Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở quận Đống Đa, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.8 KB, 100 trang )

Luận văn tốt nghiệp

1

DANH MỤC CÁC BẢNG, HỘP, SƠ ĐỒ
Danh mục bảng
Bảng 1.1: So sánh bản chất của kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung
và trong cơ chế thị trường
Bảng 1.2: So sánh sự khác biệt trong hai phương pháp lập kế hoạch “truyền
thống” và “đổi mới”
Bảng 1.3: Bảng phân tích phương án kế hoạch
Bảng 2.1: Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh 2001 - 2007
Bảng 2.2: Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu xã hội
Bảng 2.3: Tình hình thực hiện các chỉ tiêu về tỷ lệ sinh
Bảng 3.1: Lập kế hoạch gắn với nguồn lực và 3 yêu cầu của quản lý chi tiêu
công hiện đại
Bảng 3.2: Các bước lập kế hoạch phát triển phát triển kinh tế - xã hội Quận
Đống Đa
Bảng 3.3: Bảng phân tích phương án kế hoạch Quận Đống Đa
thời kỳ 2006 - 2010
Bảng 3.4: Khung kế hoạch
Danh mục hộp
Hộp 2.1: Nội dung cơ bản của kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm của
Quận Đống Đa
Hộp 2.2: Đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội Quận Đống Đa trong kế hoạch 5
năm 2006 - 2010

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A



Luận văn tốt nghiệp

2

Hộp 2.3: Các mục tiêu và chỉ tiêu trong kế hoạch 5 năm giai đoạn 2006 –
2010 và kế hoạch năm 2008 của Quận Đống Đa.
Hộp 2.4: Các giải pháp trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm Quận
Đống Đa giai đoạn 2006 – 2010
Danh mục sơ đồ
Sơ đồ 1.1: Lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn
Sơ đồ 2.1: Quy trình lập kế hoạch của Quận hiện nay.
Sơ đồ 3.1: Cây vấn đề về chất lượng tăng trưởng kinh tế Quận Đống Đa
Sơ đồ 3.2: Cây vấn đề về chất lượng tăng trưởng kinh tế Quận Đống Đa

LỜI MỞ ĐẦU
Đống Đa là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, có vị trí đặc
biệt quan trọng trong quá trình phát triển của Thủ đô Hà Nội. Trong thời gian
tới, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa Thủ đô sẽ diễn ra một cách
mạnh mẽ và nhanh chóng nhằm sớm đưa thủ đô Hà Nội phát triển lên một
tầm cao mới, sánh vai cùng Thủ đô các nước trong khu vực và trên thế giới.
Quá trình đó một mặt đòi hỏi quận Đống Đa phải không ngừng vươn lên, theo
kịp với tiến trình lớn mạnh của Thủ đô, mặt khác phải đóng góp ngày càng
nhiều vào quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa Thủ đô. Để thực hiện
được điều này không thể không kể đến những đóng góp của ngành kế hoạch.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trước đây, khi còn trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì kế
hoạch cấp quận, huyện chỉ là một bộ phận của kế hoạch cấp tỉnh, phụ thuộc
hoàn toàn vào cơ quan kế hoạch cấp trên. Các nội dung trong bản kế hoạch
được xây dựng trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch tỉnh giao xuống và nguồn lực tỉnh


SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

3

cấp cho. Như vậy, quá trình xây dựng kế hoạch ở cấp quận, huyện thực ra chỉ
là cụ thể hoá nhiệm vụ của cấp trên giao xuống.
Tuy nhiên, từ sau khi đổi mới thì cách tiếp cận đối với kế hoạch cấp
quận, huyện đã có nhiều thay đổi theo hướng phát triển chung của đất nước.
Nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng của cơ quan Nhà nước, vẫn mang chức
năng lãnh đạo và định hướng cho sự phát triển kinh tế ở địa phương trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Đặc biệt, đối với các cấp quận, huyện thì vai trò
này càng trở nên quan trọng và không thể thiếu, trong đó bản kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cấp quận, huyện là một công cụ có vai trò vô cùng quan
trọng góp phần làm cho bộ máy quản lý Nhà nước ở địa phương hoạt động trở
nên hiệu quả hơn.
Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng hiện nay công tác lập kế
hoạch ở cấp quận Đống Đa đang bộc lộ một số hạn chế, yếu kém không đáp
ứng được yêu cầu phát triển của địa phương trong tình hình mới như:
- Công tác lập kế hoạch chưa thực sự được coi trọng, bản kế hoạch
chưa thực sự trở thành một công cụ hữu ích cho công tác quản lý ở các cấp
chính quyền ở quận Đống Đa.
- Việc lập kế hoạch ở đây vẫn phụ thuộc vào cơ quan kế hoạch cấp
trên nhiều. Các mục tiêu, hệ thống chỉ tiêu trong bản kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hôi quận Đống Đa chủ yếu do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội hướng

dẫn nhưng vẫn mang tính chất áp đặt.
- Số lượng cán bộ thực sự làm công tác kế hoạch hoá còn ít (2 người),
trong khi khối lượng công việc lớn nên dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao.
Chẳng hạn như việc lập kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội quận Đống
Đa 2006 – 2010 phải tiến hành thuê đơn vị tư vấn bên ngoài thực hiện…

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

4

Vì vậy, việc đổi mới cả công tác xây dựng kế hoạch và nâng cao chất
lượng các bản kế hoạch đang trở thành một yêu cầu tất yếu. Với việc thực
hiện đề tài “Đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở
quận Đống Đa, Hà Nội”, em hy vọng sẽ góp phần đáp ứng được phần nào
yêu cầu đó.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài luận văn này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu và đề xuất một số
giải pháp cơ bản để có thể đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở Quận Đống Đa, với hy vọng rằng công tác lập kế hoạch của Quận sẽ
ngày càng hoàn thiện hơn, bản kế hoạch được xây dựng có chất lượng tốt hơn,
tính khả thi cao hơn và thực sự là một công cụ hiệu quả hỗ trợ cho quá trình
quản lý, điều hành của chính quyền địa phương.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài luận văn này chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp điều tra thống kê và một
số phương pháp khác. Trong đó, chủ yếu dựa trên việc sưu tập, nghiên cứu,

phân tích các tài liệu, các báo cáo liên quan đến đề tài.
4. Mục đích của việc nghiên cứu
Mục đích chính của việc thực hiện đề tài này đó là em hi vọng có thể
đóng góp những suy nghĩ, quan điểm cũng như những tìm hiểu, nghiên cứu
của mình cho việc đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại
Quận Đống Đa. Từ đó, có thể đưa ra được một số định hướng đổi mới việc
xây dựng kế hoạch của Quận trong thời gian tới, giúp cho bản kế hoạch thực
sự có thể đi vào cuộc sống.
5. Kết cấu của luận văn tốt nghiệp

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

5

Ngoài phần mở đầu, danh mục bảng biểu, kết luận, tài liệu tham khảo
thì kết cấu của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết phải đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội ở Quận Đống Đa, Hà Nội.
Chương II: Đánh giá về công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của Quận Đống Đa, Hà Nội trong thời gian qua.
Chương III: Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để đổi mới công tác
lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Quận Đống Đa, Hà Nội.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ThS. Nguyễn Thị Hoa cùng với
tập thể cán bộ Phòng Kế hoạch – Kinh tế Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này. Nhưng do kiến thức và

trình độ còn hạn chế nên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong bài luận
văn. Rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô, các cô chú và các anh
chị trong đơn vị thực tập để bài luận văn của em có thể hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI Ở QUẬN ĐỐNG ĐA, HÀ NỘI.
I. LÝ THUYẾT VỀ ĐỔI MỚI LẬP KẾ HOẠCH
1. Một số vấn đề chung về kế hoạch.
1.1. Khái niệm về kế hoạch
Như chúng ta đã biết, sự tồn tại của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường là một yêu cầu khách quan, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của xã

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

6

hội nhằm đảm bảo cho sự vận hành của cơ chế thị trường đảm bảo được mức
hiệu quả cao nhất.
Để thực hiện được vai trò của mình, Nhà nước đã sử dụng nhiều công
cụ khác nhau như: Hệ thống luật pháp, hệ thống kế hoạch phát triển, các công
cụ đòn bẩy kinh tế (thuế, trợ cấp, trợ giá…), các chính sách kinh tế (tài khoá,
tiền tệ, thương mại, đầu tư…), lực lượng kinh tế của Nhà nước (doanh nghiệp
Nhà nước, dự trữ quốc gia…).

Như vậy, kế hoạch là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền
kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược
phát triển theo từng thời kỳ bằng hệ thống các chỉ tiêu mục tiêu và chỉ tiêu
biện pháp định hướng phát triển và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng
trong thời kỳ kế hoạch.
Từ đó, ta có thể đưa ra một định nghĩa chung về kế hoạch như sau:
“Kế hoạch kinh tế quốc dân là tổng hợp những mục tiêu, phương hướng,
chính sách, biện pháp phát triển kinh tế quốc dân, được biểu hiện trong một
hệ thống các bản cân đối, trên cơ sở nhận thức và thỏa mãn các yêu cầu của
các quy luật kinh tế của nền kinh tế quốc dân, và trên cơ sở khai thác có hiệu
quả kinh tế - xã hội cao mọi tài nguyên nhân – tài – vật - lực của đất nước”.(1)
1.2. Tại sao phải có kế hoạch trong nền kinh tế thị trường.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế mệnh lệnh là cơ sở kinh tế được xây
dựng và hoàn thiện dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất, Nhà nước chuyên chính vô sản không những đóng vai trò điều hành
chính trị mà còn có khả năng điều tiết và quản lý toàn diện, trực tiếp các vấn
đề về kinh tế. Ở đây, Chính phủ đã thực hiện khống chế trực tiếp những hoạt
1

(1) Theo từ điển Bách khoa Việt Nam 2 – NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội năm 2002,
trang 470.

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

7


động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những quyết định từ Trung ương. Các
mục tiêu cụ thể được định trước bởi các nhà kế hoạch ở Trung ương đã tạo cơ
sở cho một kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ. Nguồn nhân lực,
vật tư chủ yếu và tài chính được phân phối không phải theo giá thị trường và
các điều kiện cung - cầu mà phân phối theo các nhu cầu vật tư, lao động, vốn
của kế hoạch tổng thể. Như vậy, kế hoạch là công cụ chủ yếu trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung.
Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì đã có nhiều quan
điểm cho rằng kế hoạch là không cần thiết bởi vì đặc trưng cơ bản nền kinh tế
thị trường là tính chất đa thành phần kinh tế, sở hữu tư nhân dưới nhiều hình
thức khác nhau thống trị trong toàn bộ hệ thống kinh tế. Ở đây, thị trường tồn
tại như một sức mạnh thần bí chi phối các mặt hoạt động của đời sống kinh tế
- xã hội.
Nhưng thực ra thì cần thấy rằng sự tồn tại của kế hoạch là xuất phát từ
vai trò tất yếu của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Bởi vì, một nền
kinh tế thị trường dù hoàn hảo đến đâu vẫn không thể vận hành mà không có
sự điều tiết, quản lý của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường tồn tại như một tất yếu khách quan, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế
của xã hội muôn có một cơ chế điều tiết bổ trợ cho cơ chế thị trường, nhằm
vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế thị trường phát huy được những mặt
mạnh của mình, vừa hạn chế được những hậu quả khắc nghiệt mà cơ chế đó
tạo ra.
Như vậy, hệ thống kế hoạch phát triển nói chung và kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội nói riêng với tư cách là công cụ quản lý của Nhà nước để
điều tiết nền kinh tế cho nên bất cứ khi nào còn Nhà nước thì Nhà nước còn
sử dụng công cụ quản lý này. Do đó, quan điểm cho rằng kế hoạch là sản

SVTH: Nguyễn Thái Sơn


Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

8

phẩm của cơ chế tập trung bao cấp, còn cơ chế thị trường không cần có kế
hoạch là hoàn toàn sai lầm. Chỉ có điều khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi
thì công cụ này cũng cần được đổi mới cả về tư duy, nội dung và phương
pháp.
1.3. Sự khác biệt về bản chất giữa kế hoạch trong nền kinh tế tập trung
bao cấp và trong nền kinh tế thị trường.
Mặc dù kế hoạch tồn tại trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu
khách quan, cũng như nó đã từng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế mệnh
lệnh, nhưng bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường đã hoàn toàn
khác biệt với kế hoạch trong cơ chế cũ. Sự khác biệt đó có thể được tóm tắt
trong bảng 1.1:

Bảng 1.1: So sánh bản chất của kế hoạch trong cơ chế kế hoạch
hoá tập trung và trong cơ chế thị trường
Cơ chế KHH tập trung
KH mang tính chủ quan duy ý chí xuất phát
từ ý muốn chủ quan của Nhà nước, không
căn cứ vào tiềm lực thực tế và không gắn
với nhu cầu thực sự của nền KTQD
KH thay thế cho thị trường, vì sự tồn tại của
thị trường sẽ phá vỡ những cân đối cứng mà
KH đã đề ra
KH mang tính mệnh lệnh: giao chỉ tiêu và

cấp phát nguồn lực, đồng thời chỉ định cả
địa chỉ tiêu thụ

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Cơ chế thị trường
KH gắn với thị trường, định hướng sự phát
triển dựa trên cơ sở đánh giá đúng thực
trạng, nhận thức được quy luật, nắm bắt
được nhu cầu, vì thế vững chắc hơn
KH bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị
trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn hạn, riêng
lẻ, vì lợi ích cục bộ. KH có cái nhìn dài hạn,
mang tính chất đón bắt, vì lợi ích chung,
toàn cục
KH mang tính định hướng: Hoạt động như
bộ khung làm cơ sở để hoạch định các chính
sách đòn bẩy và các biện pháp gián tiếp để
thực hiện định hướng

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

9

KH thiếu tính linh hoạt: vì là pháp lệnh nên KH mang tính linh hoạt: Khi các điều kiện
mang tính cứng nhắc, mọi sự điều chỉnh KH thị trường thay đổi thì KH cũng sẽ có sự
chỉ là hình thức

điều chỉnh theo

Nguồn: Vũ Cương, Tài liệu tập huấn đổi mới kế hoạch ở Kon Tum, tháng
7/2006
Tóm lại, kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung và kế hoạch
trong cơ chế thị trường mặc dù đều có vai trò là công cụ quản lý của Nhà
nước đối với kinh tế, xã hội nhưng giữa chúng có sự khác nhau cơ bản đó là:
Một bên là tính cưỡng chế còn bên kia là tính thuyết phục. Trong khi mục tiêu
của kế hoạch trong cơ chế thị trường chỉ là cố gắng ngăn chặn để cho nền
kinh tế khỏi đi lạc với mục tiêu tăng trưởng ổn định bằng những công cụ
chính sách năng động và gián tiếp thì kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung không chỉ tạo ra một loạt các mục tiêu cụ thể thể hiện quá trình phát
triển kinh tế mong muốn mà còn cố gắng thực hiện kế hoạch của mình bằng
việc khống chế trực tiếp những hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
2. Phương pháp lập kế hoạch.
2.1. Những khác biệt trong hai phương pháp lập kế hoạch truyền thống
và đổi mới.
Hiện nay, phương pháp lập kế hoạch là một trong những nguyên nhân
gây ra những hạn chế mà các bản kế hoạch thường “vấp phải”. Vì vậy, việc
đổi mới phương pháp lập kế hoạch là một tất yếu trong quá trình đổi mới
công tác lập kế hoạch. Để thấy rõ hơn điều này, ta có thể so sánh hai phương
pháp lập kế hoạch “truyền thống” và “đổi mới” qua bảng sau:
Bảng 1.2: So sánh sự khác biệt trong hai phương pháp lập kế hoạch
“truyền thống” và “đổi mới”
Lập kế hoạch dựa trên những gì mình có

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn


Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

10

(Truyền thống)
Đi từ đầu vào để xác định mục tiêu
Thiếu tính đột phá vì bị ràng buộc bởi những gì

(Đổi mới)
Đi từ mục tiêu để cân đối đầu vào
Có tính tích cực, tận dụng mọi khả năng

sẵn có
Ít phương án lựa chọn

Mở rộng các phương án lựa chọn

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Theo phương pháp lập kế hoạch truyền thống trước đây, việc lập kế
hoạch chủ yếu bắt đầu từ việc xác định những nguồn lực sẵn có của địa
phương. Đây là những yếu tố quan trọng quyết định đến việc đề ra những mục
tiêu cần thực hiện trong thời kỳ kế hoạch. Phương pháp lập kế hoạch này là
phương pháp lập kế hoạch dựa trên những gì mình có. Nó có một số đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, việc lập kế hoạch chủ yếu xuất phát từ các căn cứ đầu vào
để xác định mục tiêu trong thời kỳ kế hoạch.
Thứ hai, do việc lập kế hoạch phụ thuộc phần lớn vào các đầu vào nên

dẫn đến nội dung các bản kế hoạch sẽ không tạo ra được tính đột phá khi thực
hiện trong thực tế vì bị ràng buộc bởi những gì sẵn có. Trong đó, yếu tố tạo ra
sự ràng buộc lớn nhất chính là ngân sách Nhà nước được phân bổ.
Thứ ba, với cách lập kế hoạch như thế này cũng dẫn đến một tình
trạng đó là sẽ có ít phương án kế hoạch để địa phương có thể lựa chọn nhằm
tìm kiếm được khả năng phát triển tối ưu nhất.
Từ những đặc điểm như trên của phương pháp lập kế hoạch theo kiểu
cũ thì dẫn đến một tình trạng chung đó là công tác lập kế hoạch bị rơi vào tình
trạng bị động, kế hoạch không còn là một công cụ hỗ trợ hữu hiệu cho công
tác quản lý, điều hành kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường hiện nay. Cho
nên, cùng với quá trình đổi mới công tác kế hoạch hóa của nước ta thì phương

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

11

pháp lập kế hoạch cũng đang được đổi mới theo hướng lập kế hoạch từ mục
tiêu mong muốn. Nó được thể hiện cụ thể qua những đặc điểm sau:
Thứ nhất, việc lập kế hoạch được tiến hành theo hướng sẽ xác định
các mục tiêu mong muốn thực hiện trong thời kỳ kế hoạch trước rồi mới căn
cứ vào những mục tiêu này để có những chính sách huy động, khai thác các
nguồn lực đầu vào. Đây là phương pháp đi từ mục tiêu để cân đối đầu vào.
Thứ hai, với cách lập kế hoạch theo kiểu mới này sẽ tạo ra tính tích
cực, giúp địa phương không những có thể thực hiện được những mục tiêu
mong muốn mà còn có thể tận dụng một cách tối đa mọi khả năng để phát

triển.
Thứ ba, xuất phát từ chính đặc điểm cơ bản của phương pháp này là đi
từ mục tiêu để cân đối đầu vào nên khi lập kế hoạch sẽ không bị phụ thuộc
hoàn toàn vào những nguồn lực có sẵn mà tìm cách huy động, khai thác thêm
các nguồn lực khác. Từ đây, sẽ mở rộng các phương án lựa chọn cho thời kỳ
kế hoạch, giúp tăng thêm tính chủ động cũng như tính hiệu quả khi thực hiện
kế hoạch.
Qua những phân tích, so sánh như trên ta có thể thấy rõ sự khác nhau
cơ bản giữa hai phương pháp lập kế hoạch truyền thống và đổi mới. Trong đó,
điểm khác biệt cơ bản lớn nhất chính là một bên thì dựa vào nguồn lực có sẵn
rồi mới xác định mục tiêu cần thực hiện cho thời kỳ kế hoạch dựa trên nguồn
lực đó, còn một bên thì xác định mục tiêu mong muốn thực hiện trước rồi mới
tìm cách huy động, khai thác tổng thể các nguồn lực nhằm thực hiện thành
công mục tiêu đó. Đây chính là ưu điểm lớn nhất của phương pháp lập kế
hoạch từ mục tiêu mong muốn.
2.2. Nội dung đổi mới phương pháp lập kế hoạch

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

12

Bên cạnh những đặc điểm như trên, thì nội dung cơ bản của phương
pháp lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn được thể hiện cụ thể qua sơ đồ
sau:


Sơ đồ 1.1: Lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn
Trả lời 4 câu hỏi:

Nội dung bản kế hoạch

Huyện đang ở đâu?

Phần đánh giá thực trạng

Huyện muốn đến đâu?

Xác định mục tiêu

Làm thế nào để đến đích?

Giải pháp cụ thể/nguồn lực

Làm thế nào để biết đang
đi đúng hướng?

Theo dõi, đánh giá

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Thực chất của phương pháp lập kế hoạch này là đi tìm câu trả lời cho
bốn câu hỏi sau: Huyện đang ở đâu? Huyện muốn đến đâu? Làm thế nào để đi
đến đích? và Làm thế nào để biết đang đi đúng hướng? Bốn phần này cũng

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A



Luận văn tốt nghiệp

13

tương ứng với những nội dung cơ bản khi tiến hành lập và thực hiện kế hoạch
đó là: Phần đánh giá thực trạng; Xác định mục tiêu; Giải pháp cụ thể, nguồn
lực thực hiện và phần theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch. Trong đó, những
điểm đổi mới quan trọng trong phương pháp lập kế hoạch từ mục tiêu mong
muốn bao gồm:
Thứ nhất, trong phương pháp phân tích thực trạng hiện nay đang sử
dụng đều mắc những nhược điểm chủ yếu đó là mang tính báo cáo, kể lể
thành tích đã thực hiện được, trong đó cơ bản là việc liệt kê các con số mà
không đi vào phân tích. Bên cạnh đó, nội dung phần đánh giá thực trạng thiếu
chú trọng đến phân tích những tồn tại cũng như làm rõ nguyên nhân của
những tồn tại đó để có thể rút kinh nghiệm cho thời kỳ kế hoạch. Ngoài ra,
cũng chưa quan tâm đánh giá chính sách của chính quyền và cuối cùng là
chưa lấy đầy đủ ý kiến các bên hay cụ thể hơn nó chỉ xuất phát một phía từ
những người lập kế hoạch.
Tuy nhiên, trong phương pháp mới là lập kế hoạch từ mục tiêu mong
muốn đã khắc phục được những nhược điểm trên bằng cách thay phương
pháp mô tả bằng phân tích, so sánh kế hoạch với thực hiện; so với cùng kỳ; so
thực hiện với tiềm năng; huyện mình với các huyện khác và với mức trung
bình của tỉnh... Trong quá trình đánh giá thực trạng thì cần chọn lọc một số
chủ đề mang tính quyết định để phân tích sâu. Đồng thời, cần phải thu thập ý
kiến từ các bên liện quan để có được những nhận định sâu sắc hơn về thực
trạng. Những điểm đổi mới trong đánh giá thực trạng được thực hiện chủ yếu
thông qua hai công cụ quan trọng đó là bảng phân tích phương án kế hoạch và
cây vấn đề.

Đối với công cụ bảng phân tích phương án kế hoạch: có nội dung
được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 1.3: Bảng phân tích phương án kế hoạch

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

14

Thuận lợi

Khó khăn

-

-

Mặt được

Phương án 1:

Phương án 2:

-

Phát huy mặt được để tranh


Phát huy mặt được để hạn

Tồn tại/hạn chế

thủ thuận lợi
Phương án 3:

chế khó khăn
Phương án 4:

-

Tranh thủ thuận lợi để khắc

Khắc phục tồn tại để hạn chế

-

phục tồn tại

khó khăn

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Nội dung bảng trên bao gồm căn cứ vào bốn tiêu chí sau: mặt được,
tồn tại và hạn chế, thuận lợi, khó khăn. Trong đó, mặt được chính là yếu tố lợi
thế bên trong của huyện mà huyện có thể huy động và phát huy. Còn tồn tại,
hạn chế là những yếu kém bên trong của huyện (mang tính chủ quan) mà
huyện có thể khắc phục. Riêng thuận lợi là những thuận lợi do môi trường
bên ngoài mang lại mà huyện có thể tranh thủ. Và cuối cùng khó khăn là

những trở ngại do môi trường bên ngoài gây ra mà huyện không thể xóa bỏ
hoàn toàn nhưng có thể giảm thiểu tác động. Đây chính là tổng hợp một cách
khái quát về những yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch để từ
đó tìm ra được một phương án kế hoạch tối ưu nhất, phù hợp với điều kiện cụ
thể của địa phương.
Đối với công cụ cây vấn đề: Việc sử dụng cây vấn đề là để nhằm mục
đích phân tích thực trạng theo vấn đề đã chọn để tìm ra các nguyên nhân cốt
lõi. Đây là yếu tố quan trọng làm căn cứ cho việc thực hiện các bước đột phá
trong thời kỳ kế hoạch. Mặt khác, với công cụ cây vấn đề là nhằm phân tích
thực trạng một cách có chọn lọc nhằm khắc phục những hạn chế trong kế
hoạch hiện nay đó là nội dung các bản kế hoạch ôm đồm quá nhiều vấn đề,

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

15

thiếu đi sự lựa chọn ưu tiên can thiệp cho từng thời kỳ kế hoạch, đồng thời
cũng thiếu sự phân tích để tìm ra nguyên nhân cốt lõi.
Khi tiến hành xây dựng cây vấn đề thì bước đầu tiên là cần phải chọn
lọc các vấn đề ưu tiên cần giải quyết trong thời kỳ kế hoạch. Đây có thể được
xem là những điểm then chốt có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Nhưng để đảm bảo thực hiện thành công các vấn
đề ưu tiên này thì phải tìm ra các khó khăn, trở ngại liên quan đến các chủ đề
nhằm giúp đưa ra những giải pháp đúng đắn, phù hợp nhất. Từ đây, mới bắt
đầu xây dựng quan hệ nhân quả giữa các cấp vấn đề. Trong đó, tập hợp các

vấn đề cấp dưới là nguyên nhân gây ra vấn đề cấp trên. Cuối cùng, biểu diễn
quan hệ nhân quả giữa các cấp vấn đề đó thành “cây vấn đề”.
Thứ hai, trong phương pháp xác định mục tiêu trong các bản kế hoạch
hiện nay thì có một số tồn tại lớn đang diễn ra đó là thường đi thẳng vào xác
định mục tiêu mà thiếu đi những kết nối rõ ràng với phân tích thực trạng và
vấn đề, dẫn đến các mục tiêu thường không sát với tình hình thực tế cũng
không giải quyết đúng những vấn đề then chốt của địa phương. Bên cạnh đó,
việc xác định mục tiêu nặng về định lượng và thể hiện mong muốn chính trị là
chính. Trong các mục tiêu thì thiếu đi sự sắp xếp ưu tiên, không biết được
mục tiêu nào cần thực hiện trước, mục tiêu nào cần thực hiện sau dẫn đến việc
thực hiện các mục tiêu một cách dàn trải làm giảm đi tính hiệu quả. Ngoài ra,
có một nhược điểm rất lớn mà hầu như các bản kế hoạch ở các địa phương
đều có là việc xác định mục tiêu không tính đến các yếu tố nguồn lực. Trong
đó, chưa chú trọng đến việc khai thác các nguồn lực khác mà dựa vào nguồn
ngân sách Nhà nước được phân bổ là chính. Đây là cũng là một yếu tố làm
cho bản kế hoạch thường thiếu đi tính khả thi. Cuối cùng, không nêu rõ ai
chịu trách nhiệm thực hiện các mục tiêu này, cũng như tạo ra sự phối hợp giữa
các cấp, các ngành ở địa phương trong việc thực hiện mục tiêu. Tóm lại, có

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

16

thể nói rằng, đây là những nhược điểm chung nhất mà đa số các bản kế hoạch
đều mắc phải khi tiến hành xác định mục tiêu.

Vì vậy, để có thể khắc phục được các điểm yếu đó thì trước tiên phải
quán triệt quan điểm: cần xác định nhiều cấp mục tiêu và mối quan hệ giữa
các cấp mục tiêu đó, đồng thời không tham xác định nhiều mục tiêu mà lựa
chọn một số mục tiêu ưu tiên cho từng thời kỳ kế hoạch.
Để cụ thể hóa được điều này ta có thể thông qua phương pháp: xác
định mục tiêu phải gắn với phân tích thực trạng và sử dụng sự tham vấn của
các bên liên quan để đồng thuận về mục tiêu. Thông qua hai phương pháp này
nhằm đảm bảo cho việc xây dựng mục tiêu dựa trên tình hình thực tế và phù
hợp với khả năng hiện tại của địa phương. Không những vậy, nó còn có ảnh
hưởng đến việc huy động tổng thể tất cả mọi người, mọi đối tượng, mọi thành
phần... ở địa phương cùng tham gia vào việc thực hiện những mục tiêu này.
Và công cụ để thực hiện được điều này chính là cây mục tiêu. Đây
chính là việc biến các tình thế tiêu cực trong cây vấn đề thành tình trạng tích
cực sẽ xuất hiện trong tương lai, trong đó, sẽ mô tả các quan hệ phương tiện –
mục đích đó thành cây mục tiêu.
Thực chất của việc hình thành cây vấn đề và cây mục tiêu là giúp ta
đưa ra một cái nhìn toàn diện nhưng đơn giản về các mối quan hệ nhân – quả,
giúp quy trình xác định mục tiêu kế hoạch có lôgic dễ hiểu hơn với các bên
tham gia lập kế hoạch. Đồng thời, nó cũng giúp dễ dàng đề xuất các giải pháp
cụ thể để thực hiện kế hoạch.
Thứ ba, trong phương pháp xác định giải pháp thực hiện kế hoạch thì
phải đảm bảo là làm thế nào để các giải pháp được cụ thể. Muốn thực hiện
được điều này thì khi xác định các giải pháp phải dựa trên những quan điểm
sau: trước hết giải pháp phải được cụ thể hóa thành từng hành động hoặc các

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A



Luận văn tốt nghiệp

17

dự án đầu tư cụ thể, có kết quả rõ ràng, đồng thời các giải pháp phải đi kèm
với các dự toán chi phí. Nếu luôn luôn thực hiện đúng với các quan điểm này
khi xác định giải pháp thì sẽ làm cho giải pháp không những gắn với nguồn
lực thực hiện mà còn làm cho giải pháp sẽ được hiện thực hóa vào thực tế
cuộc sống trong thời kỳ kế hoạch, tránh được tình trạng đưa giải pháp ra rồi
để đó.
Phương pháp khi xác định giải pháp chủ yếu là lựa chọn những giải
pháp mang tính đột phá (tập trung giải quyết những vấn đề nổi cộm nhất). Từ
đây, nó cũng có thể có ảnh hưởng lan tỏa đến những vấn đề khác trong sự
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Bên cạnh đó, một yếu tố khác cũng
không kém phần quan trọng khi xác định giải pháp chính là việc tham vấn các
bên liên quan khi cân nhắc giữa các giải pháp để có thể lựa chọn được những
giải pháp tối ưu nhất, ảnh hưởng tích cực đến quyền lợi của tất cả các bên tại
địa phương. Và cuối cùng, việc xác định các giải pháp được thực hiện qua các
công cụ đó là: Khung Kế hoạch, nguồn lực.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở QUẬN ĐỐNG ĐA - HÀ NỘI.
1. Các bộ phận cấu thành hệ thống kế hoạch cấp huyện.
Do hệ thống kế hoạch cấp quận (huyện) cũng là một cấp độ kế hoạch
trong hệ thống kế hoạch của quốc gia nên nó bao gồm các bộ phận sau:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quận, huyện: là hệ thống
các phân tích, đánh giá và lựa chọn quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng
phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản về
phát triển kinh tế - xã hội của quận, huyện trong thời gian dài.
- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận, huyện: thể hiện tầm
nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng


SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

18

khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu
quả cao, phát triển bền vững.
- Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội cấp quận, huyện: là sự cụ
thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn
của quận, huyện. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng
cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định các cân đối, các chính
sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh
tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
- Kế hoạch năm phát triển kinh tế - xã hội cấp quận, huyện: vừa là
công cụ để ổn định kinh tế quận, huyện, vừa thực hiện các mục tiêu phát triển
của năm đó trong nội dung của kế hoạch định hướng 5 năm. Nó bao gồm
nhiệm vụ chủ yếu của năm, các mục tiêu và chỉ tiêu phấn đấu về phát triển
kinh tế - xã hội cũng như các chính sách và giải pháp chủ yếu áp dụng trong
năm kế hoạch.
- Chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội cấp quận, huyện: là
công cụ triển khai thực hiện chiến lược kế hoạch của quận, huyện. Nó đưa ra
những mục tiêu và tổ chức các yếu tố nguồn lực để thực hiện mục tiêu đối với
các vấn đề mang tính bức xúc, nổi cộm và đột phá của nền kinh tế.
Mặc dù các bộ phận này đều có một vị trí và vai trò quạn trọng khác
nhau nhưng giữa chúng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó chiến

lược phát triển, quy hoạch phát triển và kế hoạch 5 năm chủ yếu có chức năng
định hướng còn các kế hoạch hàng năm cũng như các chương trình, dự án làm
công cụ triển khai thực hiện.
2. Vai trò của kế hoạch cấp quận, huyện.
Quận, huyện với tư cách là người đại diện chăm lo lợi ích cho toàn thể
nhân dân trên địa bàn nên những hoạt động quản lý của chính quyền cấp

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

19

quận, huyện có ảnh hưởng trực tiếp đến những người dân đó. Vì vậy, để đảm
bảo cho các hoạt động của mình mang lại hiệu quả cao nhất, tránh gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực đến người dân thì việc sử dụng công cụ kế hoạch
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vai trò của nó đã và đang tiếp tục được khẳng
định:
Thứ nhất, điều tiết, phối hợp, ổn định kinh tế quận, huyện. Kế hoạch
cấp quận, huyện hoạch định kế hoạch chung tổng thể của quận, huyện, với
việc đưa ra những chính sách hợp lý dựa trên cơ sở sử dụng tổng hợp những
nguồn lực ở địa phương nhằm phát huy hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó thì nó còn bảo đảm môi trường kinh tế ổn định và cân
đối. Tạo những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội ,
môi trường, tạo tiền đề và hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế địa phương
lành mạnh.
Ngoài ra, nó còn bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng ở địa

phương, giữa các tầng lớp dân cư bằng kế hoạch sử dụng ngân sách và chính
sách điều tiết.
Thứ hai, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của quận, huyện. Kế
hoạch cấp quận, huyện đưa ra hệ thống mục tiêu phát triển vĩ mô về kinh tế xã hội trên địa bàn quận, huyện, xây dựng các dự án, các chương trình, tìm
các giải pháp và các phương án thực hiện, dự báo khả năng, phương hướng
phát triển, xác định các cân đối lớn…nhằm thực hiện chức năng dẫn dắt, định
hướng phát triển, xử lý kịp thời các mất cân đối xuất hiện trong nền kinh tế thị
trường, đưa kinh tế - xã hội ở địa phương phát triển theo định hướng nhất
định.
Thứ ba, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế - xã hội của quận, huyện.
Kế hoạch cấp quận, huyện thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình thực

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

20

hiện các tiến độ kế hoạch thực hiện và tuân thủ các cơ chế, thể chế, chính sách
hiện hành áp dụng trong thời kỳ kế hoạch. Đánh giá kết quả của việc thực
hiện các chính sách, các mục tiêu đặt ra. Phân tích hiệu quả tài chính, hiệu
quả kinh tế - xã hội bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng các kế
hoạch của thời kỳ tiếp sau.
Tóm lại, xuất phát từ chức năng là một trong những công cụ quản lý
quan trọng của các cấp chính quyền, từ Trung ương đến địa phương và vai trò
của kế hoạch đã được khẳng định như trên nên kế hoạch trở thành điều kiện
tiền đề để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế địa phương. Nó không những giúp cho kinh tế - xã hội địa phương luôn đi
đúng hướng, phù hợp với yêu cầu phát triển của quốc gia mà còn giúp cho
cuộc sống người dân luôn được đảm bảo.
3. Hạn chế trong lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quận,
huyện.
Từ trên, ta có thể thấy kế hoach ở cấp quận (huyện) không những chỉ
có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý của cấp chính quyền mà nó còn
là sự bảo đảm cho cuộc sống của người dân. Để luôn đạt được mục tiêu đó thì
việc lập kế hoạch ở cấp quận (huyện) phải luôn cần được đặt đúng vị trí vì nó
là khởi đầu cho một loạt các hoạt động tác nghiệp sau này. Sự thành công hay
thất bại của các chính sách của cấp chính quyền phụ thuộc phần nhiều vào
việc lập kế hoạch đúng hay sai.
Mặt khác, nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ từ một nền kinh
tế tập trung bao cấp sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nên trong nội dung của kế hoạch phát triển quốc gia nói chung và của
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận, huyện nói riêng vẫn còn bao
hàm dung lượng nhất định của kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

21

trước đây. Điều đó làm cho công tác xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội ở các quận, huyện vẫn còn những hạn chế sau:
Thứ nhất, nhận thức về việc lập kế hoạch cũng như vai trò, vị trí của

kế hoạch ở cấp quận, huyện còn chưa đúng đắn. Hiện nay, có một nghịch lý
đang diễn ra đó là nước ta đang trong thời kỳ đổi mới tất cả mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội và lập kế hoạch cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Đây là một quá trình đổi mới toàn diện cả về nội dung lẫn hình thức. Tuy
nhiên, thực tế thì nhận thức về công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội ở các cấp quận (huyện) chưa thực sự theo xu hướng đổi mới này. Hay nói
đúng hơn thì công tác lập kế hoạch ở đây mới chỉ diễn ra về mặt hình thức
còn về mặt nội dung thì vẫn chỉ duy trì phương thức lập kế hoạch trong cơ chế
kế hoạch hóa tập trung trước đây nhưng đã có biến tướng ít nhiều.
Bên cạnh đó, thì vai trò và vị trí của kế hoạch ở quận huyện chưa được
đặt đúng chỗ. Xét một cách toàn diện thì do nhận thức về kế hoạch chưa đúng
hay đúng mà chưa đủ nên chính quyền cấp quận, huyện vẫn chưa thực sự sử
dụng công cụ kế hoạch, chưa coi đây là một công cụ quan trọng giúp cho việc
điều hành quản lý của chính quyền cấp quận, huyện trở nên hiệu quả hơn.
Tóm lại, đây là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những hạn chế khác của việc
lập kế hoạch ở quận, huyện.
Thứ hai, việc lập kế hoạch chưa thực sự làm cho kế hoạch gắn với thị
trường. Các căn cứ cho việc lập kế hoạch chưa xuất phát từ cơ sở đánh giá
đúng thực trạng kinh tế - xã hội của địa phương, các định hướng phát triển
chưa dựa trên sự nắm bắt quy luật, nắm bắt nhu cầu một cách khách quan.
Đúng hơn thì việc lập kế hoạch ở quận, huyện hiện nay vẫn còn mang nặng
tính chủ quan duy ý chí, chủ yếu xuất phát từ yêu cầu của kế hoạch cấp trên,

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp


22

không căn cứ vào thực trạng cũng như tiềm năng phát triển có thể của địa
phương.
Lâu nay, trong lập kế hoạch ở cấp quận, huyện thì chỉ quan tâm đến
nguồn lực tự nhiên, tài chính và trong nguồn lực tài chính cũng chủ yếu đề
cập đến nguồn lực từ ngân sách. Tuy nhiên, giữa kế hoạch và ngân sách nhiều
khi không có sự gắn kế thực sự, dẫn đến mục tiêu kế hoạch đề ra nhưng
không có hoặc không đủ nguồn lực để thực hiện. Điều này dẫn đến tình trạng
“kế hoạch treo”. Bên cạnh đó, thì cũng có một tình trạng là việc lập kế hoạch
ở địa phương chủ yếu dựa quá nhiều vào ngân sách nên dẫn đến việc lập kế
hoạch không khai thác hết các tiềm năng phát triển của địa phương nên việc
thực hiện kế hoạch lúc nào cũng đạt và vượt mục tiêu nên làm cho công tác
lập kế hoạch luôn bị xem nhẹ.
Thứ ba, mặc dù không thể hiện rõ về mặt hình thức nhưng việc lập kế
hoạch ở cấp quận, huyện hiện nay vẫn còn mang tính chất mệnh lệnh. Đây là
một trong những tồn tại lớn mà nền kinh tế tập trung bao cấp để lại. Trong đó,
các chỉ tiêu chính và chủ yếu vẫn do kế hoạch cấp trên giao xuống mang tính
chất áp đặt mà thiếu đi sự tham vấn của các bên hữu quan cũng như của cộng
đồng dân cư. Cũng như cơ sở chính cho việc lập kế hoạch ở quận, huyện đó là
dựa vào nguồn ngân sách được cấp cho. Dẫn đến việc đưa ra các giải pháp
chính sách thực hiện chư thực sự xuất phát từ quan điểm bảo vệ quyền lợi của
cộng đồng dân cư và tầng lớp yếu trong xã hội như người nghèo hay tầng lớp
dễ bị tổn thương. Vì vậy, kế hoạch ở đây thiếu đi tính hiệu quả nhiều khi gây
ảnh hưởng không tốt đến các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Thứ tư, việc lập kế hoạch làm cho kế hoạch thiếu đi tính linh hoạt,
không bám sát vào những diến biến luôn thay đổi của thị trường nên thiếu đi
những sự điều chỉnh kịp thời. Cần phải hiểu rằng, khi các điều kiện thị trường

SVTH: Nguyễn Thái Sơn


Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

23

thay đổi thì kế hoạch cũng cần phải thay đổi theo. Nhưng đối với việc xây
dựng kế hoạch ở cấp quận, huyện thì thực ra việc lập kế hoạch ở năm trước
không khác gì việc lập kế hoạch ở năm sau là bao nhiêu. Điều khác chủ yếu
đó là sự thay đổi của các con số cho phù hợp hơn với tình hình thực tế. Như
vậy, việc lập kế hoạch sẽ không nắm bắt được những cơ hội do cơ chế thị
trường tạo ra cũng như hạn chế bớt những hậu quả mà cơ chế thị trường để lại
một cách chủ động gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân
trên địa bàn.
Thứ năm, một hạn chế lớn nữa của việc lập kế hoạch là không làm cho
kế hoạch ở địa phương có được một cái nhìn dài hạn, mang tính chất đón bắt,
vì lợi ích chung, toàn cục của quận, huyện. Thông thường, việc lập kế hoạch ở
quận, huyện chỉ nhằm chú trọng đến điều hành sự vụ hàng năm. Còn việc xây
dựng một kế hoạch lâu dài cho địa phương nhiều khi không được chú ý lắm.
Hay nếu có thì cũng nhiều khi rơi vào tình trạng xây dựng xong rồi để đó. Từ
đó, dẫn đến giữa kế hoạch hàng năm và các kế hoạch dài hơi hơn như kế
hoạch 5 năm thiếu đi tính thống nhất về định hướng.
Tóm lại, ta có thể thấy rằng do chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên
một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên những hạn chế
trong việc lập kế hoạch cấp quận, huyện trên là một tất yếu khách quan. Đây
là tình trạng chung phổ biến trong cả nước nói chung và cũng là của Quận
Đống Đa – Hà Nội nói riêng. Bởi vì do cũng là một chính quyền Nhà nước
cấp quận, có quy trình, nội dung, phưong pháp lập kế hoạch cũng như những

nơi khác nên việc xây dựng kế hoạch ở quận Đống Đa – Hà Nội cũng gặp
phải những vấn đề tương tự như trên. Tuy nhiên, chính những hạn chế này
làm cho kế hoạch của quận đã không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế
đặt ra trong cơ chế thị trường, cũng như làm cho vai trò của công tác kế hoạch
quận luôn mờ nhạt, không còn hiệu quả nữa. Điều đó dẫn đến để tiếp tục giữ

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

24

vững vai trò trong điều kiện hiện nay thì cần phải đổi mới công tác lập kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở quận Đống Đa – Hà Nội, phải làm cho kế
hoạch trở thành một công cụ hữu hiệu giúp phát triển kinh tế, xã hội cũng như
nâng cao đời sống người dân trên địa bàn theo hướng phát triển chung của đất
nước.
4. Các yêu cầu trong lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận,
huyện.
Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ từ nền kinh tế tập trung
bao cấp sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì
những hạn chế trong công tác lập kế hoạch của cấp quận, huyện như trên là
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi
hỏi công tác lập kế hoạch của quận, huyện phải tiến hành đổi mới nhiều hơn
nữa, nhanh hơn cả về nội dung và phương pháp cho phù hợp với tình hình
mới. Vì vậy, để đảm bảo được vai trò của mình thì công tác lập kế hoạch ở

quận, huyện cần đáp ứng được một số yêu cầu mới như sau:
Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức tư duy của chính quyền cấp quận,
huyện cũng như những bên hữu quan và của cộng đồng dân cư về công tác lập
kế hoạch tại các địa phương. Đây là điều kiện đầu tiên đảm bảo cho quá trình
đổi mới lập kế hoạch có thể tiến hành thực hiện được hay không. Từ đó mới
có thể nâng cao vai trò quan trọng của kế hoạch ở cấp quận, huyện, đưa nó trở
thành một công cụ hữu ích của chính quyền đưa kinh tế xã hội ở địa phương
phát triển đi lên.
Thứ hai, việc lập kế hoạch ở quận, huyện phải đảm bảo sao cho kế
hoạch đó thể hiện được một tầm nhìn chiến lược dài hạn của địa phương, trên
cơ sở đánh giá đúng thực chất xuất phát điểm của quận, huyện. Như ta biết,

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


Luận văn tốt nghiệp

25

hoạt động của cơ chế thị trường hiện nay có một nhược điểm lớn đó là tính
thiển cận, chú trọng quá mức vào những lợi ích ngắn hạn, trước mắt mang
tính cá nhân mà thiếu mất cái nhìn tổng thể, theo đuổi những lợi ích dài hạn
mang tính xã hội. Với tư cách là người chăm lo lợi ích cho toàn thể nhân dân
trên địa bàn thì chính quyền quận,huyện không thể chấp nhận một tầm nhìn
hạn hẹp như vậy được. Thay vào đó, chính quyền quận, huyện cần điều hành
kinh tế xã hội địa phương mình theo một định hướng phát triển lâu dài và sử
dụng những công cụ có sẵn trong tay, trong đó có kế hoạch để đảm bảo nền
kinh tế xã hội của địa phương đi theo định hướng đã chọn.

Thứ ba, muốn kế hoạch trở thành một công cụ quan trọng, hữu ích để
quản lý Nhà nước ở quận, huyện thì việc lập kế hoạch phải dựa trên các
nguồn lực tại địa phương, trong đó không chỉ nguồn lực tự nhiên, vật chất và
tài chính, mà tất cả các nguồn lực khác về con người, thể chế, xã hội cũng cần
được phát huy tối đa. Từ trước đến nay, việc lập kế hoạch chủ yếu dựa trên
nguồn lực tự nhiên và tài chính mà chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước cấp cho
quận, huyện nên việc lập kế hoạch bị hạn chế rất nhiều, không thể tạo ra bước
đột phá cho địa phương, nhất là trong điều kiện nguồn lực ngân sách đã tương
đối ổn định theo Luật Ngân sách 2002. Vì vậy, cần phải lập kế hoạch sao cho
kế hoạch có thể phát huy được sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực trên địa
bàn để đạt được các mục tiêu đặt ra.
Thứ tư, lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở quận, huyện phải đảm
bảo mục tiêu phát triển bền vững. Trong đó, phải thể hiện tính hài hòa phát
triển trên cả ba mặt kinh tế – văn hoá, xã hội – môi trường. Vì vậy, khi xác
định mục tiêu cho kế hoạch ở quận, huyện thì phải đặt mục tiêu xoá đói, giảm
nghèo làm một trong những mục tiêu cơ bản của mình. Trong nội dung của kế
hoạch cũng cần chuyển dần từ mặt lượng sang mặt chất của sự phát triển, chú
trọng hơn đến các mục tiêu xã hội.

SVTH: Nguyễn Thái Sơn

Lớp: Kế hoạch 46A


×