Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động đối với nền kinh tế việt nam – cơ hội và thách thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.62 KB, 22 trang )

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Mục lục
Mục lục..................................................................................................................................... 1
1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế..................................................................................2
2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các quốc qia.............................................3
2.1 Tác động tích cực:.......................................................................................................3
2.1 Bất lợi và thách thức:..................................................................................................4
3. Khái niệm về liên kết kinh tế khu vực:..................................................................................6
3.1 Nội dung cơ bản của liên kết kinh tế khu vực.................................................................6
3.2 Tính tất yếu khách quan của liên kết khu vực................................................................7
3.3 Cơ hội và thách thức của các quốc gia trong hội nhập kinh tế khu vực...........................7
3.3.1 Về tiếp cận thị trường quốc tế:.................................................................................7
3.3.2 Về thu hút đầu tư quốc tế:........................................................................................8
3.4 Các thách thức đối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế khu vực..............................8
3.4.1 Thách thức chung không phân biệt trình độ phát triển của các quốc gia..................9
3.4.2 Đối với các nước công nghiệp:.................................................................................9
3.4.3 Đối với các nước đang phát triển:.............................................................................9
3.5 Các định chế đối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế khu vực...............................10
3.5.1 Hiệp định thương mại khu vực (Regional Trading Agreement – RTA):.................10
3.5.2Các định chế hội nhập khu vực cấp thấp:................................................................10
3.5.3 Định chế hội nhập khu vực cấp cao........................................................................11
3.6 Cơ hội và thách thức của Việt nam và các doanh nghiệp trong nước trong liên kết kinh
tế khu vực............................................................................................................................ 11
3.6.1 Tầm vi mô..............................................................................................................12
3.6.2 Tầm vi mô..............................................................................................................18
4. Kết luận:.............................................................................................................................. 21


Lời nói đầu
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu biểu hiện sự nhảy vọt của lực lượng sản xuất do


phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác
động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn dến hình
thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động đến
nền kinh tế của các nước nói riêng và thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc
của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu của nền kinh tế có
nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức thế giới như WTO, EU, AFTA… và nhiều
tam giác phát triển khác cũng do toàn cầu hóa đem lại.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt nam đã đang từng bước cố gắng chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà mang
tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay cũng như sau này.Bởi một
nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ sớm trở nên lạc hậu và bị cô lập,
sớm hay muộn nước đó cũng bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế.Hơn nữa một nước
đang phát triển thì việc chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì lại càng cần
thiết hơn bao giờ hết.

1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó hữu cơ nền kinh tế của một quốc gia
với nến kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu
quả.Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc:
một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới
thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và
mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.


Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu
vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy mô toàn thế
giới giống như những gì mà Tổ chức thương mại thế giới đang hướng tới.

2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các quốc qia
Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của thế giới cũng đồng thời là con đường

phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia
hội nhập quốc tế.
2.1 Tác động tích cực:
o

Giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế
khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.

o

Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của
các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào
nền kinh tế.

o

Giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia,
nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu
công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ
từ các nước tiên tiến.

o

Làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế,
nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.

o

Tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa

dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và
giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm kiếm
việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.


o

Tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu
thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho
đất nước và không bị lề hóa.

o

Giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm
giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

o

Tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một xã hội
mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.

o

Tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc
tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy trì an ninh,
hòa bình và ổn định để phát triển.

o Giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập trung cho
phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các
nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới

2.1 Bất lợi và thách thức:
o

Làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế gặp
khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế-xã hội.

o

Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài và, do
vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường
quốc tế.

o

Không phân phối công bằng lơi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác
nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu-nghèo.

o

Trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các


ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng
thấp. Do vậy, họ dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp,
bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường.
o

Có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước (theo quan niện
truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với việc duy trì an ninh và

ổn định ở các nước đang phát triển.

o

Có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị xói mòn
trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.

o

Có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước.Tuy

nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích và gánh
mọi bất lợi như đã nêu trên Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối
với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện, hoàn cảnh, trình
độ phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức
thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi
nước, trước hết là chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực hiện.
Thực tế, nhiều nước đã khai thác rất tốt các cơ hội và lợi ích của hội nhập để đạt được
tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cao, ổn định trong nhiều năm liên tục, nhanh
chóng vươn lên hàng các nước công nghiệp mới và tạo dựng được vị thế quốc tế đáng
nể, đồng thời xử lý khá thành công các bất lợi và thách thức của quá trình hội nhập, đó
là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc, Malaixia,
Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều lợi ích từ hội nhập, song xử
lý chưa tốt mặt trái của quá trình này, nên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
lớn, có thể kể tới trường hợp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđônêxia, Việt Nam, Hy Lạp, Bồ


Đào Nha, Tây Ban Nha… Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích mà hầu hết các nước đã

thu được trên thực tế từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ phải trả cho
những tác động tiêu cực xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển kinh tế.Điều
này giải thích tại sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của hầu hết các
nước trên thế giới hiện nay.

3. Khái niệm về liên kết kinh tế khu vực:
Hội nhập kinh tế khu vực về hình thức cũng giống như hội nhập kinh tế toàn cầu
nhưng có đặc điểm riêng như sau:
o

Phạm vi không gian hẹp do số thành viên tham gia ít hơn

o

Nội dung hợp tác đa dạng hơn, nên các quan hệ ràng buộc cũng nhiều hơn so với
hội nhập toàn cầu

o

Về lý thuyết hội nhập kinh tế khu vực có mâu thuẫn với hộp nhập kinh tế toàn
cầu vì có thể dẫn dến phân biệt đối xử giữa tổ chức kinh tế khu vực với phần còn
lại của thế giới. Nhưng thực tế cho thất hội nhập kinh tế khu vực là sự bổ sung
tốt cho quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.

3.1 Nội dung cơ bản của liên kết kinh tế khu vực
o

Tự do hóa thương mại thường là giảm hàng rào thương mại trong khu vực
nhiều hơn so với hộp nhập kinh tế toàn cầu. Đồng thời có kế hợp trên chừng
mực nhất định với các nội dung tự do hóa tài chính và đầu tư trong khu vực.


o

Hợp tác chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực : kinh tế; an ninh - chính trị; văn hóa –
xã hội; khoa học – kỹ thuật; giáo dục – đào tạo; bảo vệ tài nguyên, kiểm soát
môi trường….


o

Hình thành thị trường chung và loại bỏ hầu hết hàng rào thương mại khu vực,
có trường hợp sử dụng đồng tiền chung, phối hợp chính sách chặt chẽ để
nâng cao khả năng cạnh tranh của cả khu vực.

3.2 Tính tất yếu khách quan của liên kết khu vực
Các định chế hội nhập kinh tế khu vực phát triển mạnh khi toàn cầu hóa bị gián
đoạn, nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến cuối thập niên 1980s.Trong
quá trình phát triển, những nội dung và hình thức hợp tác khu vực có bao hàm
tính chất phân biệt dối xửa đã được gạn lọc và loại bỏ dần.Trong thực tế các tổ
chức hợp tác khu vự đã trở thành đầu cầu giúp các nước đang (và kém) phát
triển tiếp cận hội nhập kinh tế toàn cầu vững chắc hơn.WTO cũng đã chấp nhận
các hiệp định thương mại khu vực như một ngoại lệ đặc biệt (xem giải thích
Điều XXIV của hiệp định GATT.1994).Trên cơ sở đó, hội nhập kinh tế khu vực
đã chứng tỏ là xu hướng phát triển tất yếu khách quan.Ngày này, các quan hệ
hợp tác khu vực đã phát triển rất mạnh mẽ, đan xen vô cùng phúc tạp và gắn kết
chặt chẽ với quan hệ hội nhập kinh tế toàn cầu.
3.3 Cơ hội và thách thức của các quốc gia trong hội nhập kinh tế khu vực
Về nguyên tắc, lợi ích từ hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu bổ sung cho nhau.Nên
cơ hội từ hai cấp độ hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu có sự tương tác chặt chẽ, tạo
hiệu ứng tích cực hơn. Ta có thể thấy những cơ hội nổi bật từ hội nhập kinh tế như sau:

3.3.1 Về tiếp cận thị trường quốc tế:
o Việc tiếp cận thị trường lẫn nhau giữa các nước trong khu vực dễ dàng

hơn so với hội nhập kinh tế toàn cầu, do các điều kiện và lộ trình mở cửa
thị trường thuận lợi hơn.Thông qua thiết lập quan hệ tốt với một nước có
thể tiếp cận thị trường của cả khu vực mà nước đối tác đó là thành viên.


o Đối với các nước công nghiệp: dễ dàng giành được ưu thế cạnh tranh trên

thị trường hàng công nghiệp và dịch vụ của khu vực so với các đối thủ từ
bên ngoài đồng thời có nguồn cung ứng ổn định các sản phẩm thâm dụng
tài nguyên và lao động từ các nước phát triển trong khu vực.
3.3.2 Về thu hút đầu tư quốc tế:
o Đầu tư lẫn nhau trong khu vực thuận lợi hơn nhờ về khoảng cách, tương
đồng
về thời tiết, khí hậu, văn hóa, xã hội… Do đó, việc mở rộng sản xuất ra cả
khu vực cũng dễ dàng hơn, cho phép khai thác lợi thế so sánh bổ sung
nhau giữa các nước để giảm tích cực chi phí sản xuất.
o Thu hút đầu tư (FDI & FPI) từ các nhà đầu tư ngoài khu vực sẽ tăng

mạnh, do sự kết nối địa lý, thị trường và chính sách làm cho: tiềm năng thị
trường lớn mạnh hơn, vì qui mô thị trường đã bao gồm cả khu vực;và đặc
biệt là, môi trường đầu tư của khu vực sẽ trở nên hấp dẫn hơn.
o Đối với các nước công nghiệp: dễ dàng tiếp cận đầu tư sâu vào các ngành

công nghiệp và dịch vụ giá trị gia tăng cao của các nước đang phát triển
trong khu vực.
o Đối với các nước đang phát triển: nhiều cơ hội thu hút vốn và công nghệ
của các nước công nghiệp trong khu vực để đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nền kinh tế.
3.4 Các thách thức đối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế khu vực
Sự tương tác giữa hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu cũng thể hiện cả trên phương
diện thách thức, khó khăn.Khó khăn phát sinh từ cấp độ hội nhập này sẽ chắc chắn gây


hiệu ứng tiêu cực mạnh mẽ lên cấp độ hội nhập kia.Dưới đây là những thách thức tiêu
biểu của hội nhập kinh tế khu vực:
3.4.1 Thách thức chung không phân biệt trình độ phát triển của các quốc
gia
o Sự lây lan nhanh chóng của khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực

làm tăng nguy cơ khủng hoảng kinh tế ra toàn cầu.
o Sự phối hợp chính sách kinh tế nếu mang tính hướng nội cục bộ sẽ làm

chậm đà phát triển chung của cả khu vực…
3.4.2 Đối với các nước công nghiệp:
o Tăng gánh nặng tương trợ kinh tế, kỹ thuật.
o

Nguy cơ xâm lấn của dòng lao động giá rẻ

o Hứng chịu nguy cơ gian lận thương mại và vi phạm bản quyền sở hữu

trí tuệ…trong quan hệ với các nước đang phát triển của khu vực
3.4.3 Đối với các nước đang phát triển:
o Chống đỡ khủng hoảng yếu, bị tác hại nặng nề hơn, khả năng phục hồi

chậm chạp hơn.
o Nguy cơ xâm lấn của các dòng sản phẩm chất lượng cao từ các nước

công nghiệp.
o Do ít cơ hội lựa chọn, nên nhiều trường hợp chỉ tiếp nhận công nghệ

lạc hậu tầm khu vực; Vì vậy, ô nhiễm môi trường và tác động ngoại lai
cũng nặng nề hơn các nước công nghiệp…


3.5 Các định chế đối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế khu vực
Khi tham gia liên kết khu vực thì các nước còn phải tuân thủ các định chế sau và chúng
được phân ra thành:
3.5.1 Hiệp định thương mại khu vực (Regional Trading Agreement – RTA):
o Nội dung chủ yếu là tự do hóa thương mại; dành ưu đãi cho hàng hóa

nhập khẩu trong khu vực nhiều hơn so với bên ngoài.
o Vẫn duy trì hàng rào thương mại khu vực, nhưng giảm thấp hàng rào thuế
quan và loại bỏ bớt các hàng rào phi thuế quan;
3.5.2 Các định chế hội nhập khu vực cấp thấp:

3.5.2.1 Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement) hoặc
Khu mậu dịch tự do (Free Trade Area – FTA):
 Tự do hóa & thuận lợi hóa thương mại (gần như xóa bỏ hàng rào

thương mại khu vực) nhưng không ràng buộc thống nhất hàng rào
thuế quan đối với bên ngoài; phối hợp chính sách thuận lợi hơn
Customs Union.
 Nhiều trường hợp FTA hình thành giữa một khối với một nước lớn

phát triển cao hơn.Trong đó, có thể áp dụng chương trình “thu
hoạch sớm” về thuế quan trước khi hoàn thành các mục tiêu khác
của FTA.

3.5.2.2 Liên minh thuế quan (Customs Union):
 Tự do hóa & thuận lợi hóa thương mại (gần như xóa bỏ hàng rào

thương mại khu vực); Thống nhất hàng rào thuế quan khu vực dành
cho hàng nhập khẩu từ bên ngoài;


 Gây chuyển hướng mậu dịch và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp khi

phối hợp chính sách giữa các thành viên trong liên minh.
3.5.2.3 Thị trường chung (Common Market):
 Tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại giống như liên minh thuế quan
 Kết hợp với tự do hóa tài chính và đầu tư,tạo điều kiện cho các yếu tố

sản xuất (vốn & lao động) di chuyển tự do trong khu vực
 Thị trường chung là bước quá độ để tiến đến thành lập liên minh kinh
tế và tiền tệ.
3.5.3 Định chế hội nhập khu vực cấp cao
3.5.3.1 Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Moneytary Union EMU):
 Về cơ bản, đây là thị trường chung có sử dụng đồng tiền chung cho
các thành viên
 Thống nhất các chính sách kinh tế và chính sách tiền tệ (ngân hàng
trung ương chung)
 Liên minh kinh tế và tiền tệ là bước quá độ để tiến đến thành lập liên

minh khu vực.
3.6 Cơ hội và thách thức của Việt nam và các doanh nghiệp trong nước trong liên
kết kinh tế khu vực
Toàn cẩu hóa kinh tế ngày nay đã trở thành xu thế chung của thời đại mà các quốc gia,
đân tộc không thể bỏ qua được.Toàn cầu hóa, Việt nam không nằm ngoài xu hướng tự

do hóa thương mại.Hội nhập kinh tế thế giới là một tất yếu khách quan.Quá trình toàn


cầu hóa có tác động tới nền kinh tế của các nước đặc biệt đối với doanh nghiệp Việt
nam khi nước ta ngày càng tham gia sâu rộng vào hội nhập kinh tế quốc tế.
3.6.1 Tầm vi mô
Việt nam tiếp cận và tham gia FTA từ khá sớm.Ngay khi là thành viên ASEAN
từ năm 1995, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm thuế theo Chương trình thuế quan ưu
đãi có hiệu lực chung nhằm thiết lập Khu vực thương mại tự do ASEAN
(CEPT/AFTA) từ năm 1996.Vượt qua nhiều thách thức, bỡ ngỡ trong giai đoạn đầu hội
nhập, nước ta đã triển khai thuận lợi Chương trình CEPT/AFTA Năm 2006, Việt Nam
cơ bản hoàn thành CEPT/AFTA với việc đưa hầu hết các mức thuế quan về biên độ 05%.Các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép, tiêu chuẩn chất lượng cũng
được từng bước hài hòa tương ứng với các nền kinh tế ASEAN khác.Nhờ là thành viên
của ASEAN, Việt Nam không những được tiếp cận thị trường của các đối tác một cách
thuận lợi hơn mà còn có cơ hội bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước với lộ trình dài
hơn.Từ năm 2002, dựa trên mối liên kết mật thiết với ASEAN, Xu thế liên kết kinh tế
khu vực chưa bao giờ ngừng vận động.Đặc biệt, trong những năm 90 của thế kỷ XX,
việc thiết lập các khu vực thương mại tự do (FTA) lại bùng lên mạnh mẽ nhất là sau
những thất bại của Vòng đàm phán Đôha của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Không thể sớm nâng cấp hệ thống thương mại đa phương, các nước đã từng
bước hướng nguồn lực sang xây dựng các liên kết khu vực quy mô nhỏ hơn nhưng hiệu
quả rõ rệt hơn.Từ năm 2001 đến nay, đã có trên dưới 400 FTA song phương và khu vực
xuất hiện với quy mô và hình thức khác nhau. So với các cam kết tự do hóa trong
khuôn khổ WTO, các liên kết kinh tế khu vực thường có mức độ mở cửa thị trường
mạnh mẽ, sâu sắc và triệt để hơn rất nhiều. Ngoài việc loại bỏ các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan, các FTA thường đưa ra các cam kết tự do hóa trong nhiều lĩnh vực
như thương mại dịch vụ, đầu tư, thậm chí sẵn sàng hợp tác trên các lĩnh vực phi truyền
thống trong thương mại khác như tiêu chuẩn lao động, môi trường...



nước ta cũng lần lượt tham gia các FTA giữa ASEAN với rất nhiều nước đối tác
lớn trong khu vực. Năm 2004, Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA) được thành lập. Năm 2007, Hiệp định xây dựng Khu vực thương mại tự do
ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA) được ký kết.Năm 2008, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) được ký kết với mục tiêu xây dựng FTA vào năm
2015. Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ (AIFTA), Khu vực thương mại tự
do ASEAN - Australia và New Zealand (AANZFTA) cũng lần lượt được thiết lập trong
năm 2009 với mục tiêu loại bỏ hoàn toàn thuế quan đến năm 2020.
Tuy vậy, quá trình tham gia FTA của nước ta chỉ có sự thay đổi về chất khi Việt
Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).Chúng ta đã tham
gia một cách sòng phẳng hơn với động cơ chính của mọi cuộc đàm phán là vấn đề lợi
ích trong quan hệ thương mại và đầu tư. Với các đối tác FTA, Việt Nam cũng đã chứng
tỏ mình là một đối tác tin cậy. Các FTA không chỉ được thực hiện trong khuôn khổ hợp
tác ASEAN, mà chính chúng ta đã lựa chọn những đối tác phù hợp, có lợi cho chiến
lược hội nhập của đất nước.Năm 2008, FTA song phương đầu tiên của Việt Nam là
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản, có hiệu lực từ tháng 10 năm
2009.Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán FTA song phương với Chi Lê, tham gia đàm
phán với tư cách thành viên chính thức của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Các FTA ASEAN+3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), ASEAN+6 (thêm
Ấn Độ, Australia và New Zealand) và FTA song phương với Liên bang Nga, Liên minh
châu Âu và Hàn Quốc cũng đang được xem xét nghiêm túc.
Trong tất cả các cuộc đàm phán FTA, động lực quan trọng nhất của nước ta luôn
gắn với mục tiêu phát huy lợi ích xuất khẩu của hàng hóa trong nước.Có lẽ, việc quan
tâm đến xuất khẩu cũng chính là mối quan tâm đến nâng cao năng lực sản xuất của nền
kinh tế.Tuy vậy, suy xét lợi ích xuất khẩu cũng được cân nhắc trên hai phương diện là
ngắn hạn và dài hạn.


Trong ngắn hạn, mối quan tâm đến lợi ích xuất khẩu chính là sự so sánh tương
quan trực diện về sức cạnh tranh với các hàng hóa giữa các quốc gia, nhất là những

quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Philippines với nước ta có ý nghĩa rất
lớn.Cũng như bất cứ quốc gia nào khác trong khu vực, Việt Nam tham gia FTA một
phần vì không muốn mất đi ưu thế xuất khẩu, là động lực để ta cùng thiết lập FTA với
các đối tác của mình. Hiện tại, đối tác FTA của ASEAN và Việt Nam đều là các quốc
gia Đông Á. Đây là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của nước ta với kim ngạch
gần 35 tỷ USD, tương đương với 48% tổng kim ngạch xuất khẩu.Trên thực tế, trên góc
độ trực diện nhất, cơ hội xuất khẩu đối với các mặt hàng cụ thể của nước ta trong các
FTA mà Việt Nam đã tham gia cũng rất đáng kể.Với Nhật Bản, 79% xuất khẩu nông
sản của ta sẽ được hưởng ưu đãi thuế 0%. Mức thuế trung bình nhờ cam kết FTA đã
giảm từ 8,1% xuống 4%.Các mặt hàng có lợi nhất là rau quả tươi, cà phê, chè, thịt lợn
và các sản phẩm gỗ. Hàng thủy sản có thuế suất trung bình giảm từ 5,4% xuống
1,3%.Riêng đối với các sản phẩm công nghiệp, 100% thuế suất hàng công nghiệp đạt
0% ngay trong năm 2010. Các mặt hàng có lợi nhất là dệt may, giày dép, hóa chất, điện
và điện tử. Với thị trường Australia và New Zealand, mặc dù là thị trường có mức bảo
hộ bằng thuế quan tương đối thấp nhưng khoảng 14% xuất khẩu của Việt Nam (chủ
yếu là hàng may mặc, giày dép, một số sản phẩm kim loại) đang chịu mức thuế từ 7100% sẽ được giảm thiểu đáng kể từ 2013. 97% xuất khẩu của Việt Nam sang
Australia sẽ có thuế suất 0% vào năm 2013 và 100% xuất khẩu của Việt Nam sang
Australia sẽ có thuế suất 0% vào năm 2020. Tương tự, 44% hàng xuất khẩu của Việt
Nam sang New Zealand đang chịu mức thuế suất từ 7 - 80%. Đến năm 2013, 90% xuất
khẩu Việt Nam sang New Zealand sẽ có mức thuế bảo hộ 0% và 100% xuất khẩu của
ta sang New Zealand có mức bảo hộ 0% vào năm 2020. Với thị trường Ấn Độ, 72%
xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ sẽ hưởng ưu đãi 0% từ năm 2016.Các mặt hàng
được hưởng ưu đãi nhiều nhất là điện tử, dệt may, hóa chất và một số máy móc thiết bị.
Riêng các mặt hàng cà phê, chè sẽ có lộ trình giảm thuế thấp hơn mức thuế mà Ấn Độ


áp dụng cho các nước khác.Các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc về cơ bản đã không
áp dụng thuế nhập khẩu đối với các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Trong dài hạn, bức tranh về lợi ích xuất khẩu thường được nhìn nhận thông qua
các nhân tố tác động đến mục tiêu hình thành năng lực cạnh tranh của đất nước trong

tương lai Cơ sở nhận diện lợi ích xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam chính là khả năng
điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta khi tham gia các FTA của khu vực. Cho
đến nay, việc thiết lập FTAvới các nền kinh tế to lớn và năng động bậc nhất trong khu
vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc đã mang đến nhiều cơ hội lớn
đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Từ năm 2004 đến 2010, kim ngạch hai chiều Việt Nam với các đối tác ASEAN
và Đông Á đã tăng từ 32 tỷ USD lên 82 tỷ USD, tức là tăng gần 270%. Mức tăng
trưởng hàng năm đạt 28%. Trong đó, tỷ trọng thương mại của các nước đối tác trong
khu vực ASEAN và Đông Á là 53% trong tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam,
nếu tính thêm 3 đối tác là Australia, New Zealand và Ấn Độ trong ASEAN+6 thì con
số này là 56%. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia Đông Á còn tăng
trưởng với tốc độ cao. Có thể nói, tham gia vào FTA với ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ,
Nhật Bản, Australia, New Zealand, nước ta có cơ hội tiếp cận thuận lợi và khai thác thị
trường khổng lồ chiếm hơn 50% dân số và GDP thế giới, mở ra nhiều tiềm năng xuất
khẩu.
Theo nhóm nghiên cứu về tính khả thi của FTA Đông Á bao gồm ASEAN,
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, Khu vực thương mại tự do Đông Á (EAFTA) dự
kiến sẽ là một khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới về quy mô người tiêu dùng và
đứng thứ 3 thế giới về GDP, sẽ hình thành một thị trường khổng lồ với tổng số người
tiêu dùng lên tới gần 2 tỷ và gần 3.000 tỷ USD về giá trị GDP. Với sự năng động, nhạy
bén của các nền kinh tế trong khu vực này, FTA Đông Á sẽ tác động không nhỏ đến lợi
ích kinh tế, thương mại của từng nước, trong đó có Việt Nam. Cũng theo nghiên cứu


này, một khi FTA Đông Á hoàn thành, tổng GDP của các nước Đông Á sẽ tăng lên 1,2
% và phúc lợi kinh tế lên 104,6 tỷ USD. Riêng đối với Việt Nam, FTA Đông Á dự kiến
sẽ mang lại sự tăng trưởng 2,83% về GDP và lợi ích do sự phát triển của thương mại sẽ
đạt 3,029 tỷ USD. Đây quả là con số rất ý nghĩa đối với lợi ích thương mại của nước
ta.
Khác với những lợi ích xuất khẩu ngắn hạn, trực diện, lợi ích xuất khẩu trong dài

hạn phụ thuộc vào sự thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu dưới tác động của các
luồng thương mại và đầu tư. Hiện nay, cơ cấu xuất khẩu của nước ta còn rất đơn điệu,
giá trị gia tăng tương đối thấp. 85% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn là các sản
phẩm dầu thô, nông, lâm, thủy sản, khoáng sản và dệt may. Đây là các mặt hàng mà ta
có thế mạnh do lợi thế về tài nguyên và lao động nhưng giá trị gia tăng thấp, lợi ích
kinh tế không cao, thiếu tính bền vững. Cơ cấu trao đổi thương mại với các nướcĐông
Á hiện nay phản ánh sự liên kết ngành chưa cao.Sự đóng góp trực tiếp của các ngành
sản xuất của nước ta vào chuỗi cung ứng giá trị mang tầm khu vực còn rất hạn chế.Gần
đây, một số mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng gia tăng cao hơn như điện, điện tử, sản
phẩm nhựa, dây điện đã bắt đầu xuất hiện nhưng tỷ trọng chưa đáng kể. Tình trạng này
sẽ chỉ được cải thiện cho đến khi trạng thái cân bằng mới được xác lập trong dài hạn
khi nước ta tham gia sâu hơn vào liên kết ngành trong khu vực, dẫn đến sự biến chuyển
về cơ cấu chung của nền kinh tế theo hướng hội nhập. Sự gần gũi về địa lý, quan hệ
kinh tế, chính trị giữa nước ta và các đối tác Đông Á là một trong những nhân tố quan
trọng quyết định chất lượng phát triển của kinh tế nước ta.
Cùng với sự mở rộng của các FTA trong khuôn khổ ASEAN, lợi ích xuất khẩu
của nước ta sẽ được phát huy mạnh mẽ hơn nữa nhờ các FTA song phương mà ta đã
chủ động khởi xướng hoặc tham gia, ví dụ như các FTA song phương Việt Nam - EU,
FTA Việt Nam - Nga hay Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Việc thiết lập các FTA với EU, Hoa Kỳ và Nga sẽ hoàn tất chuỗi khu vực thương mại


tự do mà Việt Nam tham gia với các đối tác kinh tế lớn trên thế giới. Trong đó, Hoa Kỳ
là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch gần 12 tỷ USD, EU là thị
trường xuất khẩu lớn thứ 2 của nước ta với kim ngạch 10 tỷ USD. Đây là hai thị trường
có mức tăng trưởng xuất khẩu tốt nhất, khoảng 400% trong vòng 7 năm từ 2003 đến
2010.Đây cũng là thị trường mà Việt Nam luôn duy trì trạng thái xuất siêu ổn định. Với
Nga, dù thương mại chưa cao như mong đợi nhưng Nga luôn là thị trường xuất khẩu
truyền thống và rất nhiều tiềm năng.Việc thiết lập FTA với các thị trường này sẽ là cú
hích lớn cho thương mại Việt Nam.

Sự chủ động của các doanh nghiệp là nhân tố quyết định sự thành công của chính sách
hội nhập kinh tế đất nước.Trong những năm qua, điều rất đáng lưu ý là các doanh
nghiệp Việt Nam đã tỏ ra quan tâm hơn, tận dụng tốt hơn các ưu thế mà FTA mang lại.
Năm 2010, gần 12% xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đã hưởng ưu đãi thuế, tăng
so với mức 6% năm 2005. 21,7% hàng xuất khẩu của ta được hưởng ưu đãi thuế của
Trung Quốc, tăng từ mức 6,3% năm 2007.Đặc biệt, có đến 79% xuất khẩu của Việt
Nam được hưởng ưu đãi thuế từ Hàn Quốc.Đối với Nhật Bản, mặc dù mới triển khai
FTA, 28% xuất khẩu của ta đã được hưởng ưu đãi thuế của nước này.
Tuy nhiên chuyển hướng thương mại cũng là một thách thức mới đối với tiến
trình tham gia FTA.Việc một số nước ASEAN tham gia vào nhiều FTA với các nước
ngoài khối cũng tạo ra nguy cơ chuyển hướng thương mại bất lợi đối với Việt Nam khi
giao dịch thương mại bị phân tán mạnh mẽ bởi các FTA hướng ngoại.Không chỉ có thế,
FTA còn được xây dựng với các hình thức hợp tác khác. Chẳng hạn, Nhật Bản đàm
phán một FTA với ASEAN, rồi lại đàm phán FTA với Singapore, Philippines, Thái
Lan…


3.6.2 Tầm vi mô
Rõ ràng, lợi ích của FTA không chỉ phụ thuộc vào vai trò định hướng của nhà
nước, mà quan trọng hơn chính là sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam.Khi Việt nam tham gia vào tiến trình gia nhập các tổ chức kinh tế, tiến hành ký
kết các hiệp định một mặt mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp mặt khác nó lại là
thách thức của các doanh nghiệp Việt nam trong quá trình cạnh tranh.
Tham gia đàm phán các FTA, Chính phủ sẽ xác định các nguyên tắc thương mại,
trong đó có các nguyên tắc về thuế quan và các ưu đãi.Đây là những vấn đề doanh
nghiệp đặc biệt quan tâm.Trên thực tế, người thực hiện các FTA là doanh nghiệp và họ
cũng chính là đối tượng hưởng lợi.Tuy nhiên, một FTA được ký cũng đồng nghĩa với
việc mở cửa thị trường.Doanh nghiệp sẽ thua ngay trên sân nhà nếu không tự nâng cao
sức cạnh tranh.
Các hiệp định FTA đều hướng tới việc xóa bỏ rào cản trong thương mại và đầu

tư.Vì vậy, cạnh tranh đối với doanh nghiệp là thách thức quan trọng nhất mà các hiệp
định thương mại tạo ra.Nếu đủ mạnh, các sức ép này sẽ dẫn tới việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế phù hợp với môi trường mới. Đây là thách thức phát sinh, có ý nghĩa với
các nhà quản lý bởi nhiệm vụ của họ là nhìn trước sự vận động, từ đó tạo ra môi trường
giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu diễn ra suôn sẻ hơn, với chi phí thấp hơn.
Các doanh nghiệp của ta đã dần chủ động hơn trong việc tận dụng ưu đãi thuế
trong các FTA.Tỷ lệ hàng hóa được hưởng ưu đãi của ta là khá cao so với các đối tác
trong khu vực và đang có xu hướng tăng lên qua các năm.Trong năm 2009, khoảng
25% xuất khẩu của Việt Nam đã tận dụng được ưu đãi thuế trong các FTA. Cụ thể, gần
12% xuất khẩu sang ASEAN đã được hưởng ưu đãi thuế, tăng mạnh so với mức 6%
của năm 2005. Với Trung Quốc, tỷ lệ này là 22%. Đặc biệt, gần 80% xuất khẩu của
Việt Nam sang Hàn Quốc đã được hưởng ưu đãi thuế.Với Nhật Bản, dù mới triển khai
FTA nhưng 28% xuất khẩu của ta đã được hưởng ưu đãi thuế khi đi vào thị trường


nước này. Có thể thấy, tỷ lệ tận dụng ưu đãi là thấp hơn ở những đối tác có cơ cấu xuất
khẩu tương đồng với Việt Nam (như ASEAN, Trung Quốc) và cao hơn ở những đối tác
có cơ cấu xuất khẩu bổ sung cho Việt Nam (như Hàn Quốc, Nhật
Bản).
Cơ hội thị trường quốc tế sẽ ngày càng rộng mở cho các doanh nghiệp cùng với
tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng
minh rõ điều này.Trong giai đoạn từ năm 1996 - 2005, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, đạt mức trung bình 17,5/ năm, giá trị xuất khẩu đã tăng
gấp gần 5 lần, từ 7,2 tỉ USD (năm 1996) lên 32,2 tỉ USD (năm 2005), đưa Việt Nam trở
thành quốc gia có nền thương mại phát triển ở mức trung bình trên thế giới. Và, kể từ
sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực (tháng 12-2001), kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng hơn 7 lần, từ 1,053 tỉ USD năm
2001, lên 6,5 tỉ USD năm 2005.
Các doanh nghiệp tiếp cận được với đầu vào nhập khẩu rẻ hơn sẽ tạo điều kiện
giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh.Trong điều kiện Nhà nước thực hiện bảo hộ

đối với một ngành sẽ dẫn đến giá hàng hóa của ngành đó cao hơn so với thị trường và
vì thế những ngành có liên quan, đặc biệt là những ngành sử dụng sản phẩm của ngành
được bảo hộ làm nguyên liệu sản xuất sẽ phải chịu chi phí đầu vào lớn. Nhưng nhờ
việc bãi bỏ các rào cản đối với các luồng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư,...
giá của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh trong điều kiện cạnh
tranh sẽ có xu hướng giảm do không phải/hoặc giảm bớt các chi phí cho việc nhập
khẩu. Do vậy, tự do hóa thương mại góp phần giảm chi phí và tăng năng lực cạnh tranh
của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp. Thương mại tự do còn cho phép các
doanh nghiệp giảm các chi phí giao dịch, kinh doanh nhờ các nguyên tắc chung được
thống nhất.


Tuy nhiên các doanh nghiệp của Việt nam phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
qui mô sản xuất không lớn, thiếu vốn, công nghệ chưa được cải tiến đồng bộ… do vậy
chất lượng hàng hóa thấp nhưng giá thành lại cao.Hơn nữa lại nhiều doanh nghiệp lại
quen với “vòng tay bảo hộ”của nhà nước nên thụ động với nền kinh tế thị trường.Như
vậy nâng cao năng lực cạnh tranh là thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt
nam.
Các doanh nghiệp Việt nam cần nắm bắt và vận dụng sáng tạo các thành tựu
khoa học mới vào quy trình sản xuất kinh doanh: đổi mới dây chuyền công nghệ sẽ
giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, từ đó hạ được giá thành sản phẩm mà
chất lượng lại cao. Những tiến bộ về khoa học công nghệ còn giúp cho doanh nghiệp
giảm được số lao động trực tiếp sản xuất, dẫn tới giảm nhân công và tăng lương cho
người lao động.
Các doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi thị trường khảo sát nhu cầu của
thị trường, xác định lượng cung, lượng cầu để có kế hoạch sản xuất. Bởi hiện nay vẫn
còn có các doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp
trong khi nhu cầu thị trường đã có sự chuyển đổi. Để nắm bắt được xu hướng của thị
trường thì các doanh nghiệp có thể tổ chức các đợt tiếp thị, quảng cáo sản phẩm đến
tận tay người tiêu dùng. Tham gia các hội chợ quốc tế trong khu vực và thế giới để

khảo sát nhu cầu người tiêu dùng, quảng bá cũng như tìm kiếm các dối tác đầu tư hoặc
làm đại lý.Chiến lược của các doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài đón đầu được xu thế
thay đổi thị trường khu vực và thế giới.
Các doanh nghiệp còn phải coi trọng ý kiến về quản lý tài chính.Các định chế về
tài chính cần được củng cố vững mạnh và có công nghệ hiện đại để dủ sức cạnh tranh
các dịch vụ tài chính nước ngoài để các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong nước
không tìm kiếm doanh nghiệp nước ngoài


Một vấn đề quan trọng nữa là các doanh nghiệp cần nâng cao trình tay nghề của
người lao động. Doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận với công
nghệ hiện đại, tổ chức đào tạo nghiệp vụ qua trường lớp. Tận dụng các cơ hội chuyển
giao công nghệ của các nước thành viên trong liên minh kinh tế khu vực … để trao đổi
chuyên gia, tổ chức các khóa học ngắn hạn cho người lao động có sự tham gia trực tiếp
giảng dạy của các chuyên gia nước ngoài hoặc cử các cán bộ chủ chốt sang nước bạn
để học tập.
Hiện nay trong xu thế hội nhập phát triển không ngừng công nghệ thông tin cũng
đóng góp một phần không nhỏ vào trong tiến trình.Trong xu thế hội nhập toàn cầu ký
kết hợp đồng điện tử ngày càng phát triển.Một ví dụ điển hình có thể thấy ngày càng có
nhiều thị trường khó tính như Hàn quốc, Nhật bản, Hongkong ngỏ lời mua gạo của
Việt nam. Nhưng để thâm nhập thị trường này thì các doanh nghiệp phải biết đấu thầu
điện tử, giao dịch qua sàn… như vậy các doanh nghiệp Việt nam cần phải nắm được kỹ
năng đấu thầu điện tử.Điều này quá mới mẻ với các doanh nghiệp Việt nam vì từ trước
tới nay các doanh nghiệp chỉ quen đấu thầu trực tiếp, chưa tham gia đấu thầu điện tử và
không biết dấu thầu điện tử là như thế nào. Do vậy cơ hội để doanh nghiệp xuất khẩu
gạo Việt nam sang các quốc gia trên đã bị giảm thiểu.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động trong việc: tìm hiểu những cam
kết thuế quan, quy tắc xuất xứ, các quy định về vệ sinh, kiểm dịch và các quy định kỹ
thuật khác, nghiên cứu thị trường, nâng cao chất lượng, giá trị và trách nhiệm đối với
uy tín sản phẩm.Từ phía các cơ quan quản lý, cần đặt ra mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp

tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của khu vực và toàn cầu.
4. Kết luận:

Tóm lại, mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa là xu hướng phát triển khách quan,
mang tính quy luật tất yếu trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới.Hội nhập
kinh tế quốc tế đang tác động sâu sắc đến nền kinh tế của tất cả các quốc gia.Hội nhập


kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội phát triển to lớn cho các doanh nghiệp Việt
Nam, nhưng cũng đặt các doanh nghiệp trước những thách thức, khó khăn không
nhỏ.Muốn có nền kinh tế mạnh phải có những doanh nghiệp mạnh, có nhiều sản phẩm
đủ sức cạnh tranh với hàng hóa của thế giới. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải
nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc để có những giải pháp phù hợp nhằm tận dụng được
những cơ hội, vượt qua thách thức, biến những thách thức thành cơ hội để phát triển,
đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, đứng vững trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Thực hiện đúng Nghị quyết của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc
tế phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.



×