Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

VAI TRÒ của HOẠT ĐỘNG QLNN đối với hđ XUẤT bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.07 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, xuất bản đã trở thành một ngành kinh tế-công nghệ có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển xã hội. Mặc dù xét trên phương diện kinh tế, xuất bản
không phải là một ngành kinh tế mũi nhọn bởi hầu hết các quốc gia, xuất bản chỉ
chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng giá trị sản phẩm kinh tế quốc dân. Song, xét trên
phương diện khoa học và giáo dục, xuất bản giữ vai trò vô cùng to lớn. Đảng ta
khẳng định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Là
một binh chủng có sức mạnh riêng trong hoạt động tư tưởng-văn hoá của Đảng và
nhà nước, xuất bản với sản phẩm cơ bản là sách chính là công cụ trực tiếp xây dựng
và nâng cao nền tảng và trình độ tri thức của dân tộc ta, cho toàn xã hội ta. Ở đây,
hiệu quả của xuất bản, của sách mang ý nghĩa và giá trị lâu dài, bền vững, cơ bản.
Xuất bản là thành tố trực tiếp và cơ bản góp phần nâng cao dân trí, xây dựng,
bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài. Xuất bản phẩm là phương tiện đối ngoại hiệu
quả, là phương thức giao lưu văn hoá quan trọng để Việt Nam hội nhập quốc tế và
mở rộng giao lưu văn hóa. Không có một loại hình sản xuất tinh thần nào có thể
thay thế được vai trò của hoạt động xuất bản, của sách. Thiếu sách sẽ là nguyên
nhân trực tiếp để không xây dựng và tạo ra được bước phát triển mới của dân trí
đáp ứng yêu cầu gay gắt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng ta
đã chỉ ra, đó là làm cho “cả nước trở thành một xã hội học tập” (Nghị quyết Đại hội
IX).
Những năm gần đây, bên cạnh những thành tựu to lớn thì quản lý nhà nước
đối với xuất bản ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: Mô hình tổ chức và cơ
chế chính sách cho hoạt động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt động xuất bản có
những khó khăn, thách thức gay gắt, một số nhà xuất bản chỉ chú ý đến lợi ích kinh
tế đơn thuần, coi nhẹ chức năng, nhiệm vụ chính trị, văn hóa; xuất hiện một số xuất
bản phẩm có nội dung không lành mạnh, không phù hợp với truyền thống văn hóa

-1-



Nước ta, bị dư luận phê phán; một bộ phận khác hoạt động kém hiệu quả, kém năng
động, còn nặng về trông chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái phép chưa được ngăn chặn,
xử lý kịp thời, thị trường xuất bản phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống phát
hành xuất bản phẩm Nhà nước không được quan tâm, củng cố đúng mức, đang có
nguy cơ bị thu hẹp, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ IX - Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: "Công tác quản lý báo
chí, truyền hình, internet, xuất bản vẫn còn nhiều lơi lỏng, kém hiệu lực". Do đó,
tăng cường quản lý nhà nước về xuất bản là vấn đề quan trọng luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm.
Chính vì vậy, việc nhận thức được vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất bản là một đòi hỏi khách quan, vừa có ý nghĩa cấp thiết, nhất là đối với
những người học và làm công tác quản lý văn hóa. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài:
"Vai trò của quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay".
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Nghiên cứu những vấn đề lí luận của hoạt động xuất bản, vai trò
của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản, đánh giá thực trạng của hoạt động
này trong những năm vừa qua ở nước ta. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta
hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết liên quan.
+ Tập hợp những lý thuyết và số liệu thực tiễn để đánh giá vai trò của quản lý
nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Xây dựng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất bản.

-2-



- Phạm vi: Để thực hiện các nhiệm vụ trên chúng tôi thực hiện nghiên cứu
tổng thể hoạt động xuất bản nói chung nhưng tập trung nghiên cứu về quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất bản trong lĩnh vực xuất bản, trong đó xuất bản sách là
trọng tâm.
Những số liệu sử dụng trong tiểu luận chủ yếu là các số liệu của hoạt động
xuất bản kể từ năm 2010 trở lại đây.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu kết hợp lí luận và thực tiễn; phân tích
và tổng hợp lịch sử cụ thể; cùng một số phương pháp khoa học quản lí khác.

-3-


NỘI DUNG
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1

Hoạt động xuất bản

1.1.1 Khái niệm
Theo Từ điển xuất bản: Xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa tư
tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến xuất bản phẩm đến nhiều người1. Theo
Khoản 1, Điều 4 Luật Xuất bản 2012: Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo,
biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các
phương tiện điện tử2.
Theo nghĩa rộng, xuất bản được hiểu theo 3 nội dung sau:
Thứ nhất, xuất bản là hoạt động tổ chức bản thảo, biên tập bản thảo cho phù
hợp với nhu cầu, thị hiếu của độc giả và tiêu chí của NXB.

Thứ hai, xuất bản là hoạt động nhân bản hàng loạt các bản thảo đã được gia
công sửa chữa, biên tập nội dung, thiết kế hình thức phù hợp dưới một dạng vật
chất nhất định. .
Thứ ba, xuất bản là hoạt động truyền bá, phổ biến rộng rãi các sản phẩm
chứa thông tin sau khi đã được biên tập và nhân bản.
Theo nghĩa hẹp, hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức việc sáng tạo, tác
động vào quá trình sáng tác của tác giả để có bản thảo tác phẩm, xử lý và hoàn
chỉnh bản thảo, bản mẫu, in thành các xuất bản phẩm nhằm phục vụ nhiều người.
1.1.2 Đặc điểm hoạt động xuất bản

1
2

: Giang Thiệu Thanh (2007), Từ điển xuất
: Quốc hội (2012), Luật xuất bản 2012

bản, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội

-4-


Đặc điểm thứ nhất: hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá tư tưởng
vừa là hoạt động kinh tế:
Xét về phương diện mục đích và hiệu quả thì xuất bản hướng tới việc cảm
hoá con người, cải tạo con người, để cải tạo thiên nhiên và xã hội vì mục đích của
con người. Nó là một hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ và vì trí tuệ. Song khi
các sản phẩm của trí tuệ là sách đã “nhiễm” vào con người thì nó không thể chỉ là
dạng tinh thần, mà đến “cái ngưỡng” nhất định nó sẽ chuyển hoá thành lực lượng
vật chất.
Nhưng hoạt động văn hoá - tư tưởng không thể xã hội hoá, không thể

chuyển tải các ý tưởng của mình tới công chúng khi không có các điều kiện vật
chất nhất định, không thông qua hoạt động sản xuất. Vì vậy, hoạt động xuất bản
còn là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế.
Đặc điểm thứ hai: Hoạt động xuất bản là quá trình lao động trí óc với quá
trình sản xuất đặc thù.
Xuất bản là một loại ngành nghề, và nó trở thành một ngành kinh tế - kỹ
thuật đạt lợi nhuận cao ở các nước phát triển. Hoạt động của nó là dạng hoạt động
sản xuất vật chất đặc biệt. Tính đặc biệt do đòi hỏi của sản phẩm sách quy định.
Toàn bộ quy trình sản xuất hàng hoá sách là một quá trình của lao động tư duy, lao
động trí óc. Đây là nhu cầu khách quan của việc sản xuất sản phẩm văn hoá tinh
thần. Bởi vì chỉ có tư duy và tư duy sáng tạo mới “đẻ” ra những “đứa con tinh
thần”. Từ đó thông qua một quy trình sản xuất đặc thù, giá trị tinh thần do tư duy
mang lại được vật chất hoá thành xuất bản phẩm.
Để hình thành được tác phẩm, các tác giả phải trải qua một quá trình “thai
nghén”. Quá trình lao động của họ là quá trình nhận thức và phản ánh thế giới. Các
sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội, thông qua các giác quan và tư duy của
nhà văn, nhà khoa học, nó trở thành những cái điển hình, những hình tượng của
nghệ thuật, các quy luật của sự phát triển. Quá trình lao động đó là quá trình huy

-5-


động chất xám đã được tích luỹ, bổ sung chất xám mới để sáng tạo ra tác phẩm. Giá
trị tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của tác phẩm là sản phẩm của trí tuệ.
Đặc điểm thứ ba: Hoạt động xuất bản tạo ra sản phẩm là một loại hàng
hoá đặc biệt
Là một loại sản phẩm của quá trình sản xuất vật chất, xuất bản phẩm là
kết quả của lao động sống và lao động quá khứ được vật chất hoá, Vì vậy, xuất bản
phẩm cũng có giá trị và giá trị tự sử dụng. Khi vào lưu thông nó trở thành hàng
hoá. Và chính từ thị trường trao đổi, mới có thể thực hiện giá trị của nó. Nhưng

sách là một loại hàng hoá đặc biệt. Tính đặc biệt ở đây là do tính đặc biệt của giá
trị và giá trị sử dụng của sách quy định.
Giá trị lao động xuất bản khác lao động sản xuất khác nó bao gồm giá trị nội
dung, tinh thần mà nó chuyển tải.
Xuất bản phẩm không chỉ thoả mãn tiêu dùng tức thời, mà còn lưu lại sau
tiêu dùng khá dài, thậm chí không xác định được thời gian. Các giá trị tinh thần của
xuất bản phẩm được tiêu dùng không những không mất đi, mà còn chuyển hoá
thành lực lượng vật chất, để con người có hành động tích cực cải tạo thiên nhiên,
cải tạo xã hội và cải tạo chính mình.
Tóm lại, hoạt động xuất bản là hoạt động sản xuất đặc biệt, sản phẩm của nó
cũng đặc biệt và ảnh hưởng lâu dài đến xã hội. Hoạt động xuất bản vừa phải tuân
thủ theo những quy luật văn hóa, tư tưởng, khoa học, vừa phải tuân theo các quy
luật kinh tế nói chung và các quy luật của kinh tế thị trường nói riêng.
1.2

Quản lý hoạt động xuất bản

1.2.1 Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
Quản lý nhà nước

-6-


Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội, là sự tác động có tổ
chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật
tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước 3.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản
Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là sự tác động của Nhà nước
lên các NXB, cơ sở in và phát hành thông qua quá trình xây dựng chiến lược, chính
sách pháp luật; tổ chức, chỉ đạo; kiểm soát hoạt động xuất bản, tạo ra môi trường
thuận lợi nhất sao cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng, góp phần
nâng cao dân trí, có hiệu quả cao một cách bền vững trong điều kiện biến động của
môi trường trong nước và quốc tế.
Khái niệm nêu trên bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất: Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản là phát
triển hoạt động xuất bản đúng định hướng của Đảng và Nhà nước; nâng cao dân trí
và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân; nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt
động xuất bản.
Thứ hai: Đối tượng quản lý là hoạt động xuất bản tại các NXB, các cơ sở in
và phát hành.
Thứ ba: Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản, theo nghĩa
rộng là bộ máy quản lý nhà nước gồm nhiều cơ quan quản lý các lĩnh vực, các
ngành khác nhau của nền kinh tế quốc dân; theo nghĩa hẹp là Bộ TTTT. Chính phủ
thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản trong phạm vi cả nước. Bộ
TTTT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động
xuất bản.
3

: Đinh Văn Mậu Nguyễn Văn Thâm, Võ Kim Sơn (2010), Giáo trình quản lý

hành chính nhà nước, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, trang 407.

-7-


Thứ tư: Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản xét theo quá

trình quản lý, bao gồm: Xây dựng chiến lược, chính sách; Xây dựng và tổ chức
thực hiện chính sách và quy định pháp luật; Kiểm soát hoạt động xuất bản.
1.2.2 Nội dung, đặc điểm quản lý hoạt động xuất bản
Nội dung
Thứ nhất, đưa ra các cơ chế, chính sách và ban hành các quy phạm pháp
luật về xuất bản.
Đây là một nội dung cơ bản của quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất bản
vì các văn bản pháp luật xuất bản là cơ sở đầu tiên và quan trọng để quản lí nhà
nước đối với hoạt động xuất bản có hiệu quả.
Hoạt động ban hành pháp luật xuất bản là hoạt động phức hợp gồm nhiều giai
đoạn kế tiếp nhau, do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng, quyền hạn khác nhau tiến
hành, từ sáng kiến xây dựng pháp luật đến việc công bố văn bản pháp luật. Trong tất
cả các giai đoạn của hoạt động xây dựng pháp luật xuất bản đều đòi hỏi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của quá trình
xây dựng pháp luật xuất bản.
Như vậy, hoạt động ban hành pháp luật xuất bản phải thể chế hóa được các
chủ trương, đường lối của Đảng, phải phù hợp với thực tiễn, phản ánh được xu thế
vận động của các quy luật khách quan, bảo đảm tính đồng bộ trong nội tại trong hệ
thống quy định của pháp luật xuất bản, tính thống nhất với cả hệ thống pháp luật của
Nhà nước; bảo đảm điều chỉnh toàn diện, đầy đủ các quan hệ cơ bản trong hoạt động
xuất bản; hệ thống các quy định phải cụ thể; ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, chính xác,
đồng thời hệ quy định cũng phải bảo đảm tính tương đối ổn định; các văn bản pháp
quy phải kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh trong lĩnh vực xuất
bản…
Thứ hai, các cơ quan Nhà nước tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách và
các quy định của pháp luật xuất bản. Các cơ quan này bao gồm:

-8-



+ Hoạt động của Quốc hội trong việc quyết định và thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với mọi hoạt động xuất bản trong phạm vi cả nước.
+ Hoạt động của Chính phủ, UBND cấp tỉnh, Bộ Văn hóa thông tin; Sở Văn
hóa thông tin trong: quản lí, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp xuất
bản; quản lí việc thực hiện kế hoạch xuất bản; lưu chiểu, kiểm tra lưu chiểu; tổ chức
nhân sự.
Thứ ba, hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong thanh tra, kiểm tra, giả
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật xuất bản.
Đây là hoạt động thanh tra việc xuất bản, in, phát hành; thanh tra việc thi
hành Luật xuất bản; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lí các hành vi vi
phạm pháp luật xuất bản do các cơ quan quản lí hành chính trong lĩnh vực này tiến
hành.
Đặc điểm
Thứ nhất, quản lí nhà nước về xuất bản là mở đường cho hoạt động sáng tạo
ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học để công bố dưới hình thức xuất
bản.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ xuất bản rất đa dạng, phong phú và
phức tạp. Nhu cầu về tự do, sáng tạo ra các giá trị khoa học, văn học, nghệ thuật là
nhu cầu tự nhiên. Các sản phẩm sáng tạo có giá trị chỉ được thực hiện khi tư duy
trong tình trạng hưng phấn cao. Mọi sự gò bó, khống chế là ngăn chặn hoạt động
sáng tạo. Nhưng sự an toàn của tự do ngôn luận, của tự do tư duy sáng tạo, của bình
đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm phải được bảo đảm bằng pháp luật.
Đòi hỏi này bắt nguồn từ quyền con người, với tư cách là chủ thể sáng tạo và chủ
thể hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần. Nhà nước khẳng định các giá trị xã hội
của quyền con người, nên đã ghi nhận và thể chế hóa các quyền con người, quyền
công dân và bảo đảm về mặt pháp lí cho các quyền đó được thực hiện. Do được ghi
nhận một cách chính thức các giá trị về quyền tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu,

-9-



sáng tác, bình đẳng trong công bố và phổ biến tác phẩm, pháp luật trở thành phương
tiện để các tác giả bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
Nhà nước quản lí hoạt động của tư duy sáng tạo trong xuất bản bằng pháp
luật, là khuyến khích tài năng sáng tạo và đề cao các tác phẩm có giá trị về khoa
học, về nghệ thuật. Chính từ cơ chế thị trường được pháp luật thừa nhận, là nơi đánh
giá công minh các tác phẩm. Ở đó, công chúng với tư cách là người tiêu dung sẽ là
thước đo về năng lực sáng tạo của tác giả qua tác phẩm.
Thứ hai, quản lí nhà nước về xuất bản là bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân
tộc, hiện đại, nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học – công
nghệ của nhân loại.
Văn minh của loài người được nhân loại đánh giá ở các nền văn hóa có bản
sắc, ở các cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử. Mỗi dân tộc có cội nguồn, có
truyền thống riêng, được phản chiếu lên tấm gương văn hóa. Nó là gia sản quá khứ,
tạo nên dòng chảy cho hiện tại và tương lai dân tộc. Đảng và Nhà nước ta coi văn
hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, việc
bảo tồn, kề thừa phát triển những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc là quốc sách,
được ghi nhận trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, và 1992.
Nhà nước khuyến khích bồi dưỡng tài năng nghiên cứu, sáng tạo ra các giá trị
tinh thần mới, làm giàu vốn văn hóa dân tộc. Đồng thời trao vào tay họ các quyền
cao cả mang tính nhân văn sâu sắc trong hoạt động văn hóa nói chung, xuất bản nói
riêng. Và cũng vì vậy, quản lí nhà nước về xuất bản đã đưa ra các chế tài nghiêm
khắc đối với những hành vi truyền bá xuất bản phẩm có nội dung trái với thuần
phong mĩ tục, truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nhằm bảo vệ bản
sắc văn hóa dân tộc.
Nhu cầu giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa của nhân loại
là nhu cầu của bản than nên văn hóa dân tộc. Mặt khác, trong thời đại bùng nổ thông
tin hiện nay, với sự phát triển nhảy vọt của Internet, của khoa học và công nghệ, thì

- 10 -



việc nhận thức và ứng dụng các tiến bộ mới của khoa học là đòi hỏi bức thiết. Mỗi
dân tộc phải biết làm giàu bởi trí thức của nhân loại. Điều đó chỉ được thực hiện khi
nhà nước trao cho các chủ thể được xác định các quyền và nghĩa vụ trong các quan
hệ quốc tế về xuất bản.
Thứ ba, quản lí nhà nước về xuất bản là quản lí thuộc lĩnh vực văn hóa tư
tưởng, đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với thuộc tính là hoạt động văn hóa – tư tưởng, hoạt động sản xuất kinh
doanh, xuất bản chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các quy luật phát triển văn
hóa và hệ thống các quy luật kinh tế. Do tính chất phức tạp như vậy nên yêu cầu
quản lí nhà nước về xuất bản được đặt ra bức thiết hơn. Quản lí nhà nước về xuất
bản phải mở đường cho sự sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những độc hại, tiêu cực do
xuất bản gây ra đối với văn hóa, tư tưởng; phải định hướng cho xuất bản phát triển
theo đúng quy luật kinh tế, ngăn ngừa những tác hại từ mặt trái của cơ chế thị
trường. Nếu chúng ta coi xuất bản như các tổ chức kinh tế đơn thuần sẽ dẫn đến tình
trạng hoạt động xuất bản bị thương mại hóa, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh doanh;
ngược lại, nếu chúng ta chỉ đề cao vai trò của xuất bản ở phương diện văn hóa, tư
tưởng sẽ dẫn đến khả năng bất chấp quy luật kinh tế. Như vậy, hoạt động xuất bản
sẽ phá sản trong điều kiện kinh tế thị trường.
Có thể nói, quản lí nhà nước về xuất bản là quản lí hoạt động kinh tế trong
văn hóa tư tưởng, đồng thời quản lí hoạt động văn hòa, tư tưởng trong cơ chế thị
trường. Đó là hai mặt của một vấn đề phải được quản lí một cách hài hòa, đảm bảo
cho xuất bản hoạt động đúng quy luật.

Chương 2:
VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT
BẢN

- 11 -



2.1 Thực trạng quản lý hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay
2.1.1.Về quy hoạch, chính sách và quy định pháp luật
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò đặc biệt của hoạt động xuất bản, những năm
qua, Đảng và Nhà nước đã xây dựng những định hướng chiến lược thích hợp, tạo
điều kiện cho xuất bản phát triển trong cơ chế thị trường, định hướng XHCN. Để
thực hiện các định hướng chiến lược, tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phát
triển, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã ra nhiều văn bản chỉ đạo, quản lý
đối với hoạt động xuất bản. Tiêu biểu có các văn bản như: Chỉ thị 08 CT/TW ngày
31/3/1992 của Ban bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác báo chí - xuất bản”; Chỉ thị 22-CT/TW ngày 1710- 1997 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
công tác báo chí, xuất bản”; Đặc biệt là Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25/8/2004 của Ban
Bí thư về “Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản”.
Công tác quy hoạch ngành xuất bản đã được Chính phủ quan tâm thực hiện.
Ngày 16/1/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 115/QĐ-TTg về việc
Phê duyệt Quy hoạch phát triển xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030. Quy hoạch nêu rõ quan điểm, mục tiêu và giải pháp
của Nhà nước nhằm phát triển ngành xuất bản đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
Công tác ban hành pháp luật về xuất bản cũng được chú trọng quan tâm
đúng mức, tính đến nay, đã có 4 đạo Luật Xuất bản được ban hành: năm 1993,
2004, 2008, 2012
Nghị định 195/2013/NĐ-CP của Chính phủ, ban hành ngày 21/11/2013 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản. Nghị định quy định
cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc thực hiện
quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản; trách nhiệm của các Bộ có liên quan; điều
kiện thành lập và hoạt động của NXB trong đó quy định rõ trách nhiệm của cơ

- 12 -



quan chủ quản của NXB phải duy trì các điều kiện hoạt động cho NXB như sau:
2
Trụ sở của nhà xuất bản có diện tích từ 200 mét vuông (m ) sử dụng trở lên; có ít
nhất 05 (năm) tỷ đồng để bảo đảm hoạt động xuất bản; có đủ trang thiết bị để tổ
chức xuất bản. Ngoài ra, cơ quan chủ quản và nhà xuất bản bảo đảm kinh phí hằng
năm ít nhất 05 (năm) tỷ đồng, để nhà xuất bản thực hiện nhiệm vụ xuất bản theo
tôn chỉ, mục đích của nhà xuất bản.
Nghị định 159/2013/NĐ-CP của Chính phủ, ban hành ngày 12/11/2013, có
hiệu lực từ ngày 01/01/2014 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
báo chí, xuất bản. Nghị định quy định cụ thể các hành vi vi phạm và mức xử phạt
đối với các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động xuất bản. Đặc biệt, Nghị
định bổ sung quyền xử phạt của Cục trưởng Cục XBIPH được quyền xử phạt đến
100 triệu đồng.
Thông tư số 23/2014/TT-BTTTT của Bộ TTTT, ban hành ngày 29/12/2014,
có hiệu lực từ ngày 15/2/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Xuất bản và Nghị định 195/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản. Thông tư hướng dẫn thêm về
việc ghi thông tin trên xuất bản phẩm, việc đổi giấy phép hoạt động in xuất bản
phẩm và yêu cầu về giải pháp kỹ thuật kiểm soát bản quyền số đối với xuất bản
phẩm điện tử.
Cho đến nay, có thể nói, các quy định pháp luật về xuất bản là khá đầy đủ,
tuy nhiên, việc thực hiện vẫn còn chưa nghiêm, một số quy định còn chưa rõ, dẫn
đến các cách hiểu khác nhau. Đơn cử, điều 8, Nghị định 195/2013/NĐ-CP quy định
cơ quan chủ quản NXB phải cấp vốn 5 tỷ cho NXB nhưng lại không nói rõ là vốn
bằng tiền mặt hay tính cả cơ sở vật chất, trang thiết bị; vốn đã cấp hay vốn chủ sở
hữu hiện tại của NXB? Còn có các quy định dưới luật vẫn được viết theo nghĩa bổ
sung luật chứ không dừng ở việc quy định chi tiết thi hành. Đơn cử, khoản 1, điều
11 Nghị định 195/2013/NĐ-CP bổ sung thêm nghĩa vụ của NXB phải trực tiếp ký


- 13 -


hợp đồng in khi liên kết xuất bản cũng gây không ít khó khăn, lúng túng cho cả
NXB lẫn đơn vị liên kết.
Một số chính sách khuyến khích hoạt động xuất bản đã được ban hành và
đem lại một số kết quả nhất định, tiêu biểu có:
-

Chính sách tài trợ, đặt hàng xuất bản phẩm: Thông tư liên tịch số

11/TTLB ngày 20/2/1993 của Bộ Tài chính và Bộ Văn hóa thông tin về “Hướng
dẫn thực hiện chính sách tài trợ đối với xuất bản, báo chí” đã quy định rõ: Sách là
sản phẩm văn hóa – tư tưởng, Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách tài trợ đối
với một số NXB nhằm mở rộng việc tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng,
nâng cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Nhà nước dành một
phần ngân sách để tài trợ cho sự nghiệp xuất bản nhằm đảm bảo cho cơ quan xuất
bản hoạt động đúng định hướng, phục vụ đúng đối tượng.
-

Chính sách trợ cước vận chuyển: Thông tư số 753/UB-TT ngày

3/12/1996 của Ủy ban dân tộc và miền núi về chính sách trợ cước vận chuyển xuất
bản phẩm lên miền núi đã quy định rõ: danh mục sách, số lượng bản, trọng lượng,
cự ly được tính trợ cước vận chuyển và phân công trách nhiệm, sự phối hợp tổ
chức, thực hiện giữa các bộ ngành, địa phương.
-

Nhà nước có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với


hoạt động xuất bản. Tuy nhiên chính sách giảm thuế này hiện nay đang tạo ra sân
chơi không bình đẳng giữa các NXB và các đơn vị làm sách tư nhân. Cùng hoạt
động trong lĩnh vực xuất bản như nhau nhưng chỉ có “nhà xuất bản” mới được áp
dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi (10%) cho phần thu nhập từ hoạt
động xuất bản.
Chính sách khuyến khích và ưu đãi thuế đối với hoạt động xuất bản tương tự
các lĩnh vực nhà nước khuyến khích xã hội hóa như giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y
tế, văn hóa, thể thao và môi trường. Điều này thể hiện bằng việc Chính phủ ban
hành Nghị định số 122/2011/NĐ-CP (NĐ 122) ngày 27-12-2011 sửa đổi, bổ sung

- 14 -


một số điều của Nghị định số 124/2008/NĐ-CP (NĐ 124) quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) số
14/2008/QH12. Cụ thể, khoản 11, điều 1, NĐ 122 quy định thuế suất thuế TNDN
10% trong suốt thời gian hoạt động đối với phần thu nhập của doanh nghiệp hoạt
động xuất bản. Khoản 3b, điều 19, Thông tư số 123/2012/TT-BTC (TT 123) ngày
27-7-2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế TNDN
và hướng dẫn thi hành NĐ 124, NĐ 122 cũng hướng dẫn cụ thể: phần thu nhập của
doanh nghiệp có được từ hoạt động xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản áp
dụng thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt động. Hoạt động xuất bản bao
gồm các lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm theo quy định tại Luật
Xuất bản.
Như vậy, kể từ khi NĐ 122 và TT 123 có hiệu lực thi hành, chính sách
khuyến khích và ưu đãi thuế đối với hoạt động xuất bản áp dụng cho tất cả các loại
hình doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế hay loại hình kinh tế. Bất
kỳ doanh nghiệp hay đơn vị sự nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế có phát sinh
thu nhập từ hoạt động xuất bản thì phần thu nhập này được áp dụng thuế suất thuế
TNDN ưu đãi 10%.

Tuy nhiên, ngày 26-12-2013, Chính phủ ban hành Nghị định số
218/2013/NĐ-CP (NĐ 218) thay thế NĐ 122 và NĐ 124. Theo đó, kể từ kỳ tính
thuế 2014 trở đi, ưu đãi thuế TNDN đối với hoạt động xuất bản chỉ còn được
áp dụng cho một khoanh vùng rất “đặc biệt”, rất ít doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xuất bản có thể hưởng.
Như vậy, các văn bản của Đảng, Chính phủ đã định hướng chiến lược cho hoạt
động xuất bản. Tất cả các văn bản này đều cho thấy lĩnh vực xuất bản là lĩnh vực đặc
thù về văn hóa tư tưởng, và nó chịu sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp lãnh đạo Đảng.
Điều đó cho thấy rằng, hiện nay Đảng vẫn quan tâm lãnh đạo toàn diện công tác xuất
bản, các hoạt động quản lý nhà nước về xuất bản cũng phải tuân theo các chiến lược
của Đảng về lĩnh vực này.

- 15 -


Bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản của nước ta được tổ
chức cơ bản hoàn chỉnh:
2.1.2 Thành tựu về xuất bản phẩm
Số lượng, cơ cấu và chất lượng xuất bản phẩm không ngừng tăng lên
Nội dung xuất bản phẩm đúng định hướng, phục vụ có hiệu quả các nhiệm
vụ chính trị của đất nước, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của
người đọc, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền phổ biến đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội...
- Đã xuất bản được một số bộ sách có giá trị cao, các công trình nghiên cứu
về chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học công nghệ, quản lý kinh tế; nhiều ấn
phẩm phục vụ kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc và của Đảng; cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Đại lễ nghìn năm Thăng
Long- Hà Nội... Dưới đây là số liệu thống kê theo một số tiêu chí trong năm năm
gần đây:
Thống kê số lượng sách xuất bản từ 2010 - 2014

Đơn
Số đầu sách
Tốc độ phát triển

vị
sách

Số bản sách
Tốc độ phát triển

bản

Tốc độ phát triển

%
Triệu

bản

Mức hưởng thụ
sách

%
Triệu

Số văn hóa phẩm
Tốc độ phát triển

Đầu


%
Bản/n

gười

20
10

25.

769

10

0

27

7,765
0
561
0

%

10
32,
10

20

11
.542
7
3,723
6
,365

3,3
10

0

10
29
10
26
81

2
96
2
314
3
62

3,
4
3

- 16 -


27

201

10

26.5
103,
295,
106,
28,9
88,9
3

,4

103

20
13
933
4,5
9,720
0,7
265
1

26.
10


201
4
326

27
10
18,
56,
3,2
97

28.
110
369

,925
,2
403
9
,1

133
24,
74,
4
124


Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo tổng kết hàng năm của Cục Xuất bản, In và

Phát hành(từ 2010 - 2014)
- Cơ cấu sách phân bố tương đối hợp lý, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
người đọc, ngày càng phục vụ tốt hơn nhiệm vụ chính trị của đất nước. Nội dung
các mảng sách cũng có chuyển biến tích cực.
Thống kê cơ cấu sách từ 2010 - 2013
201
B

Cơ cấu
TT

C
Chính trị - Pháp uốn
luật
(%)

Tốc độ phát triển
Khoa học công nghệ

- kinh tế

310
00

Văn hóa xã hội -

Nghệ thuật tôn giáo

Văn học
Tốc độ phát triển


(%)

00

Thiếu nhi
Tốc độ phát triển
Từ điển- ngoại văn

00
844

00

1

3

00

1

3,941

2
1
7

3


,138
00

744
00

2

10,058

3
1
3

52

303

2,910
9

9

206

2,400
9

200
1


9

5,2

9,2
4

1

8,8

00,9
4

7,4
1

9,3
4

1

568

2,142
1

580
1


1,812
1

500
1

1,64
1

1

21,3

14,1
4

1

21,6

10,1
4

19,5
1

09,4
4


1

176

3,372

235

4,402

132

4,94

1

9

06,3

5,9
2

3

956

,046
1


9

04,1

7,1
7

2

101

21,885

1
00

2

7,256
00

1
0

,521
1

00

1


,986
1

886
9

,861
1

9

01,8

4,3
6

01,5
2

1,2
6

2

915

24,382

0


894

09,4
3

2

08,4

07,2
2

1

05,2
2

9,810
1

03,3
2

058

07,8

2


1

05,6
4

1

0,7

08

06,5

827

08,06

8

1

8

9

8,3

06,8
3


7,2
2

9,04
3

2

486

8,865
9

433
1

9

3,1

05,9
2

1,7
0

2

,555
1


80
1

,465
7

9,5

9,3

76
8
8,4

8,256
03,7

Phát hành(từ 2009 - 2013)
Lực lượng lao động tại các NXB có bước phát triển mới

1
0

,42
7

8
0,6


Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo tổng kết hàng năm của Cục Xuất bản, In và

- 17 -

9

1

1

80

2,20

1

9

1
00

B
ản (triệu
C
bản)
4
1

1
00


B
ản (triệu
C
bản)
4
1uốn

1

1
00

1

20

ản (triệu
C
bản)
4
1uốn

1uốn

0,642

827

Tốc độ phát triển

(%)

2,290

1

Tốc độ phát triển

(%)

3

927

00
Giáo khoa - giáo

trình - tham khảo

(%)

1

bản)

20
B

ản (triệu


1

Tốc độ phát triển
(%)

4

765
Tốc độ phát triển

(%)

20


Đội ngũ cán bộ, công nhân năng động, tìm tòi, có nhiều sáng tạo nên đã
giúp cho NXB có khả năng tốt, đáp ứng yêu cầu xã hội.
Tổng số lao động tại các NXB là 6.489 người trong đó có 1.178 biên tập
viên (tính đến 2012) tăng 7,21 lần về số lượng so với năm 1986 (900 người). Đặc
biệt nếu so sánh bình quân số lượng lao động thì con số này tăng trên năm lần.
Điều đó cho thấy, lực lượng, đội ngũ làm công tác xuất bản đã được tăng đáng kể
về số lượng.
2.1.3 Xuất hiện các mô hình, phương phức sản xuất kinh doanh mới
-

Xuất hiện các mô hình mới như mô hình xuất bản khép kín ba khâu:

xuất bản, in, phát hành. Hiện nay có trên 50% số NXB thực hiện mô hình này ở
những mức độ khác nhau, trong đó nhiều NXB đã trang bị cho khâu in rất hiện đại
như các NXB Bản đồ, Giáo dục...

-

Mô hình công ty mẹ - công ty con ở một số NXB, nói cách khác, bước

đầu đã dần hình thành những nét sơ khai của mô hình tập đoàn. Một số nơi đã phát
huy hiệu quả bước đầu như ở NXB Giáo dục, Bản đồ, Chính trị quốc gia, Lao động
- Xã hội. Tất nhiên, cần phải thận trọng khi nhìn nhận về mô hình tập đoàn, nhất là
tập đoàn xuất bản.
-

Liên doanh, liên kết của NXB với lực lượng phát hành sách ngoài

quốc doanh mặc dù còn nhiều vấn đề bất cập, song hoạt động này đã trở thành
động lực lớn, huy động các nguồn lực xã hội, cả về kinh tế và chất xám, tạo điều
kiện cho các NXB thực hiện được nhiều công trình lớn, có giá trị lâu dài, tích lũy
các lợi ích kinh tế, tạo ra một môi trường xuất bản năng động. Một số NXB thu hút
các tư nhân góp 50% vốn tham gia xuất bản sách và độc quyền phát hành một số
tên sách.
-

Một số NXB đã biết sử dụng lợi thế của công nghệ thông tin để tiến

hành những hình thức kinh doanh mới như: mua bán sách trực tuyến qua mạng
Internet, xuất bản sách truyền thống kèm các sản phẩm sách điện tử.

- 18 -


-


Hợp tác quốc tế đã được nhiều NXB quan tâm hơn, nhất là việc mua

bán bản quyền và tham gia các hoạt động quốc tế về xuất bản như hội chợ, triển
lãm sách quốc tế, hội thảo nghiệp vụ.
Tính đến cuối năm 2014, cả nước có 63 NXB. Theo phạm vi hoạt động và
vị trí cơ quan chủ quản, các NXB được chia thành: Các NXB trung ương: có 52
NXB, Các NXB địa phương: có 11 NXB. Theo chức năng nhiệm vụ, các NXB
được chia thành; Các NXB chuyên ngành: có 43 NXB, Các NXB tổng hợp: có 20
NXB
2.1.4 Về cơ sở vật chất - kỹ thuật
Theo báo cáo của Cục XBIPH, một số NXB lớn được đầu tư tương đối toàn
diện từ nguồn vốn Nhà nước và sự tích luỹ của chính NXB cho nên đã xây dựng
được cơ sở vật chất tương đối khang trang và hiện đại như: NXB Chính trị Quốc
gia, NXB Giáo dục, NXB Quân đội nhân dân, NXB Công an nhân dân, NXB Kim
Đồng... Còn lại, nhìn chung, trụ sở của các NXB sau một thời gian dài sử dụng, do
không có điều kiện kinh phí để tu sửa cho nên đã xuống cấp trầm trọng, một số
NXB không có trụ sở phải đi thuê hoặc dùng chung địa điểm với cơ quan chủ quản.
Về vốn: Theo quy định của Luật Xuất bản thì cơ quan chủ quản phải cấp vốn
ban đầu và đảm bảo các điều kiện cần thiết để NXB hoạt động. Nhưng trên thực tế
chỉ có số rất ít cơ quan chủ quản thực hiện được cơ chế cấp vốn và một số cơ chế
hỗ trợ cho NXB, còn lại hầu hết các NXB phải tự bươn chải, tự lo liệu để đảm bảo
điều kiện tối thiểu cho hoạt động của mình. Một số NXB được cơ quan chủ quản
đầu tư vốn lớn nhưng bao gồm cả phần trụ sở và cơ sở vật chất, thực chất vốn để
kinh doanh rất ít.
2.1.5 Một số tồn tại
Công tác quản lý hoạt động xuất bản vẫn còn nhiều tồn tại, thể hiện rõ nhất
là việc vẫn có nhiều vi phạm về hoạt động xuất bản diễn ra.

- 19 -



Một số quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản tỏ ra không phù
hợp với trình độ phát triển hiện nay của hoạt động xuất bản, tiêu biểu như sau: Chính

sách trợ giá, trợ cước phí vận chuyển đối với một số mặt hàng sách cho một số
vùng miền theo qui định của Chính phủ do không kiểm tra, giám sát chặt chẽ dẫn
đến tình trạng sách không đến được địa chỉ cần thiết, hoặc nằm chết trong kho lưu
trữ, gây lãng phí và thiệt hại nặng nề về hiệu quả kinh tế - xã hội. Số lượng và chất
lượng lao động vừa thừa vừa thiếu lại vừa yếu, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo các
NXB và biên tập viên chậm thích ứng với cơ chế thị trường và đời sống xã hội
mang nhiều nét mới, tốc độ phát triển nhanh, nhu cầu đọc ngày càng đa dạng, đa
tầng, đa chiều. Đội ngũ làm xuất bản còn thiếu tính chuyên nghiệp, đặc biệt về khả
năng quản trị doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất bản nói riêng. Đó cũng
là một trong những hạn chế lớn nhất của lực lượng lao động tại NXB hiện nay.
- Chưa xác lập được định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển lực lượng
trong cả nước. Các nhà xuất bản phân bố không dồng đều, chủ yếu tập trung ở hai
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong 11 nhà xuất bản địa
phương tồn tại, có tới 7 nhà xuất bản thuộc các tỉnh phía Nam, trong khi đó, một số
vùng văn hóa, khu vực lại không có nhà xuất bản, như: Tây Bắc, Việt Bắc, Tây
Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long…
- Việc sắp xếp lại hệ thống xuất bản, in, phát hành trê quy mô cả nước và
trong từng ngành, từng địa phương vẫn gặp nhiều khó khăn, tình trạng bất hợp lí,
vừa thừa, vừa thiếu vẫn xảy ra, có sự chồng chéo, “lấn sân” giữa các nhà xuất bản
về tôn chỉ mục đích, chức năng, nhiệm vụ vẫn còn phổ biến. Một số Bộ, ngành đã
có nhiều nhà xuất bản, nhưng vẫn tiếp tục đề nghị thành lập nhà xuất bản mới. Hiện
tại, số lượng cơ sở in và phát hành sách quá lớn, một số cơ sở hoạt động kém hiệu
quả, rất khó quản lí và dễ xảy ra sai phạm; trong khi đó công tác quản lí nhà nước
chưa mang tính chủ động, toàn cục mà còn chạy theo thực tiễn để giải quyết những
vụ việc cụ thể xảy ra.


- 20 -


Một số cơ quan chủ quản chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng mức cho nhà
xuất bản, dẫn đến tình trạng cho đến nay vẫn còn 21 nhà xuất bản không đảm bảo
được các điều kiện để duy trì hoạt động. Cụ thể, 3 nhà xuất bản thiếu chức danh
lãnh đạo nhà xuất bản, 19 nhà xuất bản không đủ kinh phí để đảm bảo hoạt động
xuất bản.
Quy mô, năng lực hoạt động xuất bản chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn
và đa dạng của xã hội về cung cấp thông tin, tri thức và thưởng thức văn học nghệ
thuật trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng giao lưu, hội
nhập quốc tế, nhất là còn thiếu nhiều loại sách phổ cập tri thức phục vụ đông đảo
quần chúng. Sách nghiên cứu, tổng kết thực tiễn còn ít, chất lượng còn hạn chế.
Sách viết về công cuộc đổi mới, nhân tố mới, con người mới, viết về cuộc đấu tranh
giữa cái mới, tiến bộ và cái cũ, cái lạc hậu, kìm hãm còn ít và kém sâu sắc, sinh
động. Bên cạnh đó, vẫn còn lưu hành một số sách có nội dung gây ảnh hưởng tiêu
cực trong đời sống xã hội. Hiện tượng loạn sách tham khảo về giáo dục, ảnh hưởng
đến chất lượng dạy học và gây lãng phí tiền của.
Thực tế cho thấy, hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản đang đối
mặt với rất nhiều vấn đề. Một trong các vấn đề đó là: tình trạng sách lậu, sách giả. Theo
đánh giá tại Hội nghị chống in lậu năm 2010 thì hơn 90% sách bày bán ở vỉa hè, lề đường
là sách giả. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến các NXB, các công ty sách. Điển hình như
công ty sách First News đã phát hiện có 73 đầu sách của mình đã bị in lậu, vi phạm bản
quyền tại hai thị trường lớn nhất nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hơn thế
nữa, sách lậu, sách giả được công khai bán với giá đắt hơn ấn bản sách thật. Các cơ sở in
lậu đều dùng cách nâng giá trên bìa sách cao hơn giá sách thật rồi giảm chiết khấu cho
người mua… Theo công bố của Công ty Văn hóa Sáng tạo Trí Việt - First News, sách lậu
bị tăng giá bìa so với giá sách thật từ 10-72%. Một số nhà xuất bản rơi vào tình trạng

thua lỗ kéo dài, nợ lương công nhân viên. Tình trạng sai phạm về nội dung tuy

giảm về số lượng nhưng tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp hơn. Với thái độ
khách quan và thẳng thắn, cần thấy rõ trách nhiệm của các cơ quan chủ quản nhà
xuất bản đối với những tồn tại và hạn chế của hoạt động xuất bản hiện nay.

- 21 -


Xâm phạm bản quyền nói chung, in lậu nói riêng, đang là vấn đề nan giải và
nghiêm trọng ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến sự phát triển của hoạt động xuất bản hiện
nay. Năm 2014, A87- Bộ Công an, Thanh tra Bộ, Sở TTTT các tỉnh, thành phố và

các cơ quan chức năng thanh tra tại một số địa bàn. Qua đó, phát hiện, thu giữ và
xử lý hơn 13.000 bản sách, chủ yếu là sách tham khảo không có nguồn gốc, chứng
từ hóa đơn của 04 nhà sách tại Bắc Giang. thu hồi 17.165 xuất bản phẩm vi phạm;
tiêu hủy 2.968 xuất bản phẩm; xử phạt 1.097.870.000 đồng. (Nguồn: Báo cáo năm
2014 của Cục XBIPH)
2.2 Vai trò của việc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản
Thứ nhất, quản lí nhà nước về xuất bản nhằm triển khai thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng trong quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất bản.
Quản lí nhà nước bằng pháp luật luôn luôn là phương tiện triển khai thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng trong quản lí nhà nước đối với bất kì lĩnh vực
nào. Quản lí nhà nước bằng pháp luật về xuất bản triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng trong quản lí nhà nước về xuất bản.
Tương ứng với những thời kì phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
đất nước, Đảng ta có những chủ trương, đường lối trong quản lí nhà nước đối với
hoạt động xuát bản. Sauk hi những chủ trương đường lối ra đời, các văn bản pháp
luật của Nhà nước sẽ thể chế hóa và ghi nhận các chủ trương, đường lối đó vào
trong các chế định, các quy phạm pháp luật. Khi các chủ trương, đường lối của
Đảng đã thể chế hóa vào pháp luật, một mặt, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tổ chức thực hiện chúng trong thực tế bằng các hoạt động chuyên môn. Mặt khác,

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ các quy định của pháp luật đó thong
qua các hoạt động thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo các hành vi vi
phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản. Như vậy, các chủ trương, đường lối của
Đảng trước hết được cụ thể hóa, ghi nhận vào pháp luật rồi được thực hiện trong
thực tế, đồng thời được bảo về bằng các hoạt động xử lí hành vi vi phạm pháp luật,
những quy định pháp luật đã cụ thể hóa, những chủ trương, đường lối đó. Khi chủ

- 22 -


trương, đường lối của Đảng thay đổi, thì hoạt động quản lí nhà nước bằng pháp luật
lại thay đổi từ khâu sửa đổi, bổ sung các văn bản, quy phạm pháp luật có liên quan,
sau đó các hoạt động quản lí nhà nước khác mới tiếp tục thay đổi theo.
Việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới, đặc biệt là tin học đã
dẫn đến sự phát triển nhảy vọt trong ngành in và xuất bản với sự đa dạng của loại
hình xuất bản phẩm, nhiều quan hệ xã hội mới được hình thành trong hoạt động
xuất bản. Sách xấu xuất hiện và lưu hành tràn lan trên thị trường, tình trạng
thương mại hóa đã trở thành xu thế trong hoạt động xuất bản, gây tác hại không
nhỏ tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm và đời sống tinh thần của nhân dân. Trong
khi đó, các cơ quan nhà nước liên quan buông lỏng quản lý, thiếu những biện
pháp hữu hiệu để ngăn chặn và lập lại trật tự. Để thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xuất bản thể hiện trong Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết
TW 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng chính trị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất
bản và chất lượng xuất bản phẩm. Bên cạnh đó, trong xu thế giao lưu và hội nhập

quốc tế hiện nay, việc giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, các dân tộc là rất cần
thiết.
Triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng trong quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất bản có vai trò rất quan trọng, làm tiền đề để thực hiện
các vai trò khác trong hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản. Vai
trò này không được thực hiện tốt thì hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất bản cũng không thể triển khai tốt các vai trò khác. Để quản lý hoạt động xuất

- 23 -


bản có hiệu quả, trước hết các chủ trương, chính sách phải phản ánh được những
đòi hỏi của thực tiễn khách quan, của xu thế phát triển.
Thứ hai, quản lí nhà nước về xuất bản giúp tạo lập môi trường tự do sáng
tạo, bình đẳng cho các chủ thể trong hoạt động xuất bản.
Với đặc trưng của lao động sáng tạo nói chung, đặc biệt là lao động sáng tạo
ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học thì nhu cầu về tự do sáng tạo, bình
đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm là một đòi hỏi khách quan. Tuy nhiên,
tự do và bình đẳng trong sáng tạo phải vì lợi ích xã hội, vì lợi ích cộng đồng, không
thể có tự do vượt quá giới hạn cho phép. Giới hạn cho phép này được nhà nước thể
hiện thông qua pháp luật. Pháp luật quy định những gì được phép làm đối với các cơ
quan nhà nước nhằm ngăn các hành vi lạm dụng, xâm hại đến quyền tự do, bình
đẳng. Đồng thời, pháp luật đề ra các nghĩa vụ tương ứng cho các chủ thể của hoạt
động sáng tạo và quản lí.
Thứ ba, quản lí nhà nước về xuất bản bảo vệ lợi ích của những người sáng
tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học
Hoạt động sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa tinh thần được xã hội xếp vào
loại lao động đặc biệt. Các quốc gia trên thế giới đều coi các sản phẩm của trí tuệ là
tài sản. Vì vậy, các tác giả được bảo hộ quyền sở hữu. Berne là công ước quốc tế
đầu tiên về quyền tác giả, dưới sự điều hành của tổ chức quyền sở hữu trí tuệ thế

giới (WIPO) ra đời từ năm 1886 (là tổ chức của Liên hợp quốc từ năm 1974) để bảo
vệ quyền tác giả thuộc gần 100 nước thành viên.
Ở Việt Nam, các quy định về quyền của người sáng tạo, người quản lí và các
nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ các quyền đó, cùng với các quy định về cơ chế đảm
bảo thực hiện, là cơ sở pháp lí cho việc bảo hộ quyền sở hữu tác phẩm. Các tác giả
được Nhà nước tạo phương tiện để đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Các tranh chấp về quyền tác giả, các hành vi xâm hại lợi ích vật chất và tinh thần
của tác giả được xét xử tại Tòa án dân sự. Như vậy, thong qua việc bảo hộ quyền tác

- 24 -


giả, Nhà nước tiếp tục khuyến khích năng lực sáng tạo của văn nghệ sĩ, trí thức để
có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần có giá trị phục vụ xã hội.
Thứ tư, quản lí nhà nước về xuất bản chống thương mại hóa xuất bản, bảo vệ
lợi ích người tiêu dung xuất bản phẩm.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất bản đã khởi sắc và có
một diện mạo mới, phục vụ tốt đời sống tinh thần của nhân dân với những xuất bản
phẩm phong phú về nội dung và hình thức. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường
đã thúc ép các chủ thể xuất bản chỉ chú ý tới các xuất bản phẩm có khả năng thanh
toán, đẩy hoạt động xuất bản tìm kiếm các khả năng thanh toán có lợi nhuận cao,
không lường đến hậu quả chính trị, xã hội có thể xảy ra. Quản lí nhà nước về xuất
bản là phải hạn chế đến mức tối đa các hoạt động xuất bản chạy theo lợi nhuận kinh
tế đơn thuần, đặc biệt phải ngăn chặn xu hướng thương mại hóa hoạt động xuất bản.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất bản đã khởi sắc và có
một diện mạo mới, phục vụ tốt đời sống tinh thần của nhân dân với những xuất bản
phẩm phong phú về nội dung và hình thức. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế
thị trường đã thúc ép các chủ thể xuất bản chỉ chú ý tới các xuất bản phẩm có khả
năng thanh toán, đẩy hoạt động xuất bản tìm kiếm các khả năng thanh toán có lợi
nhuận cao, không lường đến hậu quả chính trị, xã hội có thể xảy ra. Quản lý nhà

nước đối với hoạt động xuất bản là phải hạn chế đến mức tối đa các hoạt động xuất
bản chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, đặc biệt là phải ngăn chặn xu hướng
thương mại hóa hoạt động xuất bản. Nếu chúng ta quản lý tốt hoạt động xuất bản,
ngăn chặn được xu hướng thương mại hóa sẽ bảo vệ được lợi ích của người tiêu
dùng xuất bản phẩm. Họ được hưởng thụ các xuất bản phẩm có chất lượng cao
trong nội dung và hình thức. Như vậy, pháp luật phải quy định cụ thể, rõ ràng các
tiêu chuẩn về nội dung kỹ thuật, mỹ thuật của xuất bản phẩm. Riêng nội dung,
phải có những điều khoản cấm đoán nhằm ngăn chặn những xuất bản phẩm độc
hại, không có lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...

- 25 -


×