. Như vậy trong trường hợp
mà một trong các bên từ chối hoặc không thực hiện theo yêu cầu của Trọng tài thì
TTTM cũng không có cách gì giải quyết.

10


*Sự hỗ trợ của Tòa án
Để ngỏ cho vấn đề nêu ra ở trên, pháp luật đã quy định trong trường hợp đó thì
Trọng tài sẽ nhờ đến Tòa án để giải quyết.
Dù luật hiện hành được đánh giá khá cao về việc xây dựng cơ chế cho Tòa án hỗ
trợ Hội đồng Trọng tài trong quá trình làm việc thì vẫn còn nhiều tồn tại cần phải khắc
phục. Đó là việc pháp luật chưa quy định rõ và cụ thể các chế tài để xử lý các cá nhân
không thực hiện các quy định của Tòa án về việc thu thập chứng cứ và triệu tập người
làm chứng. Hai hoạt động này cho thấy sự hỗ trợ đáng kể của Tòa án với Hội đồng
Trọng tài nếu không có sự giúp sức của cơ quan công quyền này thì Trọng tài khó có cơ
sở thực hiện công việc của mình một cách trôi chảy. Tuy nhiên theo quy định của pháp
luật trong Luật TTTM thì sự hỗ trợ của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ có văn bản gửi
các cá nhân, tổ chức có liên quan mà chưa quy định chế tài đối với cá nhân, tổ chức
không thực hiện yêu cầu của Tòa án. Trong Bộ luật tố tụng dân sự cũng không có quy
định về vấn đề này mà chỉ có quy định về “thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến
hoạt động tố tụng thương mại”. Có thể nói đây là một mảng để ngỏ của pháp luật khiến
cho việc giải quyết tranh chấp trong thực tế gặp khó khăn, trì hoãn.
Bên cạnh đó Luật cũng chưa quy định nghĩa vụ đối với người lưu giữ sau khi cá
nhân, tổ chức đã cung cấp.
e. Phán quyết của Trọng tài thương mại.
*Việc công nhận và cho thi hành bản án và quyết định của trọng tài nước ngoài
Mặc dù pháp luật đã có quy định không yêu cầu TTV phải có quốc tịch Việt Nam.
Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm TTV ở Việt Nam
nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức Trọng tài tín nhiệm họ. Tuy nhiên Luật lại không
có quy định về vấn đề công nhận hay cho thi hành bản án, quyết định của Trọng tài
nước ngoài. Điều này đã gây khó dễ cho các công dân nước ngoài đặc biệt là các doanh
nghiệp nước ngoài khi muốn tìm hiểu về pháp luật Trọng tài của Việt Nam. Đây cũng là
một hạn chế, một thiếu sót của Luật TTTM 2010.

*Việc hủy bỏ các quyết định của Trọng tài thương mại.
Ta thấy căn cứ để hủy phán quyết của Trọng tài tại điều 68 Luật TTTM 2010 là rất
rộng và chung chung. Nên trong thực tế khi một bên không đồng ý với phán quyết cả
Trọng tài có thể ciện dẫn nhiều lý do để xin hủy phán quyết Trọng tài; khi đó Tòa án
11


buộc phải xem xét bằng việc kiểm tra thủ tục tố tụng Trọng tài chứ không xét lại nội
dung vụ tranh chấp để ra quyết định có hủy hay không. Do vậy, tùy theo từng vụ việc cụ
thể, các bên tranh chấp thường viện dẫn các lý hoặc tìm sự sai phạm (hoặc các vấn đề
trong quyết định trọng tài) để xin hủy quyết định Trọng tài nhằm bảo vệ quyền lợi cho
mình.
f. Về việc ban hành văn bản hướng dẫn Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Mặc dù Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 7 năm
2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM 2010 nhằm
hoàn thiện pháp luật về TTTM như: quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật TTTM về quản lý Nhà nước về Trọng tài, thủ tục đăng ký hoạt động,
chấm dứt hoạt động, thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm
Trọng tài, chi nhánh Trung tâm Trọng tài... Tuy nhiên vẫn còn một số quy định của điều
luật vẫn chưa được giải thích và hướng dẫn một cách cụ thể, gây khá nhiều vương mắc
cho việc thành lập các tổ chức TTTM, và dặc biệt gây khó khắn cho cho những thương
nhân, doanh nghiệp muốn sử dụng phương thức TTTM để giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong quá trình hoạt động thương mại.
III. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Trọng tài thương mại hiện hành
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTTM thì em xin đưa ra một số kiến nghị và
biện pháp sau:
- Đối với việc mở rộng thẩm quyền T

rọng tài thì Nhà nước nên để thực tiễn phát


triển theo đúng quy luật của nó. Thẩm quyền Trọng tài vẫn được mở rộng như trong các
dự thảo lần trước đó tức là cho phép Trọng tài giải quyết tất cả các tranh chấp loại trừ
một số tranh chấp về nhân thân hay về hành chính. Khi đó nếu chất lượng hoạt động
Trọng tài trong các lĩnh vực mới như dân sự, vận tải, xây dựng…không cao thì thực tiễn
sẽ bài trừ hình thức giải quyết tranh chấp này và ngược lại nếu hoạt động Trọng tài
trong lĩnh vực trên phát triển thì thực tiễn sẽ vận động để nâng cao chất lượng của hoạt
động này. Do đó pháp luật nên quy định thẩm quyền Trọng tài theo hướng phương pháp
loại trừ như pháp luật ở hầu hết các nước và cũng như dự thảo lần đầu của Luật này.
- Cần phải có quy định rõ ràng và cụ thể về việc thi hành các quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định thay đổi, áp dụng bổ sung, hủy bỏ biện pháp
12


khẩn cấp tạm thời của Hội đồng Trọng tài. Như: khi Hội đồng Trọng tài ra quyết dịnh
áp dụng biện pháp khẩn cấp thì “ai” có trách nhiệm thực hiện các biện pháp đó, việc
thay đổi quyết định như thế nào, việc áp dụng bổ sung ra sao, các trường hợp cụ thể để
hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp,…
- Đối với những quy định về tiêu chuẩn của TTV thì nên xóa bỏ các tiêu chuẩn về
chuyên môn của Trọng tài viên mà thay vào đó:
+ Cần xây dựng một bộ khung pháp lý hợp lý để hoạt động Trọng tài phát triển
giúp TTV có môi trường làm việc thật tốt.
+ Đội ngũ TTV nước ngoài sẽ là động lực để đội ngũ TTV trong nước nâng cao
chất lượng hoạt động của mình; nhưng đi cùng với đó, Nhà nước cũng cần quản lý bộ
phận TTV nước ngoài chặt chẽ để tránh thiệt hại không đáng có cho các bên.
+ Nâng cao năng lực TTV bằng các biện pháp khuyến khích như cấp học bổng
cho các TTV về các khóa học về giải quyết tranh chấp hay về TTTM… để từ đó phát
huy năng lực của các TTV.
- Cần quy định một cơ chế hoạt động cụ thể cho Trọng tài vụ việc, đồng thời phải có
cơ chế giám sát hoạt động của TTVV khi hình thức này được các bên thỏa thuận thành
lập, điều này đê hạn chế sự phụ thuộc của TTVV vào ý chí của các bên tranh chấp.

Ngoài ra pháp luật nên có quy định, khi TTVV được thành lập, nó có thẩm quyền như
một Trọng tài quy chế và không còn phụ thuộc vào ý chí các bên tranh chấp nữa.
- Cần cắt giảm các chi phí và thủ tục tố tụng không cần thiết đối với hình thức
Trọng tài thường trực. Có như vậy thì TTTM mới phát huy được những ưu điểm của
mình và được các bên tranh chấp lựa chọn để giải quyết các tranh chấp thương mại.
- Cần phải đưa ra các biện pháp cụ thể để Trọng tài có thể tự thực hiện việc xác
minh sự việc, thu thập chứng cứ hay triệu tập nhân chứng. Theo đó cũng cần đưa ra các
chế tài đối với cá nhân, tổ chức không thực hiện yêu cầu Tòa án liên quan đến hoạt
động Trọng tài; đồng thời cũng cần quy định chế tài đối với các cá nhân, tổ chức lưu giữ
chứng cứ trong thời gian chờ đợi để giao chứng cứ cho HĐTT.
- Bổ sung các quy định của pháp luật về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngoài. Cụ thể về các vấn đề pháp lý như: thừa nhận hiệu lực pháp lý của các
phán quyết, phạm vi thừa nhận,…

13


- Quy định một các cụ thể chi tiết các trường hợp hủy bỏ quyết định Trọng tài, để
tránh trường hợp bên tranh chấp vì không đồng ý với phán quyết của Trọng tài mà viện
dẫn các lý do để hủy quyết định Trọng tài. Có thể quy định chi tiết điều luật này trong
các văn bản hướng dẫn như Nghị định, Thông tư,…
- Có thể do hình thức Trọng tài ít được áp dụng và mới trở nên dần phổ biến từ khi
xuất hiện nền kinh tế thị trường nên các văn bản, cũng như các điều luật quy định về
vấn đề trọng tài thương mại còn ít và quy định chưa rõ ràng. Vì vậy, trong thời gian tới
cần điều chỉnh, ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều
luật về Trọng tài thương mại đã ban hành mà chưa rõ ràng, nhằm tạo hành lang pháp lý
rõ ràng cho các doanh nghiệp, thương nhân muốn thanh lập trung tâm thương mại hay
sử dụng TTTM làm phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.

KẾT LUẬN

Trọng tài thương mại tuy là hình thức giải quyết tranh chấp thương mại đầu tiên và
cũng phổ biến nhất trên thế giới nhưng tại Việt Nam hình thức này vẫn còn chưa phát
triển và được sử dụng để giải quyết tranh chấp một cách rộng rãi (các tranh chấp dùng
TTTM để giải quyết phần lớn là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài) mặc dù đã xuất
hiện và được pháp luật thừa nhận trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Lý
do một phần là các quy định pháp luật về vấn đề này còn nhiều hạn chế, vẫn chưa phù
hợp với thực tiễn hoạt động thương mại tại Việt nam và cũng chưa phát triển như các
hình thức TTTM Quốc tế.
Trọng tài thương mại là một hình thức phù hợp để giải quyết các tranh chấp
thương mại vì đặc tính mền dẻo, linh hoạt, tiết kiện chi phí và thời gian hơn phương
thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Một khi có thể khắc phục được những hạn chế,
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong tài sẽ trở nên ngày càng phổ
biến ở Việt nam và được các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn, giảm nhẹ gánh nặng phải
giải quyết các tranh chấp của tòa án, đồng thời các tranh chấp thương mại cũng được
giải quyết một cách nhanh gọn hơn.
14



×