Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Khảo sát phương tiện liên kết thể hiện phép nối trong một số tác phẩm của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.06 KB, 49 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Lời cảm ơn
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ
hết sức tận tình, trực tiếp của cô giáo Phạm Thị Hoà - Giảng viên
tổ Ngôn ngữ, cùng các thầy cô trong khoa Ngữ văn - Trường
ĐHSP Hà Nội 2, khoá luận đã được hoàn thành vào ngày 15-52007.
Qua đây, em xin trân trọng cảm ơn tới cô giáo hướng dẫn
cùng toàn thể các thầy cô và các bạn đã giúp đỡ và tạo điều kiện
tốt nhất cho em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận này.

Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2007
Sinh viên

Lê Thị Ngọc Bính


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan khoá luận này là thành quả nghiên cứu
của bản thân tôi. Những kết quả thu được là hoàn toàn chân thực
và chưa có trong một đề án nghiên cứu nào.

Mở đầu


1. Lý do chọn đề tài
Mỗi đoạn văn là một chỉnh thể thống nhất nhỏ nằm trong chỉnh thể
thống nhất lớn là văn bản. Tính chính thể thống nhất ấy được tạo thành nhờ sự
sắp xếp các ngôn từ và hơn hết là qua các phương diện liên kết câu trong mỗi
đoạn văn.
Liên kết câu trong đoạn văn gồm hai phương diện: liên kết nội dung và
liên kết hình thức của câu. Trong đó phép nối là một trong những phương tiện
liên kết câu nằm trong phương diện liên kết hình thức.
Nam Cao là một tác gia văn học lớn của Việt Nam. Nhiều tác phẩm của
ông được chọn giảng trong chương trình phổ thông, được các nhà văn, nhà lí
luận, phê bình văn học, các thế hệ giáo viên và học sinh tìm tòi nghiên cứu. Sở
dĩ tác phẩm của ông có sức sống bền bỉ như vậy không chỉ bởi nội dung sâu
sắc của tác phẩm mà còn bởi nghệ thuật ông sử dụng thật tài tình và tinh tế,
phản ánh chân thực hơi thở của cuộc sống. Trong mỗi kiệt tác văn học ấy,
chúng tôi nhận thấy việc ông dùng các phương tiện liên kết câu trở nên quen
thuộc và độc đáo đối với người đọc. Để thấy rõ hơn nữa thành công về nghệ
thuật của Nam Cao (nói chung) và phương diện liên kết câu trong mỗi tác


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

phẩm của ông (nói riêng), trên cơ sở đó đối chiếu vào nội dung tác phẩm mà
Nam Cao muốn hướng tới, đó là lí do khiến tôi chọn đề tài khảo sát phương
tiện liên kết thể hiện phép nối trong một số tác phẩm của Nam Cao.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Phương thức liên kết nối là một trong 4 phương thức liên kết văn
bản được các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Tuy nhiên, ở hai giai đoạn khác
nhau lại có những quan niệm về liên kết và phép nối khác nhau.

Quan niệm thứ nhất thịnh hành ở giai đoạn các ngữ pháp văn bản coi
liên kết thuộc mặt cấu trúc của hệ thống ngôn ngữ. ở Việt Nam, đi theo quan
điểm thứ nhất là Trần Ngọc Thêm, và được ông trình bày chi tiết trong Hệ
thống liên kết văn bản tiếng Việt (Nxb Giáo dục, H, 1999). Theo ông, các
phương thức liên kết được chia thành 3 loại:
+ Loại 1: Các phương thức liên kết chung cho ba loại phát ngôn gồm có
phép lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tưởng, phép tuyến tính.
+ Loại 2: Là các phương thức liên kết hợp nghĩa gồm có phép thế đại từ,
phép tỉnh lược yếu, phép nối lỏng.
+ Loại 3: Là các phương thức liên kết trực thuộc gồm có phép tỉnh lược
mạnh, phép nối chặt.
Xét riêng phép nối, Trần Ngọc Thêm đã phân loại thành phép nối lỏng
và phép nối chặt. Ông đã nghiên cứu khá kĩ vấn đề này và chỉ ra rằng liên kết
văn bản thuộc về cấu trúc chứ không thuộc hệ thống.
- Quan niệm thứ hai thịnh hành vào giữa những năm 70 của thế kỉ XX
và ngày càng được phổ biến rộng rãi. Đi theo quan niệm này là các nhà ngôn
ngữ học chức năng như Halliday và Hasan. Khác với quan niệm thứ nhất cả
liên kết thuộc vế cấu trúc, hai tác giả đã trình bày cách hiểu và quan niệm về
liên kết văn bản thuộc về hệ thống, coi hệ thống là phạm trù trung tâm của lí
thuyết. Phép nối - theo Halliday - là phương thức liên kết có tác dụng báo hiệu


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

các quan hệ có khả năng nhận biết đầy đủ bằng cách tham khảo những phần
khác nhau trong văn bản.
ở Việt Nam, đi theo quan niệm thứ hai và có nhiều ứng dụng vào tiếng
Việt là GS. Diệp Quang Ban. Cách hiểu, cách phân tích về phép liên kết được

ông trình bày khá chi tiết trong nhiều bài viết ở tạp chí ngôn ngữ hay sách do
ông viết. ở mỗi trang viết của mình, ông cũng dành nhiều thời gian cho việc
nghiên cứu phép nối.
Bên cạnh những bài viết, cuốn sách của các tác giả Trần Ngọc Thêm,
Diệp Quang Ban... được nói trên, cũng có nhiều tác giả khác đi nghiên cứu về
phép nối, như:
Nguyễn Đức Dân, Lê Đông, Phương thức liên kết của từ nối, tạp chí
Ngôn ngữ số 1, 1985, tr.32 - 39.
Lương Đình Dũng, phép nối và một vài suy nghĩ về phương pháp dạy
phép nối trong tiếng Việt, tạp chí ngôn ngữ số 6, 2005, tr. 38 - 47.
2.2. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Đã có hàng trăm bài báo, hàng chục công trình văn học, khoa
học lớn nhỏ nghiên cứu về những sáng tác của ông, đúng như chính tác giả
của chuyên luận Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao nhận thấy: Cho đến nay,
thật khó có một đặc điểm cơ bản nào của nội dung và hình thức nghệ thuật
trong sáng tác của Nam Cao chưa được các nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình
phát hiện (lời mở đầu). Như vậy, trên tất cả các lĩnh vực như lý luận văn học,
văn học, ngôn ngữ... thì hầu hết sự nghiệp sáng tác, cuộc đời hay tác phẩm của
ông đều có mặt.
2.2.1. Xét riêng ở lĩnh vực ngôn ngữ, chúng tôi nhận thấy tác phẩm của
Nam Cao cũng được nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau.
+ Trong cuốn Phân tích tác phẩm Nam Cao trong nhà trường (Nxb
Giáo dục, H, 2005), tác giả Nguyễn Văn Tùng đã nhận định: Độ dài thời gian


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

càng xa, sự nghiệp văn học Nam Cao càng được khẳng định. Tác phẩm của

ông qua sự tiếp nhận của nhiều thế hệ độc giả được phát hiện thêm nhiều giá
trị nghệ thuật mới.
Dẫn theo GS Hà Minh Đức trong giới thiệu Nam Cao tác phẩm tập 1,
Nxb Văn học 1976, ông cũng nhận định: Nam Cao đã mạnh dạn đi theo lối
riêng, nghĩa là ông không đếm xỉa gì đến sở thích của độc giả. Nhưng tài năng
của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn
nhẫn, thứ tàn nhẫn của một người biết tin ở tài mình, ở thiên chức mình (nhận
xét của một nhà phê bình đương thời).
+ Tác giả Phong Lê trong cuốn sách Nam Cao - người kết thúc vẻ
vang trào lưu văn học hiện thực (Nxb ĐHQG H, 2003), đã viết: ... năm mươi
năm cách mạng đã làm thay đổi tận gốc rễ những nền tảng vật chất và tinh
thần của xã hội - đó chính là cơ sở cho sự phát triển vượt bậc của ngôn ngữ, và
các thế hệ bạn đọc hôm nay, trong giao lưu với thời đại, là lớp người có những
nhu cầu phổ biến và tiếp nhận rất hiện đại thì mới thấy đáng quý và đáng sợ
biết bao khả năng một nhà văn như Nam Cao, luôn đưa được con thuyền ngôn
ngữ của mình vào dòng sống cuộn chảy của dân tộc, khiến cho nó luôn luôn
gặp được những bến bờ thời sự.
ở cấp độ văn bản, nhiều tác giả đã làm sáng tỏ sức hấp dẫn của truyện
ngắn Nam Cao về mặt kết cấu văn bản và cấu trúc truyện ngắn. Cũng trong
cuốn Lời giới thiệu Nam Cao tác phẩm (tập 1 - Nxb Văn học, 1976), GS. Hà
Minh Đức có viết: truyện ngắn của Nam Cao nhiều màu vẻ. Có những truyện
ngắn chỉ qua vài trang mà dựng được một tính cách một cuộc đời và rất nhiều
đổi thay... Có những sáng tác mà cốt truyện đơn sơ mà lại gây nhiều xúc
động.
Nghiên cứu về văn chương Nam Cao nói chung, chúng tôi thấy có khá
nhiều bài viết tiêu biểu và xuất sắc.


Khoá luận tốt nghiệp


Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

1. Tìm hiểu chức năng của đoạn miêu tả trong tác phẩm tự sự của Nam Cao
Chuyên ngành Ngôn ngữ học (Bùi Thị Bình - K27H Văn).
2. Tính hệ thống của từ ngữ trong truyện ngắn Nam Cao
Chuyên ngành Ngôn ngữ học (Khúc Bích Ngọc - K27 H Văn)
3. Hình tượng người phụ nữ trong văn Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám
Chuyên ngành Văn học Việt Nam (Nguyễn Thị Hoà - K25D Văn)
4. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong các sáng tác của Nam Cao với
việc dạy học các tác phẩm của Nam Cao trong nhà trường PT.
Chuyên ngành Phương pháp văn (Nguyễn Thị Thu Hằng - K26A Văn)
và còn một số bài viết khác của nhiều tác giả cũng viết về đề tài Nam Cao.
Tuy nhiên, hầu hết các bài viết đều đi sâu nghiên cứu về giá trị sâu sắc
của nội dung cũng như hình thức nghệ thuật của Nam Cao nói chung mà chưa
đi nghiên cứu kỹ vào các phương tiện thể hiện để làm nên những giá trị nghệ
thuật đó. Bởi vậy, phép liên kết mà Nam Cao sử dụng trong mỗi tác phẩm của
ông vẫn là vấn đề còn đang bỏ ngỏ và bài viết sau sẽ đi sâu hơn về tính liên
kết trong tác phẩm của Nam Cao và cụ thể là phương tiện thể hiện phép nối.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm làm sáng tỏ giá trị của phương tiện liên kết thể hiện phép nối qua
một số tác phẩm của Nam Cao
4. Phạm vi nghiên cứu
Phương tiện thể hiện phép nối qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát, thống kê, phân loại.
- So sánh, phân tích ngôn ngữ.


Khoá luận tốt nghiệp


Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Nội dung

Chương 1
Cơ sở lí luận

1.1. Các phương diện liên kết câu trong đoạn văn
1.1.1. Liên kết hình thức
- Theo Diệp Quang Ban, liên kết hình thức là hệ thống các phương
thức liên kết hình thức và những cái được liên kết với nhau trong văn bản là
câu phát ngôn. Cách phân loại câu phát ngôn trong văn bản có liên quan đến
việc mô tả liên kết hình thức, vì vậy mà trở nên cần thiết.
- Trong Tiếng Việt, hệ thống các dấu hiệu liên kết hình thức đoạn văn
gồm bao nhiêu phương tiện? Trả lời cho câu hỏi này cũng nhiều ý kiến và là
vấn đề cần thảo luận. Theo quan niệm của Trần Ngọc Thêm, trong cuốn Hệ
thống liên kết văn bản Tiếng Việt, ông đã chia thành 10 phương tiện là:
1. Phép lặp

6. Phép thế đại từ

2. Phép đối

7. Phép tỉnh lược yếu

3. Phép thế đồng nghĩa

8. Phép tỉnh lược mạnh


4. Phép liên tưởng

9. Phép nối lỏng

5. Phép tuyến tính

10. Phép nối chặt

1.1.2. Liên kết nội dung
Thế nào là liên kết nội dung? Theo Trần Ngọc Thêm, liên kết nội dung
nghĩa là tất cả các câu trong đó đều phối hợp với nhau một cách hài hoà bổ
sung cho nhau để cùng thể hiện một nội dung.
Liên kết nội dung trong đoạn văn được tách thành hai bình diện là liên
kết chủ đề và liên kết logic. Hai mặt này gắn bó chặt chẽ và lồng vào nhau
cùng thể hiện tính nhất quán và chỉnh thể cho đoạn văn.


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Liên kết chủ đề đòi hỏi toàn đoạn văn (cũng như văn bản) phải xoay
quanh một chủ đề nhất định, chủ đề này thể hiện qua phần nêu của các phát
ngôn. Nói cách khác, liên kết chủ đề là liên kết ý hay liên kết về mặt nghĩa
của đoạn văn.
Còn liên kết logic, theo các nhà nghiên cứu là sự sắp xếp phân bố các ý,
là sự tổ chức các mối quan hệ, liên kết quan hệ giữa các ý với nhau. Đó là
hình thức cơ cấu tổ chức bên trong của các thành tố nội dung đoạn văn theo
những quan hệ hợp lý trong đó các thành tố được bố trí, sắp đặt theo những
quy luật logic của tư duy.

Như vậy, liên kết logic thường được quy vào phạm trù liên kết nội dung
của đoạn văn, nhưng ở bình diện khác với liên kết chủ đề. Trong số các
phương thức liên kết có hai phương thức được dành riêng để thể hiện các quan
hệ ngữ nghĩa trong liên kết logic là phương thức nối và phương thức tuyến
tính.

1.2. Hiện tượng nối liên kết và phép nối lỏng
1.2.1. Hiện tượng nối liên kết
- Theo Trần Ngọc Thêm, cơ sở cho việc liên kết hai phát ngôn là sự tồn
tại của các quan hệ trong đó có các quan hệ ngữ nghĩa giữa chúng. ở phép
tuyến tính những quan hệ đó nằm ở dạng tiềm ẩn. Nếu những quan hệ đó được
thể hiện ra bằng những phương tiện từ vựng thì ta có hiện tượng nối liên kết
hay các phép nối nói chung.
- Tuỳ thuộc vào tính chất của các phương tiện nối mà trong hiện tượng
nối liên kết cần phân biệt hai trường hợp:
+ Nếu sự có mặt của các phương tiện nối có khả năng làm thay đổi cấu
trúc nòng cốt của phát ngôn, khiến nó phụ thuộc vào chủ ngôn không chỉ về
mặt nội dung mà cả về mặt cấu trúc thì ta có phép nối chặt.


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

+ Còn nếu sự có mặt của các phương tiện nối chỉ làm cho phát ngôn
chứa nó phụ thuộc vào chủ ngôn về mặt nội dung mà không động chạm gì đến
mặt cấu trúc thì ta có phép nối lỏng.
1.2.2. Phép nối lỏng
1.2.2.1. Khái niệm về phép nối lỏng
Phép nối lỏng là phương thức liên kết thể hiện ở sự có mặt trong kết

ngôn những phương tiện từ vựng (từ, cụm từ) không làm biến đổi cấu trúc của
nó và diễn đạt một quan hệ ngữ nghĩa hai ngôi mà ngôi còn lại là chủ ngôn
(theo Trần Ngọc Thêm).
Ví dụ:
Người con gái thời ấy mặt phải tròn, mắt phải dài, răng đen hạt na,
lông mày kẻ nhỏ (1). Và phải có da có thịt (2).
(Má hồng - Nguyễn Khải)
ở đoạn văn trên, quan hệ từ và có tác dụng nối kết giữa câu (1) với câu
(2), bổ sung thêm thông tin cho phát ngôn đi trước, liên kết phát ngôn đi trước
với phát ngôn chứa nó.
Xét về hình thức, quan hệ từ và không làm ảnh hưởng đến cấu trúc
của câu cũng như của đoạn văn. Về nội dung, nó có tác dụng nhấn mạnh ngữ
nghĩa của đoạn là người con gái thời ấy phải có da có thịt.
1.2.2.2. Phân loại
a) Kiểu nối lỏng có phương tiện nối là các từ và cụm từ làm thành phần
chuyển tiếp.
- Thành phần chuyển tiếp thuộc loại thành phần phụ, ngoài nòng cốt,
nó mang tính chất chêm xen cho nên việc thêm hoặc bớt nó hoàn toàn
không ảnh hưởng gì đến cấu trúc nòng cốt của phát ngôn.
Ví dụ:
Tôi chờ trong chốc lát (1). Bỗng có chiếc xe đỗ phịch trước cổng (2).


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Ta thấy phát ngôn thứ (2) là một câu đặc trưng có chứa từ bỗng làm
thành phần chuyển tiếp. Thành phần chuyển tiếp này chỉ ra:
+ Phát ngôn chứa nó không phải là phát ngôn đầu tiên trong văn bản,

trước phát ngôn này còn có ít nhất một phát ngôn khác liên kết với nó.
+ Sự kiện nêu ra trong phát ngôn chứa nó diễn ra trong cùng một thời
gian với sự kiện trong chủ ngôn.
- Các yếu tố từ vựng làm thành phần chuyển tiếp có cấu tạo và nguồn
gốc rất đa dạng. Chúng có thể là:
+ Các từ như: thoạt tiên, cuối cùng, đồng thời, bỗng nhiên, chẳng hạn,
vả lại, thậm chí, sự thật, đặc biệt...
+ Các kết hợp cố định hoá (thường là song tiết) như: tiếp theo, thứ hai,
ngoài ra, hơn nữa, mặt khác, trái lại, ngược lại, tóm lại, nhìn chung...
+ Các kết hợp có xu hướng cố định hoá. Loại này có mô hình cấu tạo
cơ bản:


Mô hình động từ + trạng tố chỉ cách thức: nói cách khác, nói khác

đi, nói đúng ra, nói một cách tóm tắt, nói (một cách) chính xác hơn, ... Nhóm
này có nguồn gốc rút gọn từ vế thứ nhất của các câu qua lại. ở dạng đang xét,
các phương tiện nối lỏng này đứng tách biệt hẳn khỏi vế sau của phát ngôn mà
nó tham gia. Do vậy tính chất chêm xen của chúng cũng bộc lộ rõ rệt. Các kết
hợp này có xu hướng rút gọn tiếp tục bằng bỏ bớt động từ.


Mô hình từ nối + đại từ :
Với từ nối là giới từ, ta có: trên đây, trước đây, sau đó, từ đó, do vậy...
Với từ nối là liên từ, ta có :vì vậy, bởi vì, như thế, tuy thế...
Nhóm này mang tính chất trung gian.



Mô hình tận cùng bằng là với hai dạng:

Đại từ + là như: thế là, vậy là
Danh từ + là như: nghĩa là, kết quả là...


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Nhóm này mang tính chất giáp ranh giữa phép nối lỏng với phép thế đại
từ (hoặc phép tỉnh lược). Dấu hiệu để nhận diện phép nối lỏng là dấu phẩy có
giá trị tách chúng ra về mặt cấu trúc. Khi không có dấu phẩy, những yếu tố
này trở thành các thành phần trong cấu trúc của phát ngôn.
Ví dụ:
1 - Hai mụ Bọ Muỗm cứ vừa đánh vừa kêu, làm cho họ nhà Bọ Muỗm
ở gần đấy nghe tiếng. Thế là, cả một bọn Bọ Muỗm lốc nhốc chạy ra.
(Tô Hoài - Dế Mèn phiêu lưu kí)
2 - Một ngày cuối thu, tôi và Trũi lên đường. [Hôm ấy, nước đầm
trong xanh (...) gió hiu hiu thổi như giục lòng kẻ ra đi]. Thế là tôi rời quê
hương lần thứ hai.
(Tô Hoài - Dế Mèn phiêu lưu kí)
ở ví dụ 1, phép nối lỏng thế là làm thành phần chuyển tiếp. Còn trong
ví dụ 2, phát ngôn thế là tôi rời quê hương... rõ ràng là không còn chứa
thành phần chuyển tiếp nữa. Đó là một câu quan hệ đồng nhất với đại từ thế
làm chủ ngữ, còn bổ ngữ là một cú.
b) Kiểu có phương tiện nối là các từ làm phụ tố có nghĩa so sánh.
Xét về mặt chức năng trong phát ngôn, các yếu tố này có thể được chia
làm hai nhóm:
- Các từ làm phụ tố trong động ngữ. Nhóm này gồm các phụ từ so sánh
như: cũng, lại, vẫn, càng, còn, cứ, nốt... và các trợ động từ như: thêm. Khi
sử dụng, các phụ từ này còn có thể kết hợp lại để bổ sung nghĩa cho nhau (ví

dụ: lại cũng, vẫn cứ, vẫn còn...).
Sự có mặt của các yếu tố này không gây ảnh hưởng đặc biệt nào đối với
cấu trúc của phát ngôn. Chúng hoạt động giống hệt như những phụ tố khác
không có chức năng nối lỏng. Chức năng nối lỏng ở các từ này là do ngữ
nghĩa của chúng quy định.


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

- Các từ có nghĩa so sánh làm phụ tố trong danh ngữ.
Nhóm này gồm những phụ từ đứng trước danh từ như riêng, còn và
đứng sau danh từ như khác, nữa. Các từ này cũng làm phụ tố giống hệt như
những phụ tố không có chức năng liên kết khác và chức năng nối lỏng ở đây
cũng do ngữ nghĩa của chúng quy định.
c) Tất cả các phương tiện nối lỏng còn có thể được phân loại theo các
quan hệ ngữ nghĩa mà chúng biểu hiện.
Nói chung, các phương tiện nối không chỉ thể hiện một loại quan hệ
logic thuần tuý, mà chia thành hai loại rõ rệt: quan hệ định vị (trong không
gian, thời gian) và quan hệ logic.
Trong quan hệ logic lại có thể phân biệt logic diễn đạt và logic sự vật.
d) Trong tất cả các phương tiện nối lỏng đã xét, có những từ, cụm từ sau
đây có liên kết dự báo: trước tiên, thoạt tiên, thứ nhất, dưới đây, sau đây... Sự
có mặt của các phương tiện này luôn dự báo trước sự xuất hiện của các phát
ngôn, các đoạn văn (thứ hai, thứ ba...) tiếp theo. Các phương tiện này có thể
làm thành phần chuyển tiếp dùng để mở đầu trình tự diễn đạt.

1.3. Phép nối chặt
1.3.1. Khái niệm

Theo Trần Ngọc Thêm, phép nối chặt là phương thức của ngữ trực thuộc
thể hiện bằng sự có mặt của từ nối (liên từ, giới từ) ở chỗ bắt đầu (liên kết hồi
quy) hoặc chỗ kết thúc (liên kết dự báo) của nó, tạo thành một quan hệ ngữ
nghĩa hai ngôi giữa ngữ trực thuộc với chủ ngôn.
Trong phép nối chặt, sự có mặt của các từ nối như: nhưng, bởi vì...
làm cho phát ngôn trở nên không hoàn chỉnh về mặt cấu trúc và biến nó thành
ngữ trực thuộc.


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

1.3.2. Phân loại
Các phương tiện nối chặt có thể phân loại theo những quan hệ ngữ
nghĩa mà chúng thể hiện, và được biểu diễn như bảng phân loại sau:
1.3.2.1. Quan hệ định vị
- Định vị thời gian
+ Thời gian kế tiếp: rồi, đến, từ.
+ Thời gian đảo: trước, sau
+ Thời gian đồng thời: và
- Định vị không gian
+ Không gian tâm: ở, tại, trong, giữa...
+ Không gian biên : cạnh, bên, gần, ngoài...
+ Không gian định hướng: từ, đến, tới...
1.3.2.2. Quan hệ logic diễn đạt
- Trình tự diễn đạt
+ Đẳng lập: và, với, cùng...
+ Tuyển chọn: hay, hoặc...
- Thuyết minh bổ sung: như, rằng...

1.3.2.3. Quan hệ logic sự vật
- Nhân quả: nguyên nhân: vì, bởi...; Điều kiện: tuy, dù, dẫu...; Giả thiết:
hễ, giá...; hướng đích: để, cho...; Kết quả: nên, thì, mà...
- Tương phản - đối lập: nhưng, song...
- Sở hữu - phương tiện:
+ Sở hữu: của
+ Phương tiện: bằng, với...
1.3.3. ở các ngữ trực thuộc nối có liên kết hồi quy, phương tiện nối chặt luôn
luôn đứng đầu phát ngôn. Cho nên dấu hiệu chính để nhận diện phép nối chặt


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

hồi quy là sự có mặt của từ nối ở đầu phát ngôn. Tuy nhiên cần chú ý tới hai
trường hợp:
- Phân biệt ngữ trực thuộc nối với câu qua lại:
Ví dụ:
(1)

Để giành thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công

nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất
(Hồ Chí Minh)
(2)

Vì chưa gột rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, cho nên có đảng viên

còn kể công với Đảng.

(Hồ Chí Minh)
Trong hai ví dụ trên, ở ví dụ (1) vì là phương tiện nối chặt giữa các
phát ngôn, và phát ngôn chứa nó mới là ngữ trực thuộc.
Còn ở ví dụ (2), phát ngôn bắt đầu bằng vì là câu qua lại và vì ở đây
là bộ phận của cặp hô ngữ.
- Phân biệt ngữ trực thuộc nối với câu có trạng ngữ.
Ví dụ:
(1)

Tôi sẽ trở về Hà Nội sau. Bằng tàu hoả hoặc ô tô chở hàng
(Hồng Nhu - Thuyền đi trong mưa ngâu)

(2)

Bằng cái sắc mặt ôn hoà dễ dãi, Nghị Quế nhìn vào chị Dậu
(Ngô Tất Tố - Tắt đèn)

Phát ngôn có bằng ở ví dụ (1) là ngữ trực thuộc liên kết bằng phép nối
chặt, còn phát ngôn có bằng ở ví dụ (2) là câu đơn có trạng ngữ.
1.3.4. Hầu hết các phương tiện nối chặt đều có khả năng liên kết dự
báo. ở chức năng này, thường là phương tiện nối chỉ nguyên nhân (vì, do,...)
và các phương tiện nối minh hoạ (rằng, như).
1.3.5. Đôi khi, có thể gặp những ngữ trực thuộc dường như chỉ chứa
phương tiện nối. Hiện tượng này là kết quả của sự xuất hiện phối hợp cả liên
kết nối hồi quy lần liên kết tỉnh lược dự báo ở cùng phát ngôn. Các ngữ trực
thuộc loại này thường tận cùng bằng dấu ba chấm hoặc dấu hai chấm.


Khoá luận tốt nghiệp


Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Chương 2
Khảo sát phương tiện liên kết thể hiện phép nối lỏng
trong một số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao

2.1. Kết quả thống kê
Trên cơ sở lí luận của chương 1, áp dụng cho một số tác phẩm tiêu biểu
cụ thể của các nhà văn khác nhau, chúng tôi đều thu được những kết quả nhất
định.
ở bài viết này, chúng tôi chỉ đi nghiên cứu sâu vào các tác phẩm của
nhà văn Nam Cao. Sau khi khảo sát số liệu tác phẩm chúng tôi thống kê được
tác giả đã sử dụng 1350 phương tiện liên kết câu thể hiện qua phép nối lỏng
trong 19 tác phẩm (gồm cả truyện ngắn và tiểu thuyết) của ông.
2.2. Phân loại
Qua việc khảo sát thống kê ở trên, chúng tôi đã phân loại được các
phương tiện thể hiện phép nối lỏng khác nhau trên cùng một tác phẩm. Tuy
nhiên, xét theo tần số xuất hiện từ nhiều nhất đến ít nhất các phương tiện nối
lỏng, trong 19 tác phẩm (cả truyện ngắn và tiểu thuyết) của Nam Cao, chúng
tôi đã phân loại cụ thể như sau:
- Kiểu nối lỏng có phương tiện nối là các từ và cụm từ làm thành phần
chuyển tiếp được xuất hiện nhiều nhất trong tác phẩm với 577 lần xuất hiện.
- Kiểu nối lỏng có phương tiện nối là các từ làm phụ tố có nghĩa so sánh
với 420 lần xuất hiện.
- Kiểu nối lỏng có các từ, cụm từ có liên kết dự báo xuất hiện với 290
lần.


Khoá luận tốt nghiệp


Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

- Kiểu nối lỏng được phân loại theo quan hệ ngữ nghĩa mà chúng biểu
hiện cũng xuất hiện trong các tác phẩm của Nam Cao, tuy nhiên xuất hiện ít,
với tần số thấp, với 120 lần trong 19 tác phẩm của Nam Cao.
2.3. Phân tích kết quả thống kê
2.3.1. Hiệu quả của việc sử dụng kiểu nối lỏng có phương tiện nối là
các từ và cụm từ làm thành phần chuyển tiếp
Bản thân khái niệm thành phần chuyển tiếp đã chỉ ra rằng mọi yếu tố
làm nhiệm vụ này đều có chức năng liên kết phát ngôn. Đây là loại phương
tiện nối lỏng có số lượng lớn nhất và tần số sử dụng cao nhất.
Xét trong tác phẩm của Nam Cao, do thời lượng có hạn, chúng tôi chỉ
nghiên cứu sâu vào một số tác phẩm tiêu biểu của ông giai đoạn 1930 - 1945
(giai đoạn văn học hiện thực phê phán). Thực chất của thành phần chuyển tiếp
là thành phần phụ ngoài nòng cốt câu, nó mang tính chất chêm xen đưa đẩy
cho câu văn chứ không làm thay đổi cấu trúc, trật tự nòng cốt của câu. Các
yếu tố để cấu tạo nên thành phần chuyển tiếp này có nguồn gốc rất đa dạng và
phong phú. Chúng có thể là các từ: thoạt tiên, cuối cùng, đồng thời... Có thể là
các kết hợp cố định hoá hay các kết hợp có xu hướng cố định hoá. Và ở yếu tố
nào, Nam Cao cũng sử dụng rất thành công trong tác phẩm của mình.
2.3.1.1. Trước hết chúng tôi phân tích các yếu tố từ vựng là các từ
như: thoạt tiên, cuối cùng, đồng thời, bỗng nhiên, chẳng hạn, vả lại, thậm chí,
song le, sự thật, đặc biệt,... trong 19 tác phẩm của Nam Cao.
- Từ Vả lại có tần số hoạt động khá cao trong chức năng liên kết văn
bản cũng như liên kết các câu trong tác phẩm của Nam Cao. Nó thể hiện rõ
vai trò chêm xen.
Ví dụ:
... Tiếng bà bải hải. Hơi nói to một chút, nó đã ra đằng lỗ tai. Vả lại,
chó nhà giàu dữ lắm...
(Một bữa no - Nam Cao)



Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

... Kiện? Nhu đi kiện chồng? Ôi chao! Mới nghe Nhu không thể hiểu
rằng: người ta cần kiện nhau để bắt nhau yêu... Vả lại một người như Nhu, chỉ
chửi một câu đã ngượng lời rồi, bây giờ đứng ra kiện, để hạch tội một người
chồng mà chưa bao giờ Nhu dám nói nửa lời chống cưỡng...
(ở hiền - Nam Cao)
Trong liên kết trên lời, từ vả lại cũng được sử dụng khá phổ biến.
Ví dụ:
Anh lắc đầu, nói như người chực khóc:
- Đã đành, ốm thì chắc người ta cũng phải cho mình nghỉ [...] Thiệt đến
người ta thì người ta phải xót... Vả lại mình ăn cơm, lấy công của người ta,
mình phải nghĩ.
(Điếu Văn - Nam Cao)
Như vậy, với chức năng phương tiện nối lỏng của liên kết lời nói hay
liên kết văn bản trong tác phẩm của Nam Cao, từ vả lại chủ yếu dùng để bổ
sung, nhấn mạnh ngữ nghĩa cho đoạn văn hoặc cho lời nói của tác giả hay của
nhân vật trong tác phẩm. Do đó, nó thường có trong các tổ hợp từ có chức
năng nối lỏng kiểu vả lại là..., vả lại đi nữa...
Bên cạnh từ vả lại, Nam Cao cũng sử dụng thành công các từ: đồng
thời, bỗng nhiên, chẳng hạn... trong tác phẩm và cũng với tần số xuất
hiện cao.
2.3.1.2. Với các kết hợp cố định hoá như: tiếp theo, thứ hai, ngoài
ra, hơn nữa... thì việc làm thành phần chuyển tiếp và làm phương tiện nối
lỏng là những chức năng điển hình của chúng.
Trong tác phẩm của mình, Nam Cao cũng thường xuyên sử dụng các

kết hợp cố định hoá này.


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Ví dụ:
... Bởi nếu không có Câm thì Hiền không dám ngủ ở nhà. Nó đòi ra hè
nhà bà Hai ngủ với Câm. Vả lại cho Câm ngủ cũng không thiệt gì. Trái lại là
khác nữa. Câm coi nhà giùm cho.
(Truyện người hàng xóm - Nam Cao)
Có thể dễ dàng nhận ra cách sử dụng từ nối Trái lại trong đoạn văn
trên. Trái lại có chức năng nối kết phát ngôn trước và sau nó. Chính phát
ngôn sau bổ sung làm rõ ý nghĩa trái ngược mà phát ngôn trái là khác nữa
mang lại. Qua phát ngôn sau Câm coi nhà giùm cho đã là rõ nghĩa trái lại
là như thế nào. Đó là hành động mang lợi vì coi nhà là hành động mang lợi,
trái nghĩa với ngủ nhờ là hành động gây thiệt.
Ngoài ra, các kết hợp cố định hoá còn lại cũng xuất hiện nhưng với tần
số sử dụng thấp hơn so với từ trái lại trong sáng tác của Nam Cao.
2.3.1.3. Hiệu quả trong việc sử dụng phương tiện nối lỏng là các kết
hợp có xu hướng cố định hoá trong tác phẩm của Nam Cao
Với loại này, gồm 3 mô hình cấu tạo tương ứng trong tác phẩm của
mình mà Nam Cao sử dụng:
- Mô hình động từ + trạng tố chỉ cách thức
Các phương tiện nối lỏng ở dạng này thường đứng tách biệt hẳn khỏi vế
sau của phát ngôn mà nó tham gia. Do vậy, tính chất chêm xen của chúng
cũng bộc lộ rõ. Trong tác phẩm của Nam Cao, người đọc thường thấy xuất
hiện các từ như: Nói cách khác, nói đúng ra, nói một cách tóm tắt...
Hoặc có thể tác giả rút gọn bằng cách bỏ bớt động từ như: đúng ra, cách

khác, một cách tóm tắt... Hầu hết những từ này đều có nguồn gốc rút ra từ
vế thứ nhất của câu qua lại (như: Nếu nói một cách tóm tắt thì...).
Ví dụ:
... Đàn anh thì bóp nặn hà hiếp, gian giảo, vô liêm sỉ, chuyên sống
bằng mồ hôi nước mắt của con em (1). Nói tóm lại, trong cách sống, trong


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

việc mưu sinh, trong sự giao tiếp của người dưới đối với người trên, của người
nọ đối với người kia, chẳng có một chút gì có thể gọi là lạc thú (2)....
(Sống mòn - Nam Cao)
Phân tích ví dụ trên ta thấy, tổ hợp từ nói tóm lại đã làm nhiệm vụ
liên kết câu (1) và câu (2) với nhau. ở đây, nói tóm lại mang hai chức năng:
nó vừa có chức năng chuyển tiếp và vừa có chức năng dẫn nhập cho một nhận
định về quy luật cuộc sống mà tác giả nắm bắt được.
- Mô hình từ nối + đại từ: Với từ nối là giới từ, ta có: trên đây, trước
đây, sau đó, từ đó, do vậy v.v...
Với từ nối là liên từ, ta có: vì vậy, bởi vậy, như thế, tuy thế v.v...
Xét một cách cụ thể, những từ nối này mang tính chất trung gian. Nghĩa
là một mặt, chúng có xu hướng cố định hoá, điều đó thể hiện ở sự lặp lại
thường xuyên với tần số cao. ở việc sử dụng hoặc tiếp thu theo cả khối. ở góc
độ này, chúng được xem như những phương tiện nối lỏng.
Mặt khác, những kết hợp thuộc nhóm này lại vẫn chưa chuyển thành
cụm từ cố định hoàn toàn, từng yếu tố của chúng vẫn giữ nguyên được ý nghĩa
và chức năng riêng của mình. Dưới góc độ này, trong tiếng Việt có thể tách
riêng các đại từ và coi chúng là phương tiện của phép thế đại từ. Về mặt chức
năng trong phát ngôn phần lớn các kết cấu này sẽ làm trạng ngữ.

Đi sâu vào phân tích tác phẩm của Nam Cao, chúng tôi nhận thấy việc
Nam Cao sử dụng thành công phương tiện liên kết với mô hình là từ nối + đại
từ. Trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp cụ thể mà người đọc dễ dàng phân
biệt được đâu là phép nối, đâu là phép thế đại từ.
Ví dụ:
(1) Trông thấy vợ chồng ông, Thứ không thể không nghĩ đến vợ chồng
mình. Giá y đứng với Liên, thì người ngoài trông cũng na ná thế thôi. Cũng


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

chồng diện tây, vợ đặc nhà quê. Người lạ có thể bảo là chủ với con sen, chị
vú.. Tuy vậy, Thứ ghét ông.
(Sống mòn - Nam Cao)
(2) ... Đi một quãng thật xa rồi, y mới lại thấy như tiếc dịp, bước ngập
ngừng và quay đầu nhìn lại. Nhưng người đàn bà đã đi khỏi chỗ ấy rồi. Y thở
dài, và lại cúi đầu, đi lủi thủi, vừa đi vừa ngẫm nghĩ đến tất cả những cái khổ
của đời y. Cứ như vậy, y về nhà...
(Sống mòn - Nam Cao)
Ví dụ (1) nên quy về phép nối lỏng. Còn ví dụ (2) nên quay về phép thế
đại từ bởi tính thay thế của đại từ quá rõ.
Trong ví dụ (1), tổ hợp tuy vậy đứng đầu câu làm liên tố chỉ quan hệ
nhượng bộ - tương phản với phần câu đứng sau nó (Thứ ghét ông), trong đó
vậy thay thế cho ý trong câu đứng trước. Trên cơ sở đứng đầu câu và thay
thế như vậy, tổ hợp tuy vậy thuộc về phép nối.
Còn ở ví dụ (2) tổ hợp từ cứ như vậy cũng đứng đầu câu nhưng thay
thế cho hành động đi của đối tượng nói tới (Thứ đi). Do đó Cứ như vậy được
xét làm phép thế để liên kết câu trong phát ngôn.

Cùng với Nam Cao, các nhà văn hiện thực phê phán xã hội chủ nghĩa
30 - 45 cũng sử dụng rất nhiều các tổ hợp từ liên kết câu thể hiện phép nối
thuộc mô hình từ nối + đại từ trong tác phẩm của mình.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn cùng thời với Nam Cao. Trong từng
trường hợp cụ thể, ông cũng sử dụng phép nối hoặc phép thế đại từ, giúp người
đọc hiểu sâu hơn giá trị nội dung tác phẩm.
Ví dụ:
(1)

Xưa nay, không ai biết chết đến lần thứ hai để được bài học kinh

nghiệm về cách chết.Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch.
(Thịt người chết - Nguyễn Công Hoan)


Khoá luận tốt nghiệp

(2)

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

Đang nắng sém mặt sém mày, bỗng nổi trận mưa rào. Như vậy,

lưng đang nhễ nhại mồ hôi, thì bị ngay ướt những nước lạnh.
(Được chuyến khách - Nguyễn Công Hoan)
ở ví dụ (1): Vì vậy có quan hệ nguyên nhân với ý trong phần câu còn
lại sau tổ hợp này. Do đại từ vậy làm nhiệm vụ thay thế cho ý ở câu đứng
trước mà câu đứng trước trở thành có quan hệ nguyên nhân với câu chứa Vì
vậy. Nên trong trường hợp này, liên kết câu được thể hiện qua phép thế đại
từ.

ở ví dụ (2): Nghĩa cụ thể của như vậy được chỉ ra ở câu đứng trước.
Trên cơ sở nội dung nghĩa đó, như vậy có quan hệ hệ quả của việc nêu trong
câu chứa nó và nguyên nhân là những ý nêu trong câu trước, và nó giữ vai trò
là phương tiện liên kết thuộc phép nối. Chúng được dùng để đánh dấu quan hệ
của câu chứa chúng với câu hữu quan.
- Mô hình tận cùng bằng là với hai dạng:
+ đại từ + là như: thế là, vậy là ...
+ danh từ + là như: nghĩa là, kết quả là...
Chúng tôi nhận thấy, với nhóm này, tính chất giáp ranh giữa phép nối
lỏng và phép thế là rất gần nhau. Để nhận biết phép nối lỏng, người đọc chú ý
đến dấu phẩy sau tổ hợp từ đó, dấu phẩy có tác dụng tách chúng ra về mặt cấu
trúc. Còn nếu không có dấu phẩy, những yếu tố này trở thành các thành phần
trong cấu trúc của phát ngôn và nó chính là phép thế đại từ (hoặc phép tỉnh
lược).
Với tư cách là một phương tiện liên kết, mô hình liên kết này có tác
dụng dẫn nhập phát ngôn sau làm thành phần giải nghĩa cho phát ngôn trước.
Chúng tôi cho rằng thành phần chuyển tiếp có nghĩa là thường xuất
hiện trong các cuộc thoại mà người nói không muốn để người khác hiểu sai ý
định diễn đạt của mình. Xét về phương châm cộng tác hội thoại, đây là dấu


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

hiệu chứng tỏ người nói tránh lối nói tối nghĩa, không vi phạm nguyên tắc
cách thức.
Nhà văn hiện thực phê phán Nam Cao cũng không bỏ qua phép liên kết
này trong tác phẩm của mình. Thậm chí nó còn được ông sử dụng rất nhiều
với 72 lần xuất hiện trong 19 tác phẩm của ông.

Ví dụ:
Bác kể như thế này: thoạt tiên bác chỉ vào Hiền. Rồi bác nắm hai tay
lại, đặt lên ngực để làm hai cái vú. Rồi bác ngoẹo cả đầu về một bên, ve vẩy
hai tay và uốn éo mình. Thế nghĩa là: một vật thuộc về Hiền, mà nó lại có hai
cái vú, mà nó lại đi ve vẩy...
(Truyện người hàng xóm - Nam Cao)
Trong ví dụ trên, người đọc dễ dàng nhận thấy tác giả đã sử dụng phép
nối lỏng Thế nghĩa là làm thành phần chuyển tiếp để liên kết hai phát ngôn.
Thế nghĩa là có tác dụng dẫn nhập phát ngôn sau sẽ là thành phần giải thích
cho phát ngôn trước đó.
2.3.2. Xuất hiện với tần số hoạt động cao thứ hai trong tác phẩm của
Nam Cao là kiểu phương tiện nối có các từ làm phụ tố của nghĩa so sánh
Xét về chức năng trong phát ngôn, các yếu tố này có thể chia làm 2
nhóm là:
1 - Các từ làm phụ tố trong động từ và 2 - các từ có nghĩa so sánh là phụ
tố trong danh ngữ.
Khảo sát trong một số tác phẩm của Nam Cao, chúng tôi nhận thấy sự
xuất hiện của hai nhóm này không đồng đều nhau. Tần số xuất hiện của nhóm
1 nhiều hơn so với nhóm 2.
2.3.2.1. Các từ làm phụ tố trong động ngữ gồm các phụ từ so sánh như:
cũng, lại, vẫn, càng, còn, cứ, nốt... và các trợ động từ như: thêm. Khi sử


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

dụng, các phụ từ này còn có thể kết hợp lại để bổ sung nghĩa cho nhau (ví dụ:
lại cũng, vẫn cứ, vẫn còn...)
Ví dụ:

(1)

... Còn mình, không lẽ mình lại keo với cả thằng mõ trở đi?... Hà

hà! Cứ vậy là ăn câu đấy....
(Tư cách mõ - Nam Cao)
(2)

... Con chỉ xin bà cho được trông thấy, cháu, bà cháu chơi với

nhau một lúc. Cũng chẳng còn mấy chốc nữa mà con chết, con cũng tưởng đi
chơi dối già một bận...
(Một bữa no - Nam Cao)
(3)

... Bà chỉ may cho con những quần áo thường, đủ mặc thôi. Còn

đứa nào muốn hoa hoè hoa sói, cứ bỏ tiền túi ra mà hoa hoè hoa sói. Bà không
cấm!....
(ở hiền - Nam Cao)
Qua cách tác giả sử dụng những từ nối cứ, cũng, còn được dẫn
chứng ở trên ta thấy sự có mặt của các yếu tố không gây một ảnh hưởng đặc
biệt nào đối với cấu trúc của phát ngôn. Chúng hoạt động giống hệt như những
phụ tố khác không có chức năng nối lỏng. Mà chức năng nối lỏng ở các từ này
là do ngữ nghĩa của chúng quy định. Nghĩa là, chúng có tác dụng nhấn mạnh
tới nội dung đoạn hay toàn tác phẩm. Vì vậy, chúng mang ý nghĩa đồng nhất,
tiếp diễn của các sự kiện trong phát ngôn. Trong cách sử dụng của mình, Nam
Cao đã cố gắng phân biệt cho người đọc thấy đâu là từ nối có chức năng liên
kết, và từ không có chức năng liên kết, bởi vì các phụ từ làm phương tiện nối
lỏng này thường đa nghĩa (chẳng hạn: Theo Từ điển Tiếng Việt, cứ có hai

nghĩa, cũng có ba nghĩa...). Đó chính là hiệu quả lớn nhất mà Nam Cao đã
thể hiện trong tác phẩm của ông.


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

2.3.2.2. Nhóm thứ hai là các từ có nghĩa so sánh làm phụ tố trong danh
ngữ. Nhóm này gồm những phụ từ đứng trước danh từ như riêng, còn và
đứng sau danh từ như khác, nữa. Chức năng nối lỏng của chúng cũng do ngữ
nghĩa của chúng quy định.
Tuy nhiên, trong tác phẩm của Nam Cao, nhóm này hoạt động với tần
số thấp, không đáng kể và bài viết không đi sâu nghiên cứu về nhóm này.
2.3.2.3. Ngoài ra còn một số từ khác thuộc loại phương tiện nối có các
từ làm phụ tố có nghĩa so sánh mang tính chất chêm xen như: trên đây, như
trên, thứ nhất, sau đây... chúng được sử dụng như những phụ tố đứng sau
danh từ. Tuy nhiên, trong tác phẩm của Nam Cao, những từ này thường xuất
hiện với tần số sử dụng thấp. Sở dĩ như vậy vì Nam Cao rất kiệm lời bình luận.
Hầu như trong tác phẩm của mình, ông để cho các sự kiện cứ thế tiếp diễn.
Khái quát lại bằng những phát ngôn có chỉ dẫn hội thoại trên đây, như
trên để đưa ra ý kiến của mình là hành động ít gặp trong tác phẩm của Nam
Cao. Các phương tiện nối lỏng như trên đây, như trên xuất hiện ít là vì
thế.

2.3.3. Một loại phương tiện nối lỏng nữa mà hiệu quả quả sử dụng cũng
như số lần xuất hiện của nó khá cao đó là phương tiện nối lỏng với những
từ và cụm từ có liên kết dự báo
Nhìn một cách tổng thể, người đọc rất dễ nhầm lẫn giữa các từ và cụm
từ có liên kết dự báo với những từ, cụm từ làm phụ tố đứng sau danh từ mang

tính chất chêm xen, vì những từ và cụm từ có liên kết dự báo thường xuất hiện
là: trước tiên, thoạt tiên, đầu tiên, thứ nhất, dưới đây, sau đây... Tuy nhiên
cách sử dụng của hai loại này là hoàn toàn khác nhau.
Trong tác phẩm của mình, Nam Cao đã sử dụng các phương tiện này để
dự báo trước sự xuất hiện của các phát ngôn, các đoạn văn (thứ 2, thứ 3...) sau


Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thị Ngọc Bính - K29G Văn

đó. Các phương tiện này có thể làm thành phần chuyển tiếp dùng để mở đầu
trình tự diễn đạt. Khi đó, dù là phương tiện liên dự báo thì Nam Cao vẫn đặt
chúng đứng đầu phát ngôn. Còn nếu làm phụ tố cho danh từ thì cùng với
cụm danh từ, Nam Cao chỉ ra rằng chúng có thể đứng ở bất kì vị trí nào,
nhưng theo ông sắp xếp phổ biến nhất là vị trí tận cùng của phát ngôn.
Ví dụ:
1. ... Cố nhiên, là câu chuyện đều đi. Thoạt tiên là các bà vợ về kể lại
với chồng. Rồi các ông chồng đem kể lại với nau. Bây giờ thì cả làng ai cũng
biết. Ai cũng biết: con vợ thằng Lùng, mặt mũi như thế ấy, mà gian vô
cùng...
(Đòn chồng - Nam Cao)
2. ... Thoạt tiên, người ta định ngày chết cho nó vào dịp thanh minh.
May cho nó hôm ấy bà chủ nhà bị ốm. Rồi thì là tết tháng năm. Bỗng nhiên
đứa con út của bà ươn mình: bà phải kiêng để lấy sữa lành cho con bú. Sau
cùng người ta nhất định thịt nó vào rằm tháng bảy, ai ốm mặc...
(Cái chết của con mực - Nam Cao)
Các tổ hợp từ được gạch chân là những liên kết dự báo cho các phát
ngôn. Chúng đứng đầu các phát ngôn với tư cách là phương tiện liên kết trong
phép nối trên cơ sở của quan hệ bổ sung trong câu.

Với việc dùng liên kết dự báo là một phương tiện liên kết thể hiện phép
nối, Nguyễn Công Hoan trong tác phẩm của mình, ông cũng đã sử dụng chúng
như một biện pháp nghệ thuật độc đáo:
Ví dụ:
... Mới đầu người ta mời anh thử một điếu, anh nhất định gạt ra, chê là
dọc tẩu khai, và lỡ nghiện thì mất hết nhân cách. Rồi sau, vì bị ép uổng và chế
giễu nhiều quá, anh bất đắc dĩ phải nhượng bộ, nhưng hút xong, anh xúc
miệng thật kỹ, lợm giọng mất đến ba hôm...


×