Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Tình vợ chồng trong một số tác phẩm trữ tình thế kỷ XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.75 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––

PHẠM THỊ HỒNG VÂN

TÌNH VỢ CHỒNG TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
THẾ KỶ XVIII

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––

PHẠM THỊ HỒNG VÂN

TÌNH VỢ CHỒNG TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
THẾ KỶ XVIII
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Thanh Nga


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tình vợ chồng trong một số tác phẩm trữ tình
thế kỷ XVIII ” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi không sao chép của ai. Các kết quả
của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác
phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu sai
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Thị Hồng Vân

i


LỜI CẢM ƠN
Luận văn đã được hoàn thành tại khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên.
Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới TS. Ngô Thị Thanh Nga, người tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều
kiện cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu, phòng
Sau Đại học, khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Thư viện trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,
Trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên, Thư viện Quốc gia Hà Nội đã cung
cấp cho em nhiều nguồn tư liệu bổ ích phục vụ cho việc nghiên cứu.

Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những
người thân đã động viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành
luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Thị Hồng Vân

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ..................................................................................................................i
Lời cảm ơn .....................................................................................................................ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
MỞ
.......................................................................................................................1

ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................1
2.
Lịch
sử
vấn
............................................................................................................2

đề


3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................6
6. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................7
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................................7
8. Đóng góp của đề tài ...................................................................................................8
NỘI DUNG ...................................................................................................................9
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................................................9
1.1. Tác phẩm trữ tình....................................................................................................9
1.2. Tình vợ chồng trong văn học trung đại.................................................................12
1.3. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, đời sống tư tưởng văn hóa thế kỷ XVIII .....................17
1.3.1. Bối cảnh lịch sử .................................................................................................17
1.3.2.
Tình
hình
kinh
................................................................................................19

tế

1.3.3. Đời sống tư tưởng, văn hóa ...............................................................................20
1.4. Khái quát về một số tác giả và tác phẩm trữ tình thế kỷ XVIII...........................21
1.4.1. Tác giả Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm và tác phẩm Chinh phụ
ngâm khúc ....................................................................................................................21
1.4.2. Tác giả Phạm Nguyễn Du và tác phẩm Đoạn trường lục..................................23
1.4.3.
Tác
giả


Ngọc
.....................................................24

Hân



tác

phẩm

Ai



vãn

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................25
3


Chương
2:
ĐẶC
ĐIỂM
.................................................26

TÌNH

4


CẢM

VỢ

CHỒNG


2.1. Tình cảm thương nhớ............................................................................................26
2.1.1. Nỗi thương nhớ khi vợ chồng sống xa cách ......................................................26
2.1.2. Nỗi thương nhớ khi vợ (chồng) đã khuất ..........................................................32
2.2. Nỗi buồn đau, cô đơn, lo sợ ..................................................................................38
2.2.1. Nỗi buồn đau, cô đơn, lo sợ của người ở hậu phương.......................................39
2.2.2. Nỗi buồn đau, cô đơn, lo sợ của người còn lại nơi dương thế...........................45
2.3. Niềm hạnh phúc, hy vọng .....................................................................................51
2.3.1. Niềm hạnh phúc và hy vọng được trùng phùng sau những ngày xa cách .........52
2.3.2. Niềm hạnh phúc, hy vọng được tái hợp ở kiếp sau ...........................................56
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................60
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TÌNH CẢM VỢ CHỒNG......................61
3.1. Hình tượng nhân vật trữ tình ................................................................................61
3.1.1. Hình tượng nhân vật trữ tình nhập vai ...............................................................61
3.1.1. Hình tượng nhân vật trữ tình là tác giả ..............................................................63
3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật..........................................................................68
3.2.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................................68
3.2.2. Thời gian nghệ thuật ..........................................................................................75
3.3. Ngôn ngữ, thể thơ và giọng điệu ..........................................................................81
3.3.1. Ngôn ngữ và thể thơ ..........................................................................................81
3.3.2. Giọng điệu..........................................................................................................86
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................89
KẾT LUẬN.................................................................................................................91

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ...... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................94

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1


Văn học trung đại Việt Nam là nền văn học tồn tại và phát triển trong xã hội
phong kiến. Lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức được đào tạo từ cửa
Khổng sân Trình. Họ chịu ảnh hưởng khá lớn của Nho học. Quan niệm sáng tác văn
học của họ theo phương châm thơ để nói chí (chí của người quân tử - tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ); văn để tải đạo (chuyển tải đạo lý thánh hiền đến với cộng
đồng, giáo hóa nhân quần). Nhưng đời sống văn học luôn vận động không ngừng như
một dòng chảy liên tục. Dần dần các nhà thơ coi nhẹ quan niệm chính thống mà đề
cao quan niệm thơ nói tình. Có thể nói, sang thế kỉ XVIII, nhân vật trữ tình không
phải là nhà chính trị, bậc nho sĩ “ưu quốc ái dân”, cũng không phải là bậc thánh nhân
quân tử hướng đến lí tưởng tu thân; mà là những con người đời thường (bao gồm cả
người phụ nữ) với trạng thái tâm lí hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục (mừng, giận, buồn, ghét,
thương, sợ, muốn).
Các thi sĩ đã mở rộng phạm trù tình trong thơ của mình. Thơ không còn bó hẹp
trong chữ chí của kẻ sĩ tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ, mà đã được mở rộng tới
các cung bậc cảm xúc của con người trước cuộc đời, trong đó có tình yêu đôi lứa.
Song dưới thời phong kiến, tình yêu nam nữ bị cấm kỵ trong đời sống xã hội. Pháp
luật và lễ giáo phong kiến không thừa nhận con người có quyền tự do yêu đương, tự
do kết hôn. Hôn nhân là quyền của bố mẹ, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Vì thế, khi

nói đến tình cảm vợ chồng, hầu hết các nhà nho thường né tránh, hoặc diễn tả rất xa
xôi, bóng gió, mờ nhạt. Nhưng kể từ khi Chinh phụ ngâm khúc ra đời, thì tình yêu vợ
chồng - một thứ tình cảm rất nhân văn - đã được Đặng Trần Côn đề cao. Một số nhà
thơ trung đại đã không ngần ngại khi viết về tình cảm vợ chồng của chính mình như:
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương,... thậm chí có những nhà nho đã dành cả tập thơ để
viết về tình cảm vợ chồng với hạnh phúc ngắn ngủi nơi trần thế, về nỗi đau của người
chồng khi mất đi người vợ yêu dấu như: Ngô Thì Sĩ với Khuê ai lục, Phạm Nguyễn
Du với Đoạn trường lục... Và ngay cả Hoàng hậu Lê Ngọc Hân cũng không thể giấu
kín tình cảm cá nhân qua khúc ngâm Ai tư vãn.
Vậy, sống trong xã hội phong kiến, tình cảm vợ chồng được biểu hiện với các
cung bậc cảm xúc như thế nào? Điều này đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu đề tài Tình

2


vợ chồng trong một số tác phẩm trữ tình thế kỷ XVIII, với mong muốn đóng góp thêm
một cái nhìn mới mẻ về tiếng nói nhân văn của văn học ở thế kỷ này.
2. Lịch sử vấn đề
Chinh phụ ngâm khúc, Đoạn trường lục và Ai tư vãn là những tác phẩm có giá
trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Do đó, các nhà nghiên cứu xưa nay đã dành
nhiều bút lực để tìm hiểu, đánh giá về những tác phẩm này.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc
Đây là tác phẩm nổi tiếng của Đặng Trần Côn được viết bằng chữ Hán, theo thể
thơ Cổ phong trường đoản cú. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm này đã được người
đương thời hết sức hâm mộ và tán thưởng. Vì thế có rất nhiều văn sĩ đã dịch tác phẩm
ra chữ Nôm. Bản dịch thành công nhất, phổ biến nhất xưa nay và được đông đảo nhân
dân yêu thích là bản dịch Chinh phụ ngâm khúc hiện hành theo thể song thất lục bát
(tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm - người cùng thời với Đặng Trần Côn). Trong
khi dịch tác phẩm ra Quốc âm, các học giả đã bình giá tác phẩm thiên về phương diện
nghệ thuật. Phan Huy Chú là người đầu tiên chú ý đến cảm hứng chủ đạo của Đặng

Trần Côn. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: “Chinh phụ
ngâm, một quyển. Hương cống Đặng Trần Côn soạn. Vì đầu đời Cảnh Hưng có việc
binh đao, cảnh biệt li của người đi chinh thú khiến ông cảm xúc mà làm” [2, tr.502].
Từ đầu thế kỉ XX, trong khi làm công việc khảo thích, chú giải tác phẩm Chinh
phụ ngâm khúc, các nhà nghiên cứu bình luận, đánh giá tác phẩm trên hai phương diện
nội dung và nghệ thuật. Các tác giả ca ngợi người chinh phụ là tấm gương của nền đạo
đức Nho giáo. Tác giả Nguyễn Đỗ Mục trong Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải viết:
“Một người đàn bà trong khi vắng chồng hàng bao nhiêu năm mà vẫn giữ trọn được
bổn phận như thế phỏng có phải là cái gương quý báu đáng soi ở cõi Á Đông này
không” [25, tr.8]. Tác giả Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu đã
viết: “Bao nhiêu tâm sự của một người phụ nữ vắng chồng mà biết thủ tiết được tả rõ
cả ra” [11, tr.306].
Cuốn Giảng văn chinh phụ ngâm của Giáo sư Đặng Thai Mai đã phân tích toàn
diện về tác phẩm và cho rằng: nội dung của khúc ngâm chủ yếu nhằm diễn tả mối sầu
xa cách của đôi vợ chồng trẻ đang sống hạnh phúc nhưng phải chia lìa bởi người
chồng hăng hái ra đi thực hiện nghĩa vụ làm trai.

3


Cuốn giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX của
Nguyễn Lộc viết về Chinh phụ ngâm khúc từ góc độ phê phán chiến tranh phi nghĩa:
“Nếu đối với người chồng đi chinh chiến, chiến tranh là chết chóc, thì mặt khác, đối
với người vợ ở nhà, chiến tranh là sự phá vỡ cảnh êm ấm gia đình, là cô đơn, sầu
muộn” [22, tr.154].
Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang - Nguyễn Lộc trong cuốn Những khúc
ngâm chọn lọc có nói về tác giả, dịch giả, giới thiệu những nét khái quát về nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc. Các tác giả đã đưa ra nhận xét:
“Chinh phụ ngâm khúc đã nói những vấn đề của thời đại bằng chính tiếng nói của
thời đại. Thế kỷ XVIII, con người được phát hiện, vươn lên đòi quyền sống, quyền

yêu đương tự do. Một trào lưu có tính chất nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc đã thấm nhuần
vào từng tác phẩm, trong đó có những tác phẩm ngâm khúc” [7, tr.16].
Trong cuốn Định giá nội dung Chinh phụ ngâm khúc theo đặc trưng thể loại, tác
giả Ngô Văn Đức đã tìm hiểu tâm trạng của nhân vật trữ tình dưới góc độ đặc trưng
thể loại ngâm khúc và khẳng định rằng: “Chính hạnh phúc của tình yêu tuổi trẻ sống
bên nhau mới là thứ hạnh phúc quý giá nhất trên đời” [10, tr.50].
Trong cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn tiếp cận Chinh phụ ngâm khúc dưới góc độ văn hóa học. Ông cho
rằng Chinh phụ ngâm khúc chính là tác phẩm đậm sắc thái nữ quyền của văn học Việt
Nam trung đại. Bởi vì, ở khúc ngâm đó “tác giả là một nho gia - một người đàn ông,
nhưng đã đứng trên điểm nhìn của người phụ nữ - người vợ lính, phát ngôn “thiếp”,
tức nhân danh nhân vật trữ tình để giãi bày lên trang giấy các tâm tư nguyện vọng,
nỗi niềm sâu kín của người phụ nữ xa chồng ...” [47, tr.431].
Ngoài ra còn rất nhiều các bài báo, chuyên luận nghiên cứu về các khía cạnh
của tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc như: Phong Châu - Chinh phụ ngâm khúc, khúc
ca oán ghét chiến tranh, Văn Tân - Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm hay là một
tác phẩm chống chiến tranh, Ngô Văn Đức - Ngâm khúc - Quá trình hình thành, phát
triển và thi pháp thể loại, Đàm Thị Thu Hương - Chinh phụ ngâm và sự phá vỡ ranh
giới giữa tự sự và trữ tình, Trầm Thanh Tuấn - Thời gian nghệ thuật trong Chinh phụ
ngâm nhìn từ góc độ ngôn ngữ, ...
Tác phẩm Đoạn trường lục
Đây là tác phẩm nói về nỗi đau của chính tác giả Phạm Nguyễn Du khi mất đi
người vợ yêu dấu. Trong cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tác giả Nguyễn Đổng
Chi nhận
4


xét: “Tiếng khóc vợ của Phạm Nguyễn Du, Ngô Thì Sĩ đượm tính chất cận đại, tác
phẩm của họ có bóng dáng Linh phượng ký của Đông Hồ” [40, tr.529].
Cuốn Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam của Trần Ngọc Vương đã giới thiệu

hai loại hình nhà nho chính thống (nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật) và loại hình
nhà nho tài tử; đồng thời nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương cũng trích dẫn các tác
phẩm văn chương tài tử tiêu biểu, trong đó có bốn bài thơ rút ra từ tập Đoạn Trường
lục của Phạm Nguyễn Du.
Cuốn Tổng tập văn học Việt Nam, tập 14 - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2000, tác giả Đặng Đức Siêu sưu tầm, biên soạn, giới thiệu những thành tựu nổi
bật trên lĩnh vực văn chương - học thuật qua văn thi phẩm của một số tác gia tiêu biểu
từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Ở phần Khải luận đầu tập sách, tác giả nhận xét về
Phạm Nguyễn Du: “Chính ông cũng đã bộc lộ một cách sinh động, sâu sắc, thống thiết
tình nhớ thương người vợ trẻ qua đời trong tác phẩm Đoạn trường lục” [34, tr.27].
Khi dịch chú và giới thiệu về tập Đoạn trường lục, nhà nghiên cứu Phan Văn
Các đã rất có lí khi nhận xét: “Sự xuất hiện của Đoạn trường lục với ngót một trăm
đơn vị sáng tác (văn tế, văn cúng, thơ, câu đối) tập trung vào đề tài nhớ thương người
vợ mới qua đời của Phạm Nguyễn Du, cùng với Khuê ai lục của Ngô Thì Sĩ gần như
đồng thời (Khuê ai lục 1770 - 1772, Đoạn trường lục 1772 ) quả thật đã mang lại một
nét mới cho văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XVIII” [5, tr.45].
Luận án Tiến sĩ Thơ tình Việt Nam: Thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XIX của Đặng Thị
Hảo có đề cập đến nhà thơ Phạm Nguyễn Du. Khi nghiên cứu về mảng thơ tình ở thế
kỉ XVIII, tác giả luận án đã xếp hai nhà thơ Phạm Nguyễn Du và Ngô Thì Sĩ vào một
nhóm, bởi hai nhà thơ này có những điểm tương đồng về phong cách lại cũng rất gần
nhau trong cùng một giai đoạn sáng tác. “Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du - hai nhà thơ
tiêu biểu của thơ tình yêu trong hôn nhân, mở cánh cửa thơ tình thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX” [13, tr.102]. “Các ông bước thẳng vào tình yêu cá nhân, mỗi người
một tiếng nói riêng, không pha trộn, không lẫn, có riêng nhưng cũng có những tương
đồng gặp gỡ. Và người đọc cảm xúc đối với những vần tâm sự của các ông như đang
được đọc chính nỗi lòng mình” [13, tr.119].
Gần đây nhất vào năm 2017, khóa luận tốt nghiệp đại học của Đặng Thị Hồng
Nhung với nhan đề “Giá trị thơ ca Phạm Nguyễn Du qua tập thơ Đoạn trường lục”
đã trình bày khái quát về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, nhưng tác giả chưa đi
sâu nghiên cứu các cung bậc tình cảm vợ chồng trong tác phẩm Đoạn Trường lục.


5


Tác phẩm Ai tư vãn
Ai tư vãn là áng văn Nôm trữ tình đặc biệt của Lê Ngọc Hân. Đây là một trong
những tác phẩm sáng giá và ra đời sớm nhất viết về vua Quang Trung - Nguyễn Huệ,
người anh hùng “áo vải” được lưu danh trong lịch sử văn hóa dân tộc.
Năm 1999, kỷ niệm 200 năm ngày mất của Hoàng hậu Lê Ngọc Hân (1799 1999), PGS.TS. Chu Quang Trứ có bài viết Danh nhân Lê Ngọc Hân. Trong bài viết,
nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ đã nói về cuộc đời của Lê Ngọc Hân và đánh giá Ai
tư vãn là tác phẩm văn học ca ngợi sự nghiệp của vua Quang Trung một cách súc tích
mà ngắn gọn.
Khi nghiên cứu về Ai tư vãn, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn đã nhìn nhận tác
phẩm từ góc độ tâm lý sáng tạo nghệ thuật. Qua bài viết Ai tư vãn, bằng cớ mối tình
sâu nặng Ngọc Hân - Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Sơn khẳng định nỗi niềm riêng tư
của Lê Ngọc Hân chính là nguồn cảm xúc cơ bản, cốt lõi nhất, nó chi phối, định
hướng toàn bộ nội dung trữ tình của Ai tư vãn.
Ở bài viết Tiếng khóc thành ngâm, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã đề cập đến
cách phân chia bố cục và khái quát nội dung tác phẩm Ai tư vãn. Nhà phê bình cho
rằng Lê Ngọc Hân không có ý định làm thi sĩ “nhưng nỗi khổ đau, sự can đảm giãi
bày nội tâm, việc chọn đúng thể loại ngâm khúc và tài năng sử dụng ngôn ngữ đã
khiến bà trở thành một thi sĩ, một thi sĩ ngoài ý muốn nhưng thật tuyệt vời” [49,
tr.172].
Năm 2014, nhân kỷ niệm 215 năm ngày Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân qua
đời (1799 - 2014), nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho ra mắt cuốn Bắc cung
Hoàng hậu Lê Ngọc Hân thời ở Huế. Đây là một công trình nghiên cứu lịch sử có giá
trị, nhiều tư liệu quý hiếm về Ngọc Hân. Với sự nghiên cứu công phu, cùng với
những luận giải logic, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã góp phần làm sáng tỏ các
nghi án và giải tỏa những hàm oan cho Lê Ngọc Hân. Một vấn đề quan trọng nữa là
nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều chứng cứ để khẳng định Lê Ngọc Hân viết tác phẩm

Ai tư vãn ở chùa Kim Tiên và cũng tại ngôi chùa này bà đã qua đời.
Ở bài viết Biểu hiện của ngôn ngữ giới trong “Ai tư vãn ”của Lê Ngọc Hân, tác
giả Võ Thanh Hương đã chỉ ra các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến ngôn từ, đặc biệt là
sự “ảnh hưởng của giới” lên cách lựa chọn ngôn từ của Lê Ngọc Hân. “Ngôn từ trong
Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân nữ tính, khiêm nhường, luôn biết nép mình trong câu chữ
để tạo nên sự cao cả cho đối tượng được ca tụng. Từ sự nép mình cao cả ấy, đức hi

6


sinh cao đẹp của người phụ nữ chung tình, thủy chung hiện lên trọn vẹn, rạng ngời”
[16, tr.94].

7


Ngoài ra còn có một số bài báo, chuyên luận nghiên cứu về các khía cạnh khác
nhau của tác phẩm Ai tư vãn như: Hà Thị Phượng - Đặc trưng thi pháp của Ai Tư Vãn
và Quả Phụ Ngâm trong cái nhìn đối sánh; Hoài Nam - Tiếng khóc thành thơ của
một bà hoàng; Vương Thị Phương Thảo - Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - đầu XIX
với vấn đề cái chết; Nguyễn Thị Thu - Nghệ thuật diễn tả tâm trạng nhân vật trong
Ai tư vãn;... Những bài viết này ít nhiều đã làm sáng rõ giá trị của tác phẩm về
phương diện nội dung và nghệ thuật.
Như vậy, qua việc khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy rằng: tác phẩm Chinh phụ
ngâm khúc, Đoạn trường lục và Ai tư vãn đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, chú
ý ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau. Nhưng cho đến nay chưa có một công trình
nào đặt vấn đề tình cảm vợ chồng trong những tác phẩm trên làm đối tượng nghiên
cứu chính. Do vậy, tiếp thu những ý kiến, những gợi dẫn quý báu của các nhà nghiên
cứu đi trước, chúng tôi thực hiện đề tài: Tình vợ chồng trong một số tác phẩm trữ tình
thế kỷ XVIII, với mong muốn đóng góp thêm một cái nhìn có tính hệ thống, toàn diện

và rõ hơn về một trong những giá trị nhân văn của văn học giai đoạn này - tình cảm
vợ chồng.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu tình vợ chồng trong
một số tác phẩm văn học thế kỷ XVIII như: Chinh phụ ngâm khúc, Đoạn trường lục
và Ai tư vãn với mong muốn đóng góp thêm một cái nhìn mới mẻ, sâu sắc hơn về chủ
nghĩa nhân văn được thể hiện qua những tác phẩm xuất sắc này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như: tác phẩm
trữ tình; tình vợ chồng trong văn học Việt Nam trung đại; bối cảnh lịch sử, kinh tế,
đời sống tư tưởng văn hóa thế kỷ XVIII; thân thế và thời đại Đặng Trần Côn, Phạm
Nguyễn Du, Lê Ngọc Hân.
Phân tích các đặc điểm tình cảm vợ chồng trong Chinh phụ ngâm khúc, Đoạn
trường lục và Ai tư vãn. Đồng thời luận văn cũng chỉ ra và phân tích các hình thức
nghệ thuật được sử dụng để làm nổi bật tình cảm vợ chồng trong những tác phẩm trên.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu tình vợ chồng trong một số
tác phẩm văn học trữ tình tiêu biểu thế kỷ XVIII.

8


5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn), bản dịch Chinh phụ ngâm
khúc hiện hành theo thể song thất lục bát, dài 408 câu (tương truyền của Đoàn Thị
Điểm), trích trong Những khúc ngâm chọn lọc, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm
1994.
- Tác phẩm Đoạn trường lục (Phạm Nguyễn Du), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 2001.

- Tác phẩm Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), trích trong Tổng tập văn học Việt Nam,
tập 13B, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1997.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này chúng tôi sử dụng trong việc thống
kê cụ thể các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu như: từ ngữ, giọng điệu...
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp nhằm tìm hiểu các tài liệu có liên quan đến đề tài. Phân tích những dẫn
chứng cụ thể, tiêu biểu để làm rõ tình vợ chồng trong một số tác phẩm trữ tình thế kỷ
XVIII. Phương pháp tổng hợp không chỉ giúp chúng tôi có một cái nhìn khái quát về
vấn đề nghiên cứu; mà còn giúp chúng tôi khái quát lại những nội dung chính ở các
chương, mục.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này làm nổi bật những sáng tạo mới mẻ
của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có
liên hệ, sử dụng một cách đúng mực kiến thức của các ngành văn hóa học, lịch sử,
triết học,... nhằm giúp cho việc đánh giá và nhìn nhận vấn đề nghiên cứu được toàn
diện, sâu sắc hơn.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần
Nội dung được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm tình cảm vợ chồng
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tình cảm vợ chồng

9


8. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã chỉ ra những cơ sở để nảy sinh tình vợ chồng trong văn học trung đại,

từ đó đi sâu diễn giải các đặc điểm tình cảm vợ chồng, nghệ thuật thể hiện các cung
bậc tình cảm đó trong ba tác phẩm trữ tình tiêu biểu ở thế kỷ XVIII: Chinh phụ ngâm
khúc, Đoạn trường lục và Ai tư vãn.
Đề tài là một trong những nguồn tư liệu hữu ích phục vụ cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về thơ ca trữ tình thế kỷ XVIII ở nhà trường các cấp.

10


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tác phẩm trữ tình
“Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc tập
thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sống con người,
biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại. Tác phẩm văn học có
thể tồn tại dưới hình thức truyền miệng hay hình thức văn bản nghệ thuật được giữ
gìn qua văn tự, có thể được viết bằng văn vần hay văn xuôi” [12, tr.290].
Tác phẩm văn học nào cũng tồn tại trong một hình thức nghệ thuật phù hợp nhất
định. Hình thức cơ bản nhất, quan trọng nhất của tác phẩm văn học chính là thể loại
văn học. Quan niệm phân chia thể loại văn học đã có từ thời cổ đại trong tác phẩm
Nghệ thuật thơ ca của Arixtốt (Hy Lạp). Có nhiều cách phân chia thể loại nhưng cơ
sở chung để phân loại là dựa vào phương thức (cách thức phản ánh hiện thực và biểu
hiện tình cảm của tác phẩm). Phần lớn các nhà nghiên cứu đều tán thành phân các tác
phẩm văn học ra làm ba loại lớn: tự sự, trữ tình và kịch.
“Trữ tình là một trong ba phương thức thể hiện đời sống (bên cạnh tự sự và
kịch) làm cơ sở cho một loại tác phẩm văn học” [12, tr.373]. Tự sự thể hiện tư tưởng,
tình cảm của tác giả bằng cách tái hiện lại một cách khách quan các hiện tượng đời
sống. Còn trữ tình phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người.

Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng, tình cảm, nhưng mỗi loại tác
phẩm lại thể hiện theo cách khác nhau. Ở tác phẩm tự sự, tác giả xây dựng bức tranh
về cuộc sống, trong đó các nhân vật có đường đi và số phận của chúng. Viết về đề tài
người nông dân nghèo, các nhà văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao... đã
dựng lên bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói, xơ xác trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Trong bức tranh xã hội đó, mỗi người nông dân có một
số phận bi thảm riêng: chị Dậu khốn khổ vì sưu cao thuế nặng, anh Pha khốn đốn vì
nạn cho vay nặng lãi, nạn quan lại tham nhũng, hay Chí Phèo bị đẩy vào tình trạng
tha hóa, lưu manh hóa,...

11


Còn ở kịch bản văn học, bằng những đối thoại và độc thoại, tác giả kịch lại thể
hiện tính cách và hành động con người qua những mâu thuẫn xung đột. Lời thoại
trong vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng cho thấy tính cách nổi bật nhất của
Vũ Như Tô là tính cách của người nghệ sĩ tài ba, mang trong mình niềm khát khao và
đam mê sáng tạo cái đẹp; tính cách của Đan Thiềm là tính cách của người đam mê cái
tài (cụ thể là tài sáng tạo nên cái đẹp)... Lời thoại của các nhân vật cho thấy nhiều
xung đột kịch: xung đột giữa lợi ích của bạo chúa với quyền sống của thường dân;
xung đột giữa niềm khát khao hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ tài ba
với lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân... Trong đó, xung đột thứ hai là chủ
yếu và tạo nên bi kịch của Vũ Như Tô.
Tác phẩm trữ tình là tác phẩm chủ yếu dùng phương thức trữ tình để miêu tả.
Trong tác phẩm trữ tình, thế giới chủ quan của con người (cảm xúc, tâm trạng, ý
nghĩ) được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu. Thơ ca trữ tình biểu
hiện tâm hồn con người với mọi cung bậc cảm xúc như:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Trông
về quê mẹ ruột đau chín chiều.
(Ca dao)


12


Hay:
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đến đã lâu rồi
Từ độ yêu nhau hoa nở mãi.
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
(Xuân Diệu, Nguyên đán)
Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ
quan của con người. Trong bài Ðây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, ẩn sau bức tranh
thiên nhiên xứ Huế mộng mơ là tâm trạng và cảm xúc của chính nhà thơ:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
(Hàn Mặc Tử, Ðây thôn Vĩ Dạ)

13


Tác phẩm trữ tình thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả. Tác giả trực tiếp
bộc lộ những tình cảm yêu thương, căm giận của mình trước hiện thực cuộc đời.
Chính tình cảm riêng tư của tác giả giữ vai trò quan trọng tạo nên giá trị của tác
phẩm. Những tác phẩm trữ tình có giá trị được người đọc yêu mến xưa nay bao giờ
cũng thắm đẫm suy tư của cá nhân nhưng đồng thời cũng đánh động tình cảm, tâm
trạng... của cả một lớp người, một thời đại nhất định. Xuyên suốt bài thơ Tràng giang
của Huy Cận là một nỗi buồn triền miên vô tận. Đó không chỉ là nỗi buồn của Huy
Cận trước sông núi đất trời mà còn là nỗi buồn của cả một thế hệ các nhà thơ mới, cả

dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt dưới thời Pháp thuộc.
Ở tác phẩm trữ tình, nhân vật trữ tình là người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm
xúc. Nói cách khác, nhân vật trữ tình chính là chủ thể trữ tình, người tự phát ngôn, tự
miêu tả và tự bộc lộ. Xác định được “ai đang nói” là biết được nhân vật trữ tình. Cảm
xúc của nhân vật trữ tình thường nảy sinh do một sự kiện, hình ảnh, ngoại cảnh tác
động, đó chính là “xúc cảnh sinh tình”.
Lời văn trong tác phẩm trữ tình mang tính biểu cảm, giàu hình ảnh, nhạc điệu.
Không chỉ thơ trữ tình mà những tác phẩm trữ tình viết bằng văn xuôi cũng giàu chất
thơ. Nhà văn Nguyễn Tuân viết về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà với câu văn giàu
hình ảnh, mang dáng dấp mềm mại, yên ả, trải dài như chính dòng nước đó: “Con
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo
đốt nương xuân” [50, tr.596]. Thậm chí, tác giả còn sử dụng câu văn toàn thanh bằng
diễn tả con thuyền êm ái nhẹ nhàng trôi: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” [50, tr.597].
Lời văn của tác phẩm trữ tình thường là lời bộc lộ. Chủ thể đánh giá, phẩm bình
đối tượng miêu tả, trực tiếp bộc lộ cảm xúc của mình. Nhà thơ Tố Hữu đã không thể
giấu được cảm xúc tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam:
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca
(Tố Hữu, Ta đi tới)
Tác phẩm trữ tình không phải chỉ có thơ trữ tình, cho dù nó là tiêu biểu nhất.
Ngoài thơ trữ tình còn có tùy bút, ca trù, từ khúc,...


Như vậy, tác phẩm trữ tình là văn bản chủ yếu dùng phương thức trữ tình để
biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước cuộc sống. Trên cơ sở lí luận về tác
phẩm trữ tình, chúng tôi tiến hành tìm hiểu tình vợ chồng trong ba tác phẩm văn học
trữ tình ở thế kỷ XVIII là Chinh phụ ngâm khúc, Đoạn trường lục và Ai tư vãn.

1.2. Tình vợ chồng trong văn học trung đại
Văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là nền văn học tồn tại và
phát triển trong xã hội phong kiến. Mười thế kỷ văn học này còn được gọi là văn học
trung đại (hay văn học cổ). Lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức chịu ảnh
hưởng sâu sắc của Hán học. Quan niệm về văn học của họ là coi trọng mục đích giáo
huấn “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo”. Đạo đức Nho gia khuôn nén con người, mà
chủ yếu là tầng lớp Nho sĩ phải “khắc kỷ phục lễ”, phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”, hay “an bần lạc đạo”...
Để chứng tỏ quyền lực tối cao và phục vụ cho lợi ích của mình, giai cấp phong
kiến thống trị áp đặt con người cả thể xác và tâm hồn. Con người bị trói buộc bởi các
mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ nam nữ, quan hệ yêu đương. Việc kết hôn phải
do cha mẹ sắp đặt, phải được xã hội thừa nhận.
Dưới thời phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ vô cùng nặng nề. Đàn ông
là người có quyền quyết định mọi việc lớn nhỏ trong gia đình, nên việc họ có năm thê
bảy thiếp được xã hội công nhận và là điều phổ biến trong xã hội phong kiến xưa.
Chính tư tưởng này đã khiến đàn ông tự cho mình quyền gia trưởng. Còn người phụ
nữ phải tam tòng, tứ đức. Họ phải “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử”, phải có đủ các phẩm chất “công, dung, ngôn, hạnh”, họ phải lấy chữ “tiết”, chữ
“trinh” mà noi theo để giữ gìn phẩm giá. Nói cách khác, nữ giới không có bất cứ một
quyền hạn gì, không được có chủ kiến, phải sống phụ thuộc vào người khác. Vai trò
của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội không được đề cao, thậm chí còn bị
coi rẻ.
Có thể nói, lễ giáo phong kiến đã kiềm tỏa tình cảm của con người, không để
cho tình cảm riêng tư xuất hiện, đặc biệt là tình yêu đôi lứa. Nhưng lịch sử loài người
luôn vận động phát triển. Cùng với quá trình thức tỉnh, trỗi dậy lớn mạnh của con
người cá nhân, thì cái “tôi” trong văn học được biểu hiện rõ hơn, tình cảm cá nhân,
tình yêu (vốn có nguồn gốc sâu xa từ văn học dân gian) dần đậm nét và định hình
trong văn học trung đại. Các nhà nho đã dành những trang thơ văn viết về đời sống
riêng tư, về tình cảm vợ chồng của chính mình.



Trước thế kỷ XVIII, các nhà thơ rất ít khi viết về tình cảm vợ chồng của chính
mình, hoặc nếu có viết thì cũng rất xa xôi, bóng gió như bài Tiếc cảnh số 10 của
Nguyễn Trãi:
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ,
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.
(Quốc âm thi tập, Tiếc cảnh số 10)
Nhưng từ thế kỷ XVIII trở đi, những chuyển biến mạnh mẽ của lịch sử, xã hội
đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Tư tưởng dân chủ phát triển tạo điều kiện
cho con người cá nhân xuất hiện, nhu cầu giải phóng tình cảm đã trở nên cấp thiết,
một trong những tình cảm cần được giải phóng là tình vợ chồng. Tình yêu và hạnh
phúc gia đình trở thành vấn đề chủ yếu của con người thời đại. Lớp nhà nho đương
thời không còn coi tình yêu là một điều đáng sợ như các bậc tiền bối nữa, mà họ luôn
coi trọng nó. Tình yêu trở nên cao đẹp và là cội nguồn của hạnh phúc. Đề tài tình yêu
nói chung, tình vợ chồng nói riêng như có ma lực thu hút hầu hết các tầng lớp xã hội
như: những sĩ phu đạo mạo, những quan lại trang nghiêm, những tiểu thư khuê các...
Một số thi sĩ không chỉ mượn nỗi lòng của kẻ khác, câu chuyện của người khác để
biểu đạt tình yêu mà còn trình bày trực tiếp trước công chúng độc giả chuyện tình yêu
của chính mình. Đó là Nguyễn Kiều đau quặn lòng trước linh cữu Đoàn Thị Điểm một nữ sĩ tài ba nhất trong lịch sử văn học nước Nam:
Đào chưa quả đã vội khô,
Quế đang thơm mà đã rủ!
Rừng sâu bể rộng. Nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
(Văn tế Đoàn Thị Điểm)
Hay là Ngô Thì Sĩ đau khổ, đã phải thốt ra lời cái ý nghĩ day dứt “Nếu sớm biết
vì làm quan xa mà phải ly biệt đau khổ đến thế, thì chức vạn hộ hầu có đáng kể gì”
trong Khuê ai lục; là Phạm Nguyễn Du khóc nức nở: “Ôi ! Ta với nàng là một người /
Cớ sao vừa hợp lại đã vội phân chia” trong Đoạn trường lục; là Hoàng hậu Lê Ngọc

Hân bàng hoàng, hụt hẫng “nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!” trong Ai tư vãn. Ngay
cả Tự Đức - vị vua nổi tiếng trong lịch sử triều Nguyễn cũng từng than tiếc, nhớ
nhung một người phi yêu dấu chẳng may thác sớm:


Ới Thị Bằng ơi ! đã mất rồi!
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi!
Và còn muốn:
Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi.
(Khóc Bằng phi )


Có lẽ, đây là những câu hay nhất, lãng mạn nhất và cảm động nhất trong bài thơ
Khóc Bằng phi của vua Tự Đức. Nhân vật trữ tình vì quá nhớ thương người bạn đời
nên đập vỡ tấm gương cũ mà nàng đã từng soi để mong tìm thấy bóng nàng trong đó,
và xếp chiếc áo cũ mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để giữ lại dư hương của nàng.
Còn viết về cuộc chia tay “không bao giờ gặp lại” với người vợ cả, Nguyễn
Khuyến lại sử dụng ngôn ngữ mộc mạc hơn nhưng vẫn chan chứa nghĩa tình. Câu đối
Khóc vợ của Nguyễn Khuyến không chỉ giúp người đọc hình dung ra bức chân dung
của người vợ cả lam lũ, suốt đời chịu thương chịu khó mà còn cho thấy nỗi lòng của
nhà thơ khi vợ mất:
Lão cũng đã mừng thay! Nhờ được bà hay lam, hay làm, thắt lưng
bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì lão đỡ đần
trong mọi việc;
Bà đi đâu vội bấy! Để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành,
buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện
trăm năm.
(Khóc vợ)
Bà cả là người vợ mà Nguyễn Khuyến vô cùng yêu quý, bởi bà là người kề vai

sát cánh cùng chồng vượt qua bao khó khăn thử thách. Bà lo lắng, gánh vác, đỡ đần
mọi việc để chồng an tâm thi cử và chăm lo việc nước. Vì vậy, khi bà mất đi thì ông
cũng mất luôn một chỗ dựa tinh thần, khiến ông sống “vất vưởng” một mình nơi trần
thế, biết cùng ai “kể lể chuyện trăm năm”.
Nguyễn Khuyến là một nhà nho sống dưới chế độ phong kiến nên chịu ảnh
hưởng của đạo Nho khá nhiều và cũng giống như bao người đàn ông khác trong xã
hội cũ, Nguyễn Khuyến có tới bốn bà vợ. Tuy nhiên, ông không thể hiện uy quyền và
khuôn họ vào những luật lệ khắt khe mà Nho giáo đề ra đối với người phụ nữ. Vì thấu
hiểu nỗi gian truân, vất vả của người phụ nữ nên ông luôn quan tâm, yêu thương, bảo
ban vợ (Khuyên vợ cả); ông trân trọng, đề cao người bạn đời tri âm tri kỉ của mình


×