BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
HỌC PHẦN LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Đề bài: Tổng thuật lý luận và liên hệ thực tiễn về chủ đề: Phát triển năng
lực quản lý của CBQL trường học.
Bài làm
I. Đặt vấn đề
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang đặt tất cả các lĩnh vực
trong xã hội trước nhiều thách thức lớn, trong đó có giáo dục và đào tạo. Để thích
ứng với bối cảnh của cuộc CMCN 4.0, giáo dục và đào tạo cần đổi mới căn bản và
toàn diện, một trong những vấn đề then chốt đó là nâng cao chất lượng cán bộ quản
lý giáo dục.
Muốn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục ngoài những phẩm chất, năng lực cần thiết thì cần có những phẩm chất
mới, năng lực mới theo chuẩn năng lực nghề nghiệp. Để có được những phẩm chất,
năng lực mới đó, người cán bộ quản lý giáo dục phải thay đổi tư duy, tự học tập, tự
bồi dưỡng và được bồi dưỡng thông qua những chương trình bồi dưỡng cán bộ
quản lý giáo dục tại các cơ sở giáo dục được giao nhiệm vụ bồi dưỡng theo phân
cấp quản lý. Theo đó, để nâng cao chất lượng cán bộ quản lý giáo dục trước bối
cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 thì công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục
cần được đổi mới.
Với chủ đề này, em xin tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề đổi mới công
tác bồi dưỡng cán bộ quản lý trường học nhằm phát triển năng lực cán bộ quản
lý trường học trước yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo và cuộc cách mạng 4.0
hiện nay.
II. Tổng thuật lí luận về phát triển năng lực quản lý của cán bộ quản lý
trường học
1. Khái niệm cơ bản
Quản lý là quá trình tác động có chủ định, hướng đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm tạo ra các hoạt động hướng tới đạt mục đích chung của
tổ chức dưới sự tác động của môi trường [9].
Quản lý giáo dục ở cấp độ hệ thống, được hiểu là những tác động có hệ
thống, có ý thức, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả
1
các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành
bình thường và liên tục phát triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng.
Quản lý giáo dục ở cấp độ quản lý trường học, là hệ thống tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhà trường làm cho nhà trường
vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục, đưa nhà
trường tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất, góp phần thực hiện
mục tiêu chung của giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [3].
Quản lý nhà trường (một cơ sở giáo dục) được hiểu là những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật của chủ thể
quản lý nhà trường (hiệu trưởng) đến khách thể quản lý nhà trường (giáo viên, nhân
viên và người học…) nhằm đưa các hoạt động giáo dục và dạy học của nhà trường
đạt mục tiêu giáo dục [2].
Cán bộ quản lý giáo dục là tập hợp những người làm công tác quản lý trong
các cơ quan quản lý giáo dục các cấp và các cơ sở giáo dục và đào tạo trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có vai trò quan trọng
trong sự thành bại của sự nghiệp giáo dục, là người quyết định chất lượng của cơ sở
giáo dục mà họ quản lý.
Cán bộ quản lý nhà trường được hiểu là những người làm công tác quản lý
ở các nhà trường, là những người thực hiện điều hành các hoạt động giáo dục diễn
ra trong trường, là những chủ thể quản lý bên trong nhà trường do cơ quan có thẩm
quyền bổ nhiệm, công nhận.
Năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và
vận hành chúng một cách hợp lý, giúp con người giải quyết có hiệu quả một hay
một số lĩnh vực hoạt động thực tiễn nhất định.
Năng lực quản lý của người quản lý là khả năng làm chủ những hệ thống
kiến thức, kĩ năng, thái độ trong hoạt động quản lý và vận hành chúng một cách
hợp lý, nhằm giải quyết có hiệu quả những chức năng, nhiệm vụ của người quản lý
[6].
Năng lực quản lý giáo dục là tổng hợp những thuộc tính của người cán bộ
đáp ứng được những yêu cầu của việc lãnh đạo, điều hành mọi hoạt động trong các
cơ sở giáo dục và đảm bảo cho hoạt động đạt kết quả như mong muốn.
2
Bồi dưỡng theo Từ điển Việt Nam năm 1994: bồi dưỡng là làm cho tăng
thêm năng lực phẩm chất "Bồi dưỡng cán bộ, bồi dưỡng đạo đức, bồi dưỡng giáo
viên, ...". " Bồi dưỡng là làm cho tốt hơn, giỏi hơn".
Theo Từ điển giáo dục học (NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội (2001)), bồi
dưỡng:
Nghĩa rộng: quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những
phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn. Thí dụ : bồi
dưỡng cán bộ, bồi dưỡng chí khí chiến đấu, bồi dưỡng các đức tính cần, kiệm, liêm,
chính, v.v…
Nghĩa hẹp: trang bị thêm các kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và
hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể. Thí dụ : bồi dưỡng kiến
thức, bồi dưỡng lý luận, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, v.v…
Như vậy, mục đích của bồi dưỡng là nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất và
năng lực chuyên môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở rộng và nâng cao hệ
thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn - nghiệp vụ đã có, từ đó nâng cao chất
lượng, hiệu quả công việc đang làm. Trong hoạt động bồi dưỡng thì yếu tố quyết
định đến chất lượng các hoạt động vẫn là vai trò chủ thể của người được bồi dưỡng
thông qua con đường tự học, tự đào tạo, tự bồi dưỡng nhằm phát huy nội lực cá
nhân.
2. Một số yêu cầu về đổi mới quản lý nhà trường trong
giai đoạn hiện nay
2.1. Phải nhận thức được xu hướng chung về đổi mới quản lý giáo dục
toàn cầu
1. Quá trình giáo dục phải hướng tới người học
Quá trình giáo dục phải hướng tới người học thể hiện ở các yêu cầu:
- Tính cá thể của người học được đề cao.
- Coi trọng mối quan hệ giữa lợi ích của người học với mục tiêu phát triển xã
hội và mục tiêu phát triển cộng đồng, xã hội.
- Nội dung giáo dục phải sáng tạo theo nhu cầu người học.
- Phương pháp giáo dục là cộng tác, hợp tác giữa người dạy và người học,
công nghệ hóa và sử dụng tối đa tác dụng của công nghệ thông tin.
- Hình thức tổ chức giáo dục đa dạng, linh hoạt, phù hợp với kỷ nguyên
thông tin và nền kinh tế tri thức nhằm tạo khả năng tối ưu cho người học lựa chọn
hình thức học tập trong một xã hội học tập.
3
- Đánh giá kết quả học tập trong trường học phải đổi mới để thực sự có
những phán quyết chính xác về kiến thức, kỹ năng và thái độ người học.
2. Hoạt động giáo dục tập trung vào thực hiện các trụ cột của giáo dục và
triết lí học suốt đời.
a. Học để biết
Giáo dục trong nhà trường phải để người học tiếp cận ngay được những thay
đổi nhanh chóng do sự tiến bộ không ngừng của KH&CN và sự biến đổi mới của
các hình thức hoạt động KT-XH. Biết căn nguyên vấn đề, biết vận dụng tri thức vào
việc tạo ra việc làm và làm việc, biết cách ứng xử trong cuộc sống để cùng chung
sống trong xã hội (nói chung là môi trường xã hội) luôn luôn biến động.
b. Học để làm
Giáo dục trong nhà trường phải để ngoài việc người học học được một nghề
cũng như năng lực giúp họ xử lí được nhiều tình huống cụ thể mà thường không thể
thấy trước được; đồng thời giúp cho người học thích ứng với các biến đổi của thời
đại. Vấn đề này phương pháp dạy học hiện nay chú ý chưa đúng mức và chỉ có thể
thực hiện được khi mà dạy học đi đôi với hoạt động tập thể, lao động gắn với cuộc
sống thực tiễn.
Như vậy, hoạt động dạy học trong trường phải được tiến hành trong một nền
giáo dục đủ rộng (học nhiều môn học với nhiều hình thức) nhằm tạo được cho
người học khả năng làm việc có kỹ năng và kĩ xảo với một nghề chọn lọc; nhưng
biết thêm phương pháp tư duy để biết và thích ứng được với sự thay đổi nghề trong
tương lai.
c. Học để chung sống (học để sống với người khác)
Giáo dục trong nhà trường phải để con người (công dân của thế giới) hiểu
biết nhau về: kế mưu sinh, về lịch sử - văn hóa, về truyền thống và các giá trị tinh
thần của người khác, của cộng đồng khác và của dân tộc khác. Từ đó người học
biết được cái riêng trong cái chung, biết bảo vệ cái riêng, nhưng cũng biết tôn trọng
và xây dựng cái chung của toàn nhân loại; đồng thời biết, hòa nhập vào cái chung
(giá trị chung của nhân loại) để cùng phát triển bền vững.
d. Học để làm người
Giáo dục trong nhà trường như thế nào để cho mỗi con người trong thế kỷ
XXI có năng lực tự chủ và xét đoán cao hơn nhằm gắn bó giữa cá nhân với nỗ lực
đạt được cái chung. Làm sao không để một tài năng nào (như một năng lực tiềm ẩn
trong từng con người) là không được khai thác. Cụ thể là trí nhớ, sự lập luận, trí
tưởng tượng, khả năng thể lực, thẩm mĩ, thái độ giao tiếp với những người khác, uy
4
tín của mỗi người... đều được phát huy. Hiện nay “xã hội thông tin” đang phát triển
làm cho những cơ hội tiếp cận những dữ liệu và sự kiện được gia tăng, nên dạy học
cần giúp cho mọi người sử dụng được thông tin; biết thu thập, chọn lọc, sắp xếp,
quản lý và sử dụng nó. Có như vậy con người thời đại ngày nay mới “làm người”
một cách đúng ý nghĩa của nó.
e. Học suốt đời
Triết lí học suốt đời được xem như những chiếc chìa khóa mở cửa cho mọi
người tiếp tục đi đến và cập nhật được các thành tựu khoa học, công nghệ; những
nét mới của sự phát triển văn hóa. Nó vượt quá sự phân biệt giữa truyền thống giáo
dục ban đầu và giáo dục liên tục. Nó tạo ra một xã hội học tập, ở đó tất cả mọi
người đều có cơ hội học tập và phát huy tiềm năng của mỗi người; đồng thời mở ra
những khả năng học tập cho mỗi người. Như vậy giáo dục trong nhà trường thời
nay phải được mục tiêu kép:
+ Trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ cho người học để sau thời gian học
ban đầu có thể tiếp tục học lên cao hơn để có nghề chuyên sâu.
+ Trang bị các năng lực cần thiết trong thời gian học ban đầu để người học
có thể hòa nhập ngay vào thị trường lao động; chờ cơ hội tiếp tục học lên và thực
hiện học tập suốt đời.
3. Đổi mới quản lý nhà trường theo hướng lấy nhà trường làm cơ sở
Với quan điểm “Giáo dục cho tất cả - Tất cả cho giáo dục (Education for All
– All for Education)”, các quốc gia phát triển trên thế giới luôn luôn thực hiện cải
cách giáo dục khi mà nền KT-XH có sự chuyển đổi. Thực tiễn cải cách giáo dục
(trong đó có đổi mới quản lý giáo dục và đổi mới quản lý nhà trường) ở một số
quốc gia phát triển cho thấy giáo dục của họ thực chất đã đáp ứng được yêu cầu
phát triển KT-XH. Đó là việc thực hiện đổi mới về tư duy, phương thức và cơ chế
quản lý giáo dục và quản lý nhà trường. Cụ thể:
- Đổi mới về tư duy quản lý giáo dục: chuyển từ tư tưởng mệnh lệnh hành
chính sang quản lý chủ yếu bằng pháp luật.
- Đổi mới phương thức quản lý giáo dục: chuyển từ một chiều, từ trên xuống
sang tương tác, lấy đơn vị cơ sở giáo dục (nhà trường) làm trung tâm.
- Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục: chuyển từ tập trung, quan liêu bao cấp
sang phân cấp, dân chủ, tự chủ và tự chịu trách nhiệm.
- Chuyển từ mô hình quản lý cũ sang mô hình quản lý mới: Mô hình quản lý
mới trong quản lý giáo dục là mô hình chú trọng đến lãnh đạo để thay đổi; các cơ
sở giáo dục quyết định lấy tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu và các giá trị cần đạt tới
5
trên cơ sở xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường; tập trung vào rèn
luyện kĩ năng học tập, kĩ năng làm việc, kĩ năng sống và các kĩ năng xã hội khác
cho người học; các cơ sở giáo dục (nhà trường) tự chịu trách nhiệm xã hội về tổ
chức và nhân lực, về giáo dục và dạy học, về tài chính và tài sản trên cơ sở đào tạo
theo nhu cầu xã hội.
Như vậy, bản chất của sự đổi mới quản lý nhà trường là chỗ quản lý lấy nhà
trường làm cơ sở (School – Based Management). Đây là một xu thế tất yếu của sự
đổi mới nhà trường và xu thế này đang xuất hiện các thách thức chủ yếu sau:
- Quản lý lấy nhà trường làm cơ sở đòi hỏi CBQL nhà trường phải có năng
lực ra quyết định phù hợp với quyền tự chủ về nhân sự và tài chính; đòi hỏi đội ngũ
nhà giáo phải có năng lực làm việc tập thể, giải quyết vấn đề, hoạch định kế hoạch
phát triển; đòi hỏi tập thể giáo viên, cán bộ, nhân viên nhà trường phải có năng lực
đóng góp và tham gia công tác quản lý.
- Quản lý lấy nhà trường làm cơ sở đòi hỏi mọi thành viên nhà trường dành
thêm thời gian hàng ngày cho công việc nhà trường. Điều này là một thách thức
không nhỏ, nhất là đối với giáo viên khi họ đã phải chịu gánh nặng về thời gian do
yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp.
- Quản lý nhà trường làm cơ sở đòi hỏi cơ chế phối hợp mới, trong đó quản lí
giáo dục cấp trên cần giảm bớt tính chỉ đạo một chiều để tăng cường tính khuyến
khích, hỗ trợ, động viên, tạo điều kiện cho nhà trường phát huy vai trò chủ động
trong quản lý, điều hành các hoạt động của mình.
2.2. Phải nhận thức rõ vai trò lãnh đạo và quản lí của người Hiệu trưởng
Lãnh đạo và quản lý là các yếu tố tiền đề để đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của một tổ chức nói chung và một trường học nói riêng. Ngoài vai trò quản
lý, Hiệu trưởng còn có vai trò lãnh đạo nhà trường và hai vai trò đó có mối quan hệ
biên chứng với nhau khi quản lý các hoạt động trong nhà trường.
1. Hiệu trưởng nhà trường là cán bộ quản lý và cũng là cán bộ lãnh đạo nhà
trường
- Cán bộ là người có vai trò cốt lõi, có tài năng làm được việc trong cơ quan,
tổ chức xã hội để phục vụ cho các sự nghiệp chung của nhân dân.
- Cán bộ lãnh đạo là cán bộ có trọng trách định hướng, thu hút, thuyết phục
và dẫn dắt người khác đi theo một triết lí, tư tưởng hoặc một chủ nghĩa đúng. Đối
với trường học, việc định hướng hoạt động thực chất là hoạch định sự phát triển
của nhà trường bằng một kế hoạch chiến lược; vạch ra tầm nhìn, sứ mạng, giá trị
mục tiêu và giải pháp phát triển nhà trường. Việc đó đồng nghĩa với việc đưa ra
6
triết lí, tư tưởng hoặc một chủ nghĩa đúng mà mọi thành viên trong nhà trường cần
noi theo. Hoạch định sự phát triển của nhà trường tuy là trách nhiệm chung của
mọi thành viên nhà trường, nhưng hiệu trưởng lại là hạt nhân, cho nên hiệu trưởng
là cán bộ lãnh đạo của nhà trường.
- Cán bộ quản lý là cán bộ có trách nhiệm coi sóc, can thiệp và tu chỉnh một
hoạt động để nó không vượt quá khuôn khổ và được tốt lên, trên cơ sở nhờ vào
những luận cứ và luận chứng đúng. Việc coi sóc, can thiệp và tu chỉnh các hoạt
động của trường học của hiệu trưởng thực chất là thực hiện các chức năng cơ bản
của quản lí (kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) đối với các hoạt động chủ yếu của
nhà trường như đào tạo, nghiên cứu khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân
cách người học.
Nhìn chung CBQL là cán bộ mà hoạt động nghề nghiệp của họ hoàn toàn
hay chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng về quản lí; trong khi đó “Hiệu trưởng
là người chịu trách nhiệm quản lí các hoạt động của nhà trường” [7], như vậy người
Hiệu trưởng đương nhiên là CBQL của nhà trường.
2. Các vai trò lãnh đạo và quản lý của hiệu trưởng
- Các vai trò lãnh đạo của hiệu trưởng có ý nghĩa định hướng cho nhà trường
luôn luôn thay đổi để phát triển bền vững. Các vai trò đó gồm:
+ L1: Hoạch định sự phát triển nhà trường (vạch ra tầm nhìn, sứ mạng, mục
tiêu, các giá trị và các giải pháp chiến lược phát triển);
+ L2: Đề xướng sự thay đổi của nhà trường của nhà trường (chỉ ra các lĩnh
vực cần thay đổi để phát triển nhà trường)
+ L3: Thu hút và phát triển nguồn lực nhà trường (thu hút và phát triển nhân
lực, huy động tài chính và cơ sở vật chất cho các hoạt động);
+ L4: Thúc đẩy sự phát triển nhà trường (đánh giá, động viên, phát huy thành
tích)
+ L5: Duy trì sự phát triển bền vững cho nhà trường (uốn nắn và củng cố sự
thay đổi của nhà trường)
- Vai trò quản lý của hiệu trưởng có ý nghĩa làm cho nhà trường luôn luôn
vận hành ổn định để đạt tới các mục tiêu. Vai trò đó được thể hiện ở việc thực hiện
các chức năng cơ bản của quản lý trên cơ sở tuân theo các quyết định của nhà
trường. Các vai trò đó gồm:
+ Q1: Đại diện cho chính quyền về xây dựng và thực thi pháp luật, chính
sách, điều lệ, quy chế và các quy định về hoạt động giáo dục và hoạt động QLGD.
7
+ Q2: Hạt nhân sắp xếp bộ máy tổ chức, phát triển đội ngũ, điều hành nhân
lực, hỗ trợ sư phạm và hỗ trợ quản lí cho mọi thành viên nhà trường.
+ Q3: Chủ sự huy động và quản lí việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
vật chất của nhà trường.
+ Q4: Tác nhân phối hợp các lực lượng trong và ngoài tổ chức nhằm phát
huy thế mạnh và hạn chế các bất thuận của môi trường giáo dục của nhà trường.
+ Q5: Chủ thể của việc thiết lập và vận hành EMIS của nhà trường.
Vai trò lãnh đạo và quản lý của hiệu trưởng có quan hệ biện chứng với nhau,
hiệu trưởng cần thể hiện kết hợp các vai trò trên một cách chặt chẽ, đồng bộ trên tất
cả các lĩnh vực hoạt động của nhà trường.
3. Vai trò của cán bộ quản lý giáo dục trước yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, các tác động của quá trình toàn cầu hóa,
bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, sự phát triển như vũ bão về công nghệ thông
tin và truyền thông, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra cho giáo dục
có thêm vai trò mới: giáo dục vừa là động lực cho việc vận hành nên kinh tế tri
thức, vừa là hạ tầng xã hội cho việc hình thành xã hội tri thức – đó là nền giáo dục
đặt trên cơ sở thích ứng với điều kiện, khả năng và nhu cầu phát triển của xã hội
mới; đang tạo ra một bức tranh đa dạng của các hệ thống giáo dục thế giới nhưng
vẫn có sự thống nhất về xu thế vận động và phát triển, đó là: phổ cập hóa giáo dục,
quốc tế hóa giáo dục...; đồng thời tạo ra sức ép cho hệ thống giáo dục phải có sự
thay đổi trong đào tạo – bồi dưỡng và cung cấp cho xã hội những con người có khả
năng: làm việc theo nhóm, làm công dân, làm lãnh đạo, năng động và sáng tạo...
phù hợp với nhu cầu của xã hội hiện đại.
Cán bộ quản lý giáo dục có vai trò là người điều hành một hệ thống lớn và
phức tạp, đồng thời thực thi các chính sách giáo dục đa dạng và mềm dẻo để giải
quyết một cách chủ động và sáng tạo các vấn đề mới nảy sinh như: phân cấp quản
lý, trách nhiệm xã hội, huy động nguồn lực, dân chủ hóa giáo dục, tin học hóa quản
lý... Cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo thực hiện
thành công chính sách giáo dục và nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục. Vai trò
của cán bộ quản lý giáo dục thay đổi một cách căn bản:
- Nếu mục tiêu trước đây của cán bộ quản lý giáo dục trước đây hướng tới ổn
định và trật tự thì cán bộ quản lý giáo dục ngày nay hướng tới đổi mới và phát
triển.
8
- Cán bộ quản lý giáo dục trước đây quản lý bằng mệnh lệnh; còn cán bộ
quản lý giáo dục ngày nay phải đóng vai trò nhà chính trị để tạo sự đồng thuận
trong đội ngũ và tổ chức.
- Cán bộ quản lý giáo dục trước đây không biết đến sức ép tài chính, còn Cán
bộ quản lý giáo ngày nay có vai trò như một doanh nhân…
- Cán bộ quản lý giáo dục của cơ quan giáo dục trước đây thường chỉ huy, ra
mệnh lệnh và kiểm soát thì ngày nay cần hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ, tạo điều kiện.
- Cán bộ quản lý giáo cấp trường trước đây: thực hiện mệnh lệnh cấp trên
trên mọi lĩnh vực: chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính thì ngày nay: quyết
định, tổ chức thực hiện, minh bạch hóa các hoạt động chuyên môn, tổ chức, nhân
sự và kĩ năng chủ yếu của họ là giải quyết vấn đề..
Tất cả những thay đổi trên đòi hỏi cán bộ quản lý giáo phải được chuẩn bị
chu đáo và thường xuyên về chuyên môn – nghiệp vụ quản lí chủ yếu thông qua
đào tạo – bồi dưỡng. CBQLGD phải được trang bị những kiến thức về lí luận quản
lý hiện đại, nghiệp vụ quản lý thiết thực mang tính chuyên nghiệp, đặc biệt cần có
các kĩ năng quản lý của thế kỷ XXI: kĩ năng giao tiếp và liên nhân cách; định
hướng đạo đức và trí tuệ; kĩ năng quản lý sự thay đổi; khả năng khơi dậy và nuôi
dưỡng động lực; có tầm nhìn chiến lược, kĩ năng phân tích và giải quyết vấn đề; kĩ
năng xây dựng tư duy toàn cầu; dám nghĩ, dám làm; nhạy bén với các xu thế thị
trường; sử dựng công nghệ thông tin, có năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực đối
ngoại... để trở thành nhà quản lý đủ bản lĩnh biến chủ trương, chính sách thành hiện
thực, trở thành nhà quản lý trong sạch và thạo việc, việc thực hiện đúng chức trách
một cách chuyên nghiệp, hoạt động theo nguyên tắc minh bạch và hiệu quả.
4. Một số yêu cầu năng lực của cán bộ quản lý trường học trong bối
cảnh hiện nay
Để đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của nền giáo dục hiện đại trong bối cảnh hiện
nay, người cán bộ quản lý trường học có nhiệm vụ: định hướng, dẫn dắt sự phát
triển, đặc biệt quan tâm tới việc phát triển đội ngũ giáo viên sáng tạo; điều hành,
phối kết hợp thúc đẩy, lôi cuốn các nguồn lực của nhà trường hoạt động hiệu quả;
kết nối nhà trường với xã hội, với cộng đồng. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ ấy,
người CBQL nhà trường, đặc biệt là người đứng đầu/hiệu trưởng nhà trường cần
phát triển cho mình hệ thống năng lực tương ứng. Đó là nhóm năng lực: Năng lực
chuyên môn, sư phạm; năng lực quản lý, điều hành; năng lực lãnh đạo trong nhà
trường. Với đặc điểm bối cảnh cuộc cách mạng 4.0, người CBQL trường học, nhất
là hiệu trưởng cần đặc biệt lưu tâm và tự bồi dưỡng một số năng lực thành phần
sau:
9
- Phải có tầm nhìn xây dựng chiến lược, chính sách giáo dục: Người
CBQL cần phải được trang bị về kiến thức, kỹ năng và thái độ để xác định vị trí,
vai trò, tầm nhìn, sứ mệnh của giáo dục và của cơ sở giáo dục, từ đó có thể xây
dựng được các chiến lược, chính sách phát triển nhà trường/cơ sở giáo dục.
- Phải có năng lực quản lý nguồn nhân lực giáo dục: CBQL cần phải thay
đổi trong tư duy về vai trò và nội dung của các chính sách phát triển và quản lý
nguồn nhân lực giáo dục và cơ sở giáo dục.Vấn đề đặt ra cho CBQL là biết vận
dụng lí luận, cơ sở pháp lí để triển khai các nội dung quản lý nguồn nhân lực ở cơ
sở mình từ tuyển dụng, bố trí công việc, phân công nhiệm vụ, đánh giá, khen
thưởng, kỷ luật, chính sách đãi ngộ...
- Năng lực chuyên môn thể hiện ở: Khả năng phân tích và giải quyết các vấn
đề tình huống, phát hiện thách thức, cơ hội, nguy cơ, đề xuất các giải pháp tận dụng
cơ hội và tập trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề xung yếu, đột phá của hệ
thống hoặc tổ chức; khả năng xác định đúng phương hướng phát triển hệ thống
hoặc tổ chức. Phải có năng lực đổi mới tư duy; năng lực thích ứng hòa nhập và hội
nhập; năng lực hợp tác; năng lực kiểm tra đánh giá; nắm vững luật giáo dục và hiểu
biết pháp luật có liên quan; có kỹ năng phân tích tổng hợp; có lòng nhân ái, tính
trung thực và khiêm tốn, có tác phong công nghiệp; có tính quyết đoán; biết ứng
dụng ngoại ngữ, tin học giúp cho việc quản lý.
- Năng lực thích ứng với thay đổi: Năng lực thích ứng với thay đổi là khả
năng phản ứng và điều chỉnh để thích nghi với thay đổi môi trường xã hội, môi
trường giáo dục, môi trường kinh tế, văn hóa mà họ đang tồn tại. Đó là năng lực
hành động thay đổi, điều chỉnh chiến lược tư duy và hành động đáp ứng những thay
đổi của hoàn cảnh dựa trên kiến thức có liên quan. Năng lực thích ứng của người
CBQL nhà trường bao gồm năng lực tạo ra sự thức tỉnh trong nhà trường (tạo tâm
lý sẵn sàng thay đổi), năng lực thực hiện sự thay đổi, năng lực xây dựng văn hóa
chấp nhận sự thay đổi trong nhà trường [8].
- Năng lực sáng tạo: Sáng tạo về bản chất là hoạt động tạo ra cái mới và
khác biệt bởi vì sản phẩm mới đươc tạo ra là độc đáo và có giá trị. Năng lực sáng
tạo là thuộc tính nhân cách, là khả năng hành động tạo ra kết quả là cái mới, cái
vượt trội, cái giá trị. Thành phần của năng lực sáng tạo gồm: (1) trí tưởng tượng,
(2) khả năng thích nghi và ứng biến, (3) tò mò, linh hoạt và có thể nhìn nhận sự
viêc một cách đa dạng.
Năng lực sáng tạo là năng lực cần thiết giúp CBQL đối mặt và giải quyết các
tình huống nảy sinh để làm tốt nhiệm vụ và chức năng của mình. Với chức năng
quản lý trường học sáng tạo, người CBQL, đặc biệt là hiệu trưởng phải có năng lực
10
sáng tạo để nhận thức sáng tạo và đối tượng sáng tạo, tạo ra các ý tưởng sáng tạo
trong hoạt động quản lý, quyết định sáng tạo trong điều hành và định hướng phát
triển nhà trường.
- Năng lực định hướng, điều chỉnh và phối hợp các nguồn lực sáng tạo
trong nhà trường: Năng lực định hướng đòi hỏi CBQL có tầm nhìn, hoạch định
được chiến lược phát triển trong nhà trường trong từng giai đoạn; xây dựng những
kỳ vọng và niềm tin cho giáo viên, cho người học; tạo dựng được sự đồng lòng,
nhất trí, cam kết và tự nguyện của các lực lượng giáo dục trong trường cùng phấn
đấu mục tiêu chung. Năng lực điều hành và phối kết hợp các nguồn lực sáng tạo
đòi hỏi CBQL phải am hiểu chuyên môn, am hiểu về mặt sư phạm của nhà trường
để cố vấn cho giáo viên và tập thể sư phạm trong quá trình giáo dục và dạy học
sáng tạo; am hiểu về công tác quản lý nhân sự, quản lý tài chính và quản lý các mặt
khác trong nhà trường; hiểu biết và làm chủ ứng dụng công nghệ tiên tiến trong
giáo dục nhà trường; nắm vững chức năng, nhiệm vụ, đánh giá đúng mức trình độ
phát triển, khả năng thực có để phân chia công việc, giao việc, ra quyết định hiệu
quả; có chiến lược đào tạo và huấn luyện giáo viên sáng tạo; có phương thức tiếp
nhận và xử lý thông tin sáng tạo, phù hợp; tin tưởng và trao quyền cho giáo viên và
các lực lượng giáo dục trong nhà trường. Đánh giá khách quan và khuyến khích
việc tạo ý tưởng và hành động sáng tạo; xây dựng cơ chế làm việc sáng tạo và
khuyến khích sáng tạo; phát triển kỹ năng công nghệ, hợp tác...
- Năng lực xây dựng môi trường trường học đoàn kết, sáng tạo: môi
trường đoàn kết, sáng tạo là tất yếu để nuôi dưỡng, phát triển và thực hiện mục tiêu
giáo dục của nhà trường, là tất yếu để khuyến khích sự cống hiến và giữ chân người
tài năng. Năng lực xây dựng môi trường học đường đoàn kết, sáng tạo thể hiện
người CBQL làm được mấy việc sau: (1) Xây dựng chính sách, cơ chế và tạo bầu
không khí tích cực trong nhà trường, (2) Phát triển nghiên cứu khoa học và ứng
dụng khoa học trong nhà trường, đặc biệt là phong trào nghiên cứu khoa học sư
phạm ứng dụng cho giáo viên, cán bộ quản lý và nghiên cứu khám phá cho học
sinh, (3) Huy động sự hỗ trợ các nguồn lực (tài lực, tin lực, vật lực...), từ cha mẹ
học sinh, từ cộng đồng xã hội, doanh nghiệp... để tạo những điều kiện tốt nhất đầu
tư cho hoạt động dạy và học sáng tạo, (4) kết nối chặt chẽ giữa nhà trường với các
cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, các tổ chức văn hóa – xã hội... trên địa bàn để tổ
chức các hoạt động giao lưu, học hỏi, hoạt động trải nghiệm.
Để hình thành và phát triển những năng lực quản lý trên, đòi hỏi người
CBQL nhà trường phải không ngừng học tập và được bồi dưỡng để nâng cao trình
độ chuyên môn, năng lực quản lý, nắm bắt được sự biến đổi liên tục của thời đại
11
mới, từ đó có phương pháp, cách thức quản lý cơ sở mình một cách tốt nhất, đạt
hiệu quả cao nhất. Bên cạnh việc tự học, tự nghiên cứu, tự tìm tòi thì còn cần phải
được thường xuyên tham gia các hoạt động bồi dưỡng.
5. Thực trạng công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý trường học
hiện nay
Hiện nay, ở nước ta có nhiều cơ sở đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo
dục theo chức năng nhiệm vụ được giao. Trong nhiều năm qua, hoạt động bồi
dưỡng cho đội ngũ CBQL nhà trường đã được được nhiều kết quả quan trọng, góp
phần nâng cao chất lượng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho
CBQL. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQL cũng thường xuyên có sự thay đổi, cập
nhật nội dung, chương trình bồi dưỡng; Phương pháp giảng dạy cũng có sự linh
hoạt và đa dạng hơn. Trong mỗi khóa bồi dưỡng, học viên được tham gia các
chuyến thực tế xuống cơ sở để tìm hiểu tình hình thực tế tại các địa phương. Kết
thúc khóa học, hầu hết học viên đều đánh giá khá cao các chuyên đề bồi dưỡng
cũng như chất lượng giảng dạy của học viên.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác này nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế:
- Về nội dung, chương trình: Chương trình bồi dưỡng cán bộ QLGD được
ban hành theo Quyết định 382/QĐ-BGDĐT ngày 02/01/2012 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình, đổi mới còn chậm và chưa chú trọng
khảo sát tìm hiểu mong muốn của người học. Việc bồi dưỡng theo kiểu đồng loạt
với nội dung cho tất cả các học viên; thiếu sự khảo sát trình độ và nhu cầu để tổ
chức lớp học phân hóa theo năng lực, nguyện vọng người học đã làm giảm hiệu quả
của quá trình bồi dưỡng.
- Về phương pháp bồi dưỡng: Hiện nay, phương pháp bồi dưỡng chủ yếu là
thuyết trình kết hợp một số nội dung thảo luận nhóm. Có một số nội dung người
học được thực hành, tuy nhiên nội dung này chưa nhiều, chưa có sự gắn kết nhiều
giữa nội dung lý thuyết vào thực hành hoặc những tình huống cụ thể.
- Về phương pháp bồi dưỡng chủ yếu là tập trung tại chỗ. Học viên bắt buộc
phải có mặt trên lớp để tiếp cận bài học dẫn đến khó khăn cho nhiều học viên trong
việc đi lại hoặc giải quyết những công việc thuộc nhiệm vụ được phân công tại cơ
sở.
- Về kiểm tra, đánh giá người học còn mang tính hình thức, nhiều khi chưa
phản ánh đúng chất lượng học tập.
Những hạn chế này ảnh hưởng lớn đến chất lượng các khóa bồi dưỡng cho
CBQL nhà trường, tác động không nhỏ đến hiệu quả quản lý của họ cũng như chất
12
lượng hoạt động giáo dục nói chung. Nâng cao chất lượng dạy học cho các khóa
bồi dưỡng, đảm bảo phù hợp với yêu cầu thời đại mới trở thành vấn đề trọng tâm,
cấp thiết của ngành giáo dục nói chung, của các cơ sở bồi dưỡng nói riêng, đặc biệt
là trong CMCN 4.0 hiện nay.
6. Đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
Từ việc nắm được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng CBQL, các cơ sở đào tạo bồi
dưỡng có thể xây dựng được kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về công tác bồi dưỡng đáp
ứng nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
Các cơ sở bồi dưỡng cán bộ QLGD phải chú ý lập kế hoạch tốt trong nhiều nội
dung như khảo sát nhu cầu các địa phương, phương thức tuyển sinh, thời gian và
địa điểm mở lớp, tài chính, nhân sự phục vụ lớp học. Đặc biệt cần tăng cường công
tác thông tin, quảng cáo, giới thiệu các hình thức, địa điểm và thời gian học linh
hoạt cho từng đối tượng học viên.
- Xây dựng và phát triển nội dung chương trình
Chương trình bồi dưỡng cần được thiết kế dựa vào yêu cầu, tiêu chuẩn của
CBQL các cấp trường và nhu cầu của họ để đáp ứng công việc được giao trước yêu
cầu đổi mới giáo dục. Để chương trình có nội dung thiết thực, nâng cao được năng
lực của CBQL sau khóa học cần xuất phát từ chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ gắn
với yêu cầu tác nghiệp và bối cảnh xã hội để xây dựng chương trình.
Nội dung chương trình phải theo hướng phục vụ người học và tăng cường
tính chủ động, sáng tạo của người học. Khung chương trình thiết kế theo hướng
mở, đòi hỏi được nâng cấp, phát triển và cải tiến liên tục sau mỗi khóa bồi dưỡng.
Phát triển chương trình bồi dưỡng CBQL cần theo hướng cập nhật các vấn đề
mới về quản trị trường học, tham khảo các chương trình bồi dưỡng CBQL tiên tiến
trên thế giới. Và cần bồi dưỡng tất cả các năng lực cho CBQL nhưng cần chú trọng
hơn đến năng lực mang tính thời đại như: ngoại ngữ, tin học, triển khai chương
trình sách giáo khoa mới...
- Xây dựng và lựa chọn bộ máy tham gia hoạt động bồi dưỡng
Lựa chọn đội ngũ giảng viên phải đảm bảo đạt chuẩn trình độ đào tạo, vừa có
đức, vừa có tài, có năng lực tìm hiểu học viên, đặc biệt họ phải là người tích cực
đổi mới, sáng tạo, đi đầu trong việc ứng dụng những thành tựu của công nghệ hiện
đại vào giảng dạy.
- Đổi mới phong pháp và hình thức bồi dưỡng
13
Lớp bồi dưỡng nên được mở theo cùng một đối tượng và nên chỉ có từ 30
đến 40 học viên, nhằm tạo điều kiện cho các giảng viên có điều kiện sử dụng những
phương pháp dạy học tích cực, học viên có cơ hội được trao đổi, chia sẻ, nâng cao
chất lượng bồi dưỡng.
Phương pháp bồi dưỡng phải đa dạng: thuyết trình, minh họa, thảo luận
nhóm, thực hành, đóng vai, giải quyết tình huống..... Trong quá trình bồi dưỡng cần
dành nhiều thời gian cho việc trao đổi, giải đáp thắc mắc và thực hành đổi mới
phương pháp dạy học như: tổ chức học viên thực hành tình huống quản lý, chia sẻ
bài học kinh nghiệm...
Bước đầu thực hiện và phát triển hình thức bồi dưỡng trực tuyến, vừa tận
dụng được thành tựu khoa học hiện đại, vừa giải quyết những khó khăn của học
viên về thời gian, đi lại, giải quyết công việc...
Phương hướng đổi mới công tác bồi dưỡng là phải coi trọng quá trình tự học,
tự bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng thông qua công việc hàng ngày của đội ngũ CBQL
nhà trường. Do đó bản thân CBQL phải ý thức rõ điều này và không ngừng cố
gắng, nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao năng lực, hoàn thành tốt các công
việc và nhiệm vụ được giao.
- Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để nâng cao
hiệu quả bồi dưỡng
Thời đại CMCN 4.0, việc học tập không chỉ trên lớp mà phải học mọi nơi,
mọi lúc; học qua trải nghiệm, nghiên cứu khoa học. Việc sử dụng công nghệ thông
tin và truyền thông là một trong những biện pháp nhanh chóng và hữu hiệu nhất để
giúp chúng ta đạt được yêu cầu này. Công nghệ thông tin và truyền thông có vai trò
hết sức quan trọng, là yếu tố không thể thiếu được trong thời đại ngày nay. Áp dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong công tác bồi dưỡng sẽ giúp giảng viên
đổi mới phương pháp dạy, học viên đổi mới phương pháp học với nhiều hình thức
phong phú.
- Đổi mới kiểm tra – đánh giá hoạt động bồi dưỡng
Kiểm tra – đánh giá là một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo cho
công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng thành công. Qua đánh giá kết quả bồi dưỡng
nhà QLGD sẽ kịp thời phát hiện những vướng mắc, tồn đọng trong việc xây dựng
chuẩn đầu ra, thiết kế chương trình, phương thức bồi dưỡng... kịp thời điều chỉnh,
bổ sung và đưa ra những giải pháp phù hợp cho các lần bồi dưỡng sau. Đặc biệt
trong đánh giá CBQL nhà trường không chỉ đánh giá qua những bài viết luận đơn
14
thuần mà còn có thể đánh giá kết quả thông qua thực hiện các dự án thực tế tại cơ
sở giáo dục của họ.
Ngoài ra, việc thu thập thông tin phản hồi trước và sau bồi dưỡng cũng là
hoạt động có ý nghĩa quan trọng và thiết thực giúp nâng cao chất lượng bồi dưỡng.
III. Liên hệ thực tiễn công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục hiện
nay tại trường Cao đẳng Sư phạm Cao Bằng
1. Thực trạng công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục
Một trong những chức năng của Trường Cao đẳng Sư phạm Cao Bằng là Bồi
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục cho các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ
sở trong tỉnh Cao Bằng, chức năng này do Khoa Bồi dưỡng trực tiếp thực hiện theo
chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Hiện nay nhà trường thực hiện công tác bồi dưỡng CBQLGD mỗi năm học
là 02 khóa, các khóa học được mở lần lượt cho đối tượng CBQLGD từ cấp Mầm
non, Tiểu học, Trung học cơ sở. Hình thức tuyển sinh: nhà trường gửi thông báo tới
các phòng giáo dục nêu rõ khóa bồi dưỡng CBQL cấp nào; Phòng Giáo dục các
huyện gửi cử cán bộ quản lý theo đúng đối tượng tham gia bồi dưỡng.
- Chương trình, nội dung, hình thức giảng dạy: Được thực hiện theo tài liệu
Bồi dưỡng của nhà trường biên soạn năm 2013 dựa trên chương trình quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, tuy nhiên đến hiện nay tài liệu chưa được cập nhật, điều
chỉnh, bổ sung những nội dung, quy định, văn bản mới.
- Số lượng giảng viên của khoa Bồi dưỡng hiện nay có: 05 giảng viên cơ hữu
và 07 giảng viên là lãnh đạo trường, lãnh đạo một số đơn vị trong trường tham gia
giảng dạy bồi dưỡng.
Đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy có trình độ đạt chuẩn, nhiệt tình, có
trách nhiệm cao trong giảng dạy, phát huy những kinh nghiệm chuyên môn, kinh
nghiệm quản lý của mình góp phần nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng của
nhà trường.
- Từ khi thành lập Trường Cao đẳng Sư phạm Cao Bằng (năm 2000) đến
năm 2018, Trường đã mở được 31 khóa Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý giáo dục cho
1300 cán bộ quản lý các trường các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở
trong tỉnh. (Bảng cụ thể sau)
15
Bồi dưỡng
TT
Năm học
Khóa học
CBQLGD trường
Mầm
non
16
Tiểu học
THCS
Tổng số
H/v
1
2000 - 2001
Khóa 9
0
0
41
41
2
2001 - 2002
Khóa 10
0
0
31
31
3
2002 - 2003
Khóa 11, 12
41
35
0
76
4
2003 - 2004
Khóa 13, 14
0
38
26
64
5
2004- 2005
Khóa 15
0
42
0
42
6
2005 - 2006
Khóa 16
0
37
0
37
7
2006- 2007
Khoa 17, 18
0
25
35
60
8
2007 - 2008
Khóa 19, 20
41
27
0
68
9
2008 - 2009
Khóa 21, 22
0
46
39
85
10
2009- 2010
Khóa 23, 24
44
24
0
68
11
2010 - 2011
Khóa 25, 26
0
45
61
106
12
2011- 2012
Khóa 27, 28
36
56
0
92
13
2012 - 2013
Khóa 29, 30
50
0
41
91
14
2013 - 2014
Khóa 31, 32
0
43
46
89
15
2014 - 2015
Khóa 33, 34
38
52
0
90
16
2015 - 2016
Khóa 35, 36
49
0
43
92
17
2016 - 2017
Khóa 37, 38
0
40
32
72
18
2017 - 2018
Khóa 39, 40
53
43
0
96
Tổng cộng:
32 khóa
352
553
395
1300
- Các học viên là những cán bộ quản lý, cán bộ trong nguồn quy hoạch các
trường sau khi học xong khóa học đã đạt được những mục tiêu theo yêu cầu, hình
thành được những kiến thức, kỹ năng quản lý vận dụng có hiệu quả trong hoạt động
quản lý tại đơn vị mình.
2. Những hạn chế trong công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bồi dưỡng quản lý giáo dục của
Trường Cao đẳng Sư phạm Cao Bằng còn tồn tại một số hạn chế:
- Chương trình, tài liệu, phương pháp bồi dưỡng CBQLGD còn chậm đổi
mới, chưa xuất phát từ nhu cầu của cán bộ quản lý, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi
mới QLGD đang diễn ra ở các địa phương.
17
- Các giảng viên chưa kịp thời trong việc cập nhật những kiến thức về lí luận
quản lý giáo dục mới, hiện đại, việc gắn lý luận với giáo dục từng địa phương còn
hạn chế. Việc bồi dưỡng giảng viên làm nhiệm vụ bồi dưỡng chưa được quan tâm
thường xuyên, đúng mức.
- Thiếu sự phối hợp của nhà trường với địa phương trong việc xác định nhu
cầu đào tạo, bồi dưỡng QLGD một cách cụ thể.
- Nội dung, hình thức bồi dưỡng chưa chú trọng đến phương pháp thực hành,
chưa gắn lí luận với việc giải quyết vấn đề, tình huống cụ thể.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá chủ yếu qua những bài kiểm tra lí luận,
chưa đánh giá được khả năng vận dụng năng lực quản lý vào những vấn đề, những
tình huống thực tế.
3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng CBQLGD
trường MN, TH, THCS tại tỉnh Cao Bằng
Từ những đòi hỏi, nhu cầu thực tiễn hiện nay, để nâng cao chất lượng trong
công tác bồi dưỡng CBQLGD cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau đây:
- Chủ động đổi mới, chuẩn bị những điều kiện tốt nhất (tài liệu, đội ngũ
giảng dạy, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học…) để thực hiện công tác Bồi dưỡng theo
hướng dẫn của Bộ Giáo dục và đào tạo. Đặc biệt chuẩn bị cho việc triển khai thực
hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên cán bộ quản lý các trường (Thông tư số
26/TT-BGDĐT và Thông tư số 27/TT-BGDĐT của Bộ giáo dục và Đào tạo về bồi
dưỡng thường xuyên cán bộ quản lý trường Tiểu học, trường THCS, THPT và
trường THPT có nhiều cấp học)
- Xác định nhu cầu bồi dưỡng CBQLGD của các cơ sở giáo dục trong toàn
tỉnh về số lượng bồi dưỡng, nội dung bồi dưỡng; khảo sát nhu cầu, nguyện vọng
của cá nhân CBQLvề khóa học, phù hợp với tình hình thực tế đơn vị, địa phương
của học.
- Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên thực hiện hoạt động bồi
dưỡng.
- Xây dựng cơ chế hỗ trợ, phối hợp giữa Trường Cao đẳng Sư phạm Cao
Bằng với các cấp quản lý trong công tác bồi dưỡng CBQLGD;
- Xây dựng phương thức kiểm tra, đánh giá học viên phù hợp, hiệu quả.
- Bổ sung các điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị cần thiết cho công tác bồi
dưỡng CBQLGD.
Kết luận
18
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay, đội cán bộ quản lý giáo
dục có vai trò quan trọng, quyết định đến chất lượng giáo dục. Hoạt động bồi
dưỡng nâng cao năng lực phẩm chất đội ngũ cán bộ quản lý là một yêu cầu cấp
thiết, mang tính thời sự. Đổi mới hoạt động bồi dưỡng cần phải chú trọng về nội
dung, hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá, đặc biệt việc sử dụng công nghệ
thông tin và truyền thông để tiện ích hóa, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng cũng như
huy động các nguồn lực phục vụ bồi dưỡng, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động
bồi dưỡng, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL nhà trường./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày
4/11/2013 của về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
2.
Nguyễn Phúc Châu (2010), Quản lý nhà trường, NXB Đại học Sư phạm.
3.
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh (2015), Giáo trình khoa học Quản lý giáo dục, NXB
Giáo dục Việt Nam.
4.
Đặng Xuân Hải (chủ biên) (2016), Năng lực thích ứng của cán bộ quản lý
nhà trường trong bối cảnh đổi mới giáo dục, NXB Giáo dục Việt Nam
5.
Nguyễn Duy Hưng (2013), Quản lý chất lượng bồi dưỡng cán bộ quản lý
giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, Luận án tiến sĩ quản lý
giáo dục.
6.
Học viện Quản lý giáo dục, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế “Phát triển
năng lực cán bộ quản lý giáo dục Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0, năm 2017.
7.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục
19
8.
Nguyễn Thành Vinh (2012), Khoa học quản lý đại cương, NXB Giáo dục
Việt Nam.
20