Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

sang kien phat huy tinh tich cuc cua hoc sinh thong qua su dung bang tuong tac thong minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 58 trang )

PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHÃ VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Truông Mít, ngày 26 tháng 02 năm 2018
BÁO CÁO
TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:

“Phát huy tính tích cực của học sinh bằng phƣơng pháp dạy học khám phá đối với
bộ môn sinh học lớp 11C8, trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình, thông qua sử dụng
bảng tƣơng tác thông minh”
- Tên cá nhân thực hiện: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH, giáo viên giảng dạy bộ môn Sinh học,
Trường THPT Nguyễn Thái Bình.
- Thời gian đã được triển khai thực hiện: Từ ngày: 07/8/2017 đến ngày: 29 / 01 / 2018
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
Đổi mới PPDH là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục nói
chung cũng như cải cách giáo dục cấp THPT. Trong một vài năm gần đây, các trường THPT
đã có những cố gắng trong việc đổi mới PPDH và đã đạt được những tiến bộ trong việc phát
huy tính tích cực của HS. Tuy nhiên, các PPDH truyền thống, đặc biệt là thuyết trình vẫn
chiếm một vị trí đáng kể trong các PPDH ở các trường THPT nói chung dẫn đến hạn chế việc
phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. Để lựa chọn sử dụng các PPDH hiện đại
thực sự là những PPDH phát triển năng lực HS là một vấn đề đáng quan tâm bậc nhất của
những người làm công tác giáo dục. Một trong những PPDH có thể phát triển năng lực người
học là phương pháp DHKP. Để khai thác hiệu quả phương pháp DHKP thì sự hỗ trợ của
CNTT trong thiết kế bài giảng và tổ chức các hoạt động học tập là sự lựa chọn hợp lí.
Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông đang
từng bước được tăng cường. Việc ứng dụng CNTT vào dạy học là một bước tiến quan trọng,
trong đó, phần mềm Microsoft PowerPoint được triển khai sử dụng rộng rãi đã khá lâu. Bài
giảng thiết kế trên Microsoft PowerPoint sinh động và thu hút được sự chú ý của HS. Tuy
nhiên, phần mềm này có nhược điểm là không có được sự tương tác giữa HS, GV và bài giảng.
Nội dung bài học được xây dựng mang tính chất trình chiếu, chính vì vậy, trong thời gian qua


có nhiều phần mềm được tạo ra để khắc phục hạn chế đó, và một trong những phần mềm đó
chính là ActivInspire để thiết kế bài giảng sử dụng cho bảng tương tác thông minh.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

1


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
ActivInspire là nền tảng cho bất kỳ hoạt động học tập nào của thế kỷ 21, được thiết kế để sử
dụng trong lớp học, nó cho phép GV giảng bài trên bảng tương tác, HS thực hiện nhiệm vụ học
tập trên bảng tương tác. Nhờ sự hỗ trợ của phương tiện công nghệ, GV có thể giao các nhiệm
vụ tự học, giám sát, hỗ trợ quá trình thực thi yêu cầu tự học, kiểm tra, đánh giá kết quả tự học
một cách chính xác. Tuy nhiên, kho bài giảng tham khảo ứng dụng phần mềm rất hạn chế.
Việc sử dụng thành thạo phần mềm này còn khá xa lạ đối với GV bậc THPT. Đây là một khó
khăn lớn về kiến thức công nghệ cũng như về trang thiết bị - số lượng bảng tương tác thông
minh được cấp cho mỗi trường phổ thông chỉ từ 1-2 sản phẩm, và khó khăn nữa là về thời gian
soạn giảng. Chính vì thế, việc thiết kế bài giảng sử dụng kết hợp hai phần mềm: Microsoft
PowerPoint và ActivInspire để tổ chức các hoạt động học tập sử dụng trên bảng tương tác là
một phương án khả thi hơn. Người dùng có thể tận dụng kho bài giảng ứng dụng Microsoft
PowerPoint rất phong phú trước đây, cải tiến lại cho phù hợp với việc ứng dụng các công cụ
của phân mềm ActivInspire là có thể sử dụng bài giảng trên bảng tương tác một cách khá hiệu
quả. Việc này giúp cho sự tổ chức các hoạt động học tập của HS trở nên sinh động, hấp dẫn
hơn, phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo, kích thích được sự tò mò, niềm đam
mê công nghệ, lôi kéo được sự tập trung của HS qua đó nâng cao chất lượng dạy học.
2. Mô tả sáng kiến:
DHKP (Discovery learning) là một trong những phương pháp dạy học tích cực được
nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu. DHKP là GV tổ chức HS học theo
nhóm hoặc từng cá nhân độc lập nhằm phát huy năng lực giải quyết vấn đề và tự học cho HS.
Trong DHKP đòi hỏi người GV gia công rất nhiều để chỉ đạo các hoạt động nhận thức của HS.
Hoạt động của người thầy bao gồm: định hướng phát triển tư duy cho HS, lựa chọn nội dung

của vấn đề và đảm bảo tính vừa sức với HS; tổ chức HS trao đổi theo nhóm trên lớp; các
phương tiện trực quan hỗ trợ cần thiết… Hoạt động chỉ đạo của GV như thế nào để cho mọi
thành viên trong các nhóm đều trao đổi, tranh luận tích cực. Ðó là việc làm không dễ dàng, đòi
hỏi người GV đầu tư công phu vào nội dung bài giảng.
Trong DHKP, HS tiếp thu các tri thức khoa học thông qua con đường nhận thức: từ tri
thức của bản thân thông qua hoạt động hợp tác với bạn đã hình thành tri thức có tính chất xã
hội của cộng đồng lớp học; GV kết luận về cuộc đối thoại, đưa ra nội dung của vấn đề, làm cơ
sở cho HS tự kiểm tra, tự điều chỉnh tri thức của bản thân tiếp cận với tri thức khoa học của
nhân loại. HS có khả năng tự điều chỉnh nhận thức góp phần tăng cường tính mềm dẻo trong tư
duy, năng lực tự học và năng lực giải quyết vấn đề. Ðó chính là nhân tố quyết định sự phát
triển bản thân người học.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

2


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
Trong những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT vào việc giảng dạy không còn quá mới
mẻ. Các ứng dụng tin học đã trở nên quá quen thuộc và phổ biến trong đời sống hàng ngày.
Hơn thế nữa, trong việc giảng dạy, ứng dụng công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Một
phần mềm tin học rất quen thuộc trong việc giảng dạy chính là Microsoft Power Point. Ứng
dụng này sử dụng rộng rãi cho cả GV và HS. Các trình bày trên nền tảng Microsoft Power
Point dễ dàng tạo ra sản phẩm, chỉnh sửa và sử dụng chúng. Nó là một tài sản vô giá và dễ
dàng, thuận tiện trong môi trường lớp học. Một trình bày hay có thể lưu trữ lại, chia sẻ, thay
đổi và chỉnh sửa trong nhiều năm. Nó là ứng dụng trình bày nổi tiếng và có mặt trong hầu như
các hội nghị, diễn đàn và dĩ nhiên, trong các lớp học. Tính phổ biến của nó là do phần mềm
này rất dễ học, sử dụng dễ dàng và ứng dụng rộng rãi. Nó cho phép đưa vào phần trình bày
không chỉ ngôn ngữ mà còn có hình ảnh, âm thanh và các chuyển động. Với đặc tính đó, nó tác
động đến người học tốt hơn trình bày trên bảng và phù hợp với sự đa dạng của người học.
Trong việc giảng dạy, ứng dụng Microsoft Power Point ngoài việc dùng cho GV trong công

tác soạn giảng còn cho phép người học tự trình bày ý kiến của mình theo hình thức trực quan,
sinh động nhất. Nó cung cấp các tiện ích cho người sử dụng như tăng các hiệu ứng hình ảnh,
âm thanh trực quan sinh động, tăng sự tập trung của người nghe ( người học), tổng hợp, trình
bày khoa học và tăng hiệu quả bài giảng. Nó cung cấp các khung mẫu, slides, hình ảnh, âm
thanh, hiệu ứng, ghi chú….GV soạn giảng trên phần mềm Microsoft Power Point thì bài giảng
sinh động hơn, hấp dẫn, lôi cuốn HS hơn. Thông qua các hiệu ứng trình diễn của Microsoft
Power Point, GV có thể thiết kế các hoạt động học tập tích cực cho HS như: phim động, trò
chơi ô chữ, làm bài tập trắc nghiệm, phân tích hình ảnh, sơ đồ,...do đó, việc khắc sâu kiến thức
dễ dàng hơn, hoạt động học tập được tổ chức có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, Microsoft Power Point có một hạn chế là người sử dụng không thể tương tác
trực tiếp như: viết, vẽ, chạm lên các ký tự, hình ảnh, sơ đồ,...trong lúc đang trình bày mà phải
theo một lịch trình có sẵn trong Microsoft Power Point. Do vậy, trong những năm gần đây
việc ứng dụng phần mềm ActivInspire đang được triển khai mở rộng. Phần mềm ActivInspire
là một phần mềm cho phép người dùng thiết kế bài giảng điện tử dựa trên bộ thiết bị bảng
tương tác thông minh. Giúp cho người GV có thể truyền tải bài giảng của mình tới HS nhanh
hơn thông qua việc tương tác đi kèm với nó là các hiệu ứng hình ảnh, âm thanh, clip minh họa
giúp HS hứng thú hơn. Kết hợp với phần mềm ActivInspire là các thiết bị của bộ thiết bị bảng
tương tác thông minh sẽ giúp cho bài giảng điện tử sinh động, trực quan hơn. ActivInspire
được đánh giá là một trong những phần mềm thiết kế bài giảng tương tác tốt nhất hiện nay.
Ngoài ra, ActivInspire có thể kết hợp và hỗ trợ tốt cho các phần mềm dạy học hiện nay
đang sử dụng trong các lớp học thông thường. Phần mềm ActivInspire có nhiều tính năng hay,
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

3


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
giúp GV chủ động và linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy, giúp tạo thêm nhiều hoạt động
cho HS một cách dễ dàng, làm khơi dậy niềm đam mê và sáng tạo cho GV và HS.
Với những tiện ích trên thì phần mềm ActivInspire sẽ đóng vai trò then chốt trong việc

ứng dụng công nghệ vào việc đổi mới PPDH hiện nay. Tuy nhiên, phần mềm ActivInspire còn
khá mới đối với GV bậc THPT, đặc biệt là các GV vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa, kho tài liệu
bài giảng tham khảo sử dụng phần mềm ActivInspire còn khá hạn chế, thậm chí là rất hiếm hoi
so với kho tài liệu bài giảng ứng dụng phần mềm Microsoft Power Point. Thêm vào đó, trường
học được trang bị không nhiều màn hình tương tác, chỉ khoảng 1 đến 2 màn hình tương tác cho
mỗi trường THPT, trong khi số lượng máy chiếu (projector) thì nhiều hơn gấp 3-4 lần. Do đó,
việc thiết kế hoạt động học tập sử dụng kết hợp hai phần mềm Microsoft Power Point và
ActivInspire trên bảng tương tác thông minh là phương pháp khả quan có thể áp dụng hiệu quả
trong tình hình thực tiễn. Người GV sử dụng kho bài giảng Microsoft Power Point hoặc cải
tiến các bài giảng Microsoft Power Point sao cho phù hợp với việc sử dụng các công cụ
tương tác có sẵn trong phần mềm ActivInspire thông qua hình thức sử dụng “chú giải trên màn
hình”. Qua đó, người dùng có thể tương tác trực tiếp trên các silde của bài giảng Microsoft
Power Point mà chất lượng bài giảng không hề thua kém bài giảng trên phần mềm
ActivInspire. Sự kết hợp này làm cho việc thiết kế các hoạt động học tập trên bảng tương tác
thông minh trong hoạt động dạy – học khá đơn giản, được khai thác tối ưu và không kém phần
hiệu quả. Do đó, góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS và nâng cao hiệu
quả hoạt động dạy - học.
3. Phạm vi triển khai thực hiện:
Sáng kiến “Phát huy tính tích cực của học sinh bằng phƣơng pháp dạy học khám
phá đối với bộ môn Sinh học lớp 11C8, Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình, thông qua sử
dụng bảng tƣơng tác thông minh” được triển khai thực hiện tại trường THPT Nguyễn Thái
Bình. Trong thời gian triển khai thực hiện, người nghiên cứu tiến hành thực nghiệm trên các
lớp được phân công giảng dạy, trong đó đối tượng nghiên cứu được lựa chọn để khảo sát là lớp
11C8, trường THPT Nguyễn Thái Bình, xã Truông Mít, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây
Ninh. Người nghiên cứu tiến hành so sánh kết quả trước khi thực hiện giải pháp và so với kết
quả sau khi thực hiện giải pháp để kết luận hiệu quả của sáng kiến.
4. Kết quả, hiệu quả mang lại:
Sáng kiến bước đầu mang lại nguồn sinh khí mới, phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS, kích thích sự say mê, hứng thú đối với môn học. Các hoạt động học tập
trong phương pháp DHKP được tổ chức sinh động, hấp dẫn, thực tế. Kết quả của hoạt động

dạy- học từng bước được cải thiện. Người dạy rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

4


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
trong quá trình thực hiện sáng kiến; người học ngày càng hoàn thiện các kỹ năng cơ bản để
khai thác kênh hình, kênh chữ, sơ đồ,...từ đó, năng lực tư duy, năng lực tự học và năng lực giải
quyết vấn đề được hình thành và phát triển dần dần.
Cách thiết kế hoạt động học tập trên bảng tương tác do người nghiên cứu đề xuất khá
đơn giản, dễ thực hiện: sử dụng công cụ “ chú giải trên màn hình” của phần mềm ActiveInsipre
thao tác trên bài giảng Microsoft Power Point có sẵn hoặc cải tiến thêm cũng mang lại hiệu
quả rất khả quan.
5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:
Nâng cao năng lực sư phạm, cũng như trình độ ứng dụng CNTT của GV, đồng thời
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. DHKP là PPDH tích cực, dễ áp dụng,
góp phần hình thành năng lực tư duy, năng lực tự học và năng lực giải quyết vấn đề cho người
học. Qua đó, cũng góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới PPDH ở trường phổ thông theo định
hướng phát triển năng lực.
Sáng kiến đưa ra có thể áp dụng được cho nhiều bộ môn, nhiều cấp học, nhiều đơn vị
trường học, nhất là những đơn vị chưa có nhiều trang thiết bị hiện đại. DHKP khi triển khai áp
dụng không quá khó khăn như mọi người hình dung, mà rất đơn giản và hiệu quả. Đặc biệt là
sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi cho những người dùng có trình độ tin học chưa chuyên sâu.
GV có thể tự học cách sử dụng phần mềm và cách thiết kế bài giảng trong thời gian ngắn có
thể khai thác hiệu quả một số tính năng đơn giản của hai phần mềm: Microsoft PowerPoint và
ActiveInsipire sử dụng cho bảng tương tác để phục vụ tốt cho công tác dạy – học.
6. Kiến nghị, đề xuất:
a/ Đối với các cấp lãnh đạo:
Quan tâm tạo điều kiện để xây dựng một môi trường thuận lợi cho việc vận dụng bài

giảng tương tác vào hoạt động dạy – học của GV và HS.
Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất cho trường học góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình dạy học.
Mở các cuộc hội thảo, chuyên đề, các lớp tập huấn về đổi mới PPDH và kiểm tra đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực cho HS để GV nắm được định hướng, đường lối, chính
sách và phương pháp dạy và học mới. Mở các lớp chuyên đề, bồi dưỡng ứng dụng công nghệ
thông tin, khuyến khích và động viên GV ứng dụng CNTT vào hoạt động dạy - học.
b/ Đối với giáo viên:
Tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao hiểu biết về lí luận dạy học, PPDH.
Nâng cao trình độ về CNTT, biết cách khai thác thông tin trên mạng Internet, có kỹ
năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

5


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
Chúng tôi cam đoan những điều khai trên là đúng sự thật và không vi phạm pháp luật.
Ý kiến xác nhận
của Thủ trưởng đơn vị

Ngày

tháng

năm……

Tác giả
(ký tên)


Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

6


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
A. MỞ ĐẦU
1. Tên sáng kiến:
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (hay còn gọi là dạy học định
hướng kết quả đầu ra) ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng
phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. Đổi mới PPDH không có
nghĩa là loại bỏ các PPDH truyền thống mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả
và hạn chế nhược điểm của chúng. Hiện nay, có khá nhiều PPDH mới chú trọng và có ưu thế
phát triển năng lực người học. Có thể kể đến là: dạy học giải quyết vấn đề, dạy học theo dự án
và DHKP, dạy học theo nhóm, dạy học bàn tay nặn bột,....trong nghiên cứu của bản thân, tôi
sử dụng phương pháp DHKP nhằm thực hiện mục tiêu, định hướng giáo dục phát triển năng
lực người học. Phương pháp DHKP là PPDH trong đó, dưới sự hướng dẫn của GV, thông qua
các hoạt động học tập, HS tự tìm tòi, khám phá phát hiện ra tri thức mới. DHKP không phải là
một quá trình tự phát mà có sự hướng dẫn của GV, trong đó, HS đóng vai trò là người phát
hiện tri thức mới, còn GV đóng vai trò là người tổ chức hoạt động học tập. Yếu tố quan trọng
đảm bảo sự thành công của DHKP chính là thiết bị dạy học. Chính vì thế, phương tiện trực
quan hiệu quả nhất cho hoạt động học tập trong giai đoạn hiện nay chính là bảng tương tác
thông minh. Trên bảng tương tác thông minh, GV, HS sẽ tương tác trực tiếp với nội dung học
tập, qua đó chất lượng của hoạt động dạy – học được cải thiện rõ rệt.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, tôi nhận thấy việc sử dụng và khai thác
hiệu quả thiết bị dạy học, đặc biệt là sử dụng và khai thác sáng tạo bảng tương tác thông minh
sẽ mang lại hiệu quả tích cực cho công tác dạy – học trong nhà trường. Xuất phát từ những yêu
cầu trên tôi thực hiện đề tài:“Phát huy tính tích cực của học sinh bằng phƣơng pháp dạy học
khám phá đối với bộ môn Sinh học lớp 11C8, Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình, thông qua
sử dụng bảng tƣơng tác thông minh” nhằm nâng cao hiệu quả học tập của HS.

2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
Đổi mới phương pháp dạy và học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nền giáo
dục hiện nay. Những năm trở lại đây, các trường THPT đặc biệt coi trọng việc đổi mới PPDH.
Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo; chú
trọng bồi dưỡng phát triển năng lực HS, khơi gợi lòng say mê học tập và ý chí vươn lên của
người học. Đổi mới PPDH được triển khai nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu
giáo dục theo hướng phát triển năng lực người học, phát huy trí thông minh, sáng tạo của HS,
khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế,
làm bộc lộ khả năng của HS không phải chỉ trong một giai đoạn giáo dục mà trong cả quá trình
giáo dục. Những yêu cầu trong đào tạo con người ở thời đại hiện nay mâu thuẫn với thực trạng
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

7


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
lạc hậu của phương pháp giáo dục đã tồn tại lâu nay ở nước ta. Mâu thuẫn này đã dẫn đến công
cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để phù hợp với yêu cầu hội nhập nền giáo
dục của thế giới trong thế kỉ XXI.
Tư tưởng cơ bản của đổi mới nội dung, phương pháp dạy học – giáo dục HS là: chuyển
từ giáo dục truyền thụ kiến thức là chủ yếu được thực hiện nhiều năm qua sang giáo dục hình
thành phẩm chất và phát triển năng lực người học. Chuyển từ tiếp cận nội dung dạy học - giáo
dục sang tiếp cận mục tiêu dạy học - giáo dục. Từ dạy học cung cấp kiến thức sang dạy cách
học. “Dạy cách học - cách khám phá”, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của người học.
PPDH theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú trọng tích cực hóa HS về hoạt động
trí tuệ, mà còn chú trọng rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của
cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn.
Hình thức dạy – học thực sự linh hoạt. Hoạt động dạy –học và giáo dục diễn ra mọi lúc
mọi nơi. Hình thức “Bài lên lớp” là hình thức dạy học chính của các môn học trong nhà trường
phổ thông hiện nay. Song, hướng đến phát triển năng lực HS, cần tăng cường thực hiện đổi

mới hình thức tổ chức dạy học.
Hiện nay, có khá nhiều PPDH mới, chú trọng và có ưu thế trong việc phát triển năng lực
cho người học. Có thể kể đến là: dạy học giải quyết vấn đề, dạy học theo dự án, dạy học tình
huống, dạy học theo nhóm, dạy học bàn tay nặn bột, DHKP,...trong đó, tôi chọn phương pháp
DHKP để nghiên cứu và tiến hành dạy thực nghiệm đối với bộ môn Sinh học mà bản thân phụ
trách.
DHKP là phương pháp có thể phát triển năng lực HS, phát huy khả năng tự chủ, kỹ
năng giải quyết vấn đề cho HS thông qua cách thức tổ chức các hoạt động học tập. DHKP giúp
HS phát huy được nội lực, tư duy tích cực, chủ động và sáng tạo. Thông qua các hoạt động đó,
HS được tự điều chỉnh tri thức và mang lại hứng thú học tập cho HS. Góp phần thành công cho
đổi mới PPDH chính là sự hỗ trợ của thiết bị dạy học. Việc khai thác, sử dụng sáng tạo, hiệu
quả thiết bị dạy học là thành công bước đầu của đổi mới PPDH. Dạy – học trên bảng tương tác
thông minh là mô hình khá mới, được triển khai áp dụng trong những năm gần đây. Bảng
tương tác thông minh cho phép GV giảng bài, HS thực hiện nhiệm vụ học tập nhờ công cụ
được thiết kế sẵn, GV, HS tương tác trực tiếp với nội dung học tập. Nhờ sự hỗ trợ của phương
tiện công nghệ, GV có thể giao các nhiệm vụ tự học, giám sát, hỗ trợ quá trình thực thi yêu cầu
tự học, kiểm tra, đánh giá kết quả tự học một cách chính xác. Việc thiết kế hoạt động học tập
trên bảng tương tác thông minh giúp cho giờ học của HS trở nên sinh động, hấp dẫn hơn, phát
huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

8


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn, dựa trên những trải nghiệm hứng thú và kinh
nghiệm về việc áp dụng các PPDH phát triển năng lực của bản thân, sáng kiến này ra đời. Có
thể khẳng định khi thực hiện sáng kiến này, tôi mong muốn cung cấp cho các đồng nghiệp của
mình một “công cụ” hữu hiệu, đơn giản để áp dụng vào công việc và làm tốt nhiệm vụ giảng
dạy trong thực tiễn.

3. Đối tượng nghiên cứu
Việc sử dụng phương pháp DHKP trên bảng tương tác thông minh để thiết kế và tổ
chức các hoạt động học tập của HS trở nên sinh động, hấp dẫn hơn, nhằm phát huy được tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của HS.
Nghiên cứu được tiến hành trên 43 HS lớp 11C8, Trường THPT Nguyễn Thái Bình.
Người thực hiện giải pháp của sáng kiến là tôi – Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, GV trực tiếp
giảng dạy bộ môn Sinh học lớp 11C8.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu được tổ chức trong lớp 11C8, trường THPT Nguyễn Thái Bình, xã Truông
Mít, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người nghiên cứu sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, so sánh, tổng hợp các tài liệu khác nhau liên quan đến PPDH, đổi mới PPDH,
DHKP trên thế giới và Việt Nam để hệ thống cho sáng kiến.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được sử dụng để quan sát hoạt động dạy – học của GV và HS
trong giờ học môn Sinh học 11 tại trường THPT Nguyễn Thái Bình theo phương pháp truyền
thống. Quan sát những hoạt động của HS trước và sau khi tham gia thực hiện giải pháp của
sáng kiến, từ đó GV tiến hành đánh giá sự tiến bộ của HS về kiến thức, kỹ năng, thái độ.
5.2.2. Thực nghiệm sư phạm
Trong quá trình thực nghiệm sư phạm, người nghiên cứu tiến hành xác định mục đích,
nội dung, phương pháp thực nghiệm, chọn đối tượng thực nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm được sử dụng nhằm mục đích kiểm nghiệm giả
thuyết khoa học, đánh giá hiệu quả và tính khả thi khi thực hiện phương pháp DHKP thông
qua sử dụng bảng tương tác giúp cho việc tổ chức các hoạt động học tập của HS trở nên sinh
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình


9


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
động, hấp dẫn hơn, và phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS đối với bộ môn
Sinh học lớp 11C8, trường THPT Nguyễn Thái Bình.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý các kết quả nhận được từ phương
pháp thực tiễn và thực nghiệm sư phạm.

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

10


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ
giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Quyết định
711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới PPDH và
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo và năng lực tự học của người học”; "Đổi mới kì thi tốt nghiệp THPT, kì thi tuyển sinh đại
học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết
quả kiểm tra, đánh giá trong quá trình giáo dục với kết quả thi”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và

đào tạo đã xác định "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; "Tập trung phát
triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực của công dân, phát hiện và bồi dưỡng
năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú
trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học,
khuyến khích học tập suốt đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố trong quá trình giáo dục trong
nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới.
Nghị quyết 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 Ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế xác định "Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả giáo dục theo hướngđánh giá năng lực của người học, kết hợp đánh giá cả quá trình
với đánh giá cuối kỳ học, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát
triển”.
Dạy học phát triển năng lực đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu,
giảng viên và GV trong thực tiễn giáo dục hiện nay. PPDH theo quan điểm phát triển năng lực
đang là sự lựa chọn của nhiều GV nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục và dạy học trong giai đoạn
hiện nay. Dạy học phát triển năng lực không còn là vấn đề xa lạ trên thế giới khi bản chất và
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

11


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
mục tiêu của hoạt động dạy học được khai thác có trọng điểm. Vẫn đảm bảo cách tiếp cận về
mặt phương pháp, dạy học phát triển năng lực sẽ đòi hỏi cần có cái nhìn mang tính chất cụ thể
trên bình diện phương pháp - kĩ thuật dạy học. Không quá quan tâm đến vấn đề dạy học đảm
bảo đầy đủ, hệ thống và toàn diện các nội dung dạy học bài bản, trong nhiều năm nay, các

chương trình đào tạo trên thế giới tập trung vào trang bị phương pháp trên bình diện phát triển
người học, trong đó các kĩ thuật dạy học trở thành công cụ được trao tay. Có thể nói mô hình
này đào tạo tay nghề đích thực, sự chuyên nghiệp của người học mà không phải là việc biết
hay hiểu lí thuyết mà chưa thể vận dụng hay khai thác.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực
hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri
thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các
tình huống cảu cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học
với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng
năng lực là tạo điều kiện quản lí chất lượng theo kết quả đầu ra đã qui định, nhấn mạnh năng
lực vận dụng của HS.
Để phát huy tính tích cực của HS nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS cần
xác định thành phần và cấu trúc của chúng. Một năng lực là tổ hợp đo lường các kiến thức, kỹ
năng và thái độ mà một người cần vận dụng để thực hiện một nhiệm vụ trong một bối cảnh
thực và có nhiều biến động.
Kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực để người học tìm được giải
pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả
năng đáp ứng phù hợp với bối cảnh thực tế là đặc trưng quan trọng của năng lực, tuy nhiên khả
năng đó có được lại dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kỹ năng
cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể. Việc hình thành và phát triển năng lực được diễn ra theo
hình xoáy trôn ốc, trong đó có các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới;
và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.
Kỹ năng hiểu theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng
kiến thức kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen
thuộc. Kỹ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải
nghiệm,...giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.
Kiến thức, kỹ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực nào đó.
Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kỹ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi
là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kỹ năng cùng với
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình


12


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các
vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.
PPDH theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa HS về hoạt
động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt
động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV – HS
theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học
tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề
học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Học tập là quá trình lĩnh hội tri thức mà loài người đã tích lũy được các kiến thức SGK
và các bài giảng của thầy chủ yếu mang lại cho HS những kiến thức đã có sẵn. Thường thì
GV ít làm rõ nguồn gốc của các tri thức cho HS (phát minh vào lúc nào và bằng cách nào) mà
cố gắng truyền đạt để HS hiểu rõ nội dung các kiến thức. Trong học tập, HS cũng cố gắng
hiểu rõ các kiến thức mà thầy giáo truyền đạt và sau đó vận dụng vào làm các bài tập đó là
cách dạy và học bằng phương pháp thuyết trình: thầy giảng, trò nghe. Phương pháp này làm
cho HS tiếp thu một cách thụ động thiếu hứng thú trong học hành. Các nhà nghiên cứu giáo
dục, các nhà giáo đang quan tâm tới những PPDH làm cho HS luôn tích cực, hứng thú.
Những phương pháp này chủ yếu dựa vào các hoạt động của HS do thầy giáo tạo ra trên lớp;
trong đó phải kể đến phương pháp DHKP. Dạy học dựa trên tìm tòi, khám phá khoa học (viết
ngắn gọn là DHKP) là PPDH cung cấp cho HS cơ hội trải nghiệm các hiện tượng và quá trình
khoa học. Nó tạo điều kiện cho HS bộc lộ những quan niệm và sai lầm vốn có của họ, khuyến
khích họ trao đổi, thảo luận với nhau để đề xuất các giả thuyết, thu thập thông tin, tìm kiếm
bằng chứng, xây dựng các kế hoạch hành động nhằm kiểm chứng các giả thuyết ban đầu, từ đó
tìm ra kết luận mang tính khoa học. Thông qua các hoạt động đó, HS có thể tự điều chỉnh và
thay đổi các quan niệm trước đó của mình để tiếp cận kiến thức mới; đồng thời, HS cũng có cơ
hội phát triển tư duy phê phán, rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề và rất nhiều các kĩ năng

khác cần thiết cho một cuộc sống độc lập sau này. Đó là PPDH thông qua các hoạt động do
thầy dẫn dắt, HS tự khám phá ra các kiến thức. Nếu làm được như vậy HS sẽ thông hiểu, ghi
nhớ và vận dụng những gì mình đã nắm được qua hoạt động chủ động, tự lực khám phá của
chính mình. Tới một trình độ nhất định thì sự học tập tích cực, sự khám phá sẽ mang tính
nghiên cứu khoa học và người học cũng tạo ra những tri thức mới.
Khác với khám phá trong nghiên cứu khoa học, khám phá trong học tập không phải là
một quá trình tự phát mà là một quá trình có hướng dẫn của GV. Trong đó GV sẽ khéo léo đặt
HS vào địa vị người phát hiện lại, người khám phá lại tri thức của loài người.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

13


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
Mục đích của DHKP không những làm cho HS lĩnh hội sâu sắc tri thức của môn học,
mà quan trọng hơn là trang bị cho người học phương pháp suy nghĩ, cách thức phát hiện và
giải quyết vấn đề mang tính độc lập, sáng tạo. Phương pháp DHKP thường được thực hiện qua
các câu hỏi hoặc những yêu cầu hành động, mà khi HS thực hiện và giải đáp thì sẽ xuất hiện
con đường dẫn đến tri thức. Trong DHKP, các hoạt động khám phá của HS thường được tổ
chức theo nhóm, mỗi thành viên đều tích cực tham gia vào quá trình hoạt động nhóm: trả lời
câu hỏi, bổ sung các câu trả lời của các thành viên khác, rút ra câu trả lời chung của nhóm,
đánh giá kết quả học tập...qua hoạt động nhóm, mỗi HS có thể tự đánh giá, tự điều chỉnh và
trau dồi vốn tri thức của bản thân, đây là cơ sở giúp HS hình thành phương pháp tự học hiệu
quả cho mình.
Hiểu theo nghĩa đơn giản thì DHKP là GV tổ chức cho HS học theo nhóm nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Từ đó, hình thành và phát triển năng lực giải
quyết vấn đề và năng lực tự học cho HS. Chúng ta thử hình dung DHKP được vận dụng như
sau: GV đưa ra vấn đề học tập dưới dạng câu hỏi và yêu cầu HS làm việc theo nhóm, để hoàn
thành nhiệm vụ khám phá tri thức. Trong trường hợp, sử dụng phương pháp DHKP mà người
GV không có sự hỗ trợ của phương tiện trực quan thì nguồn kiến thức vẫn là lời nói, chúng ta

đã chuyển kiểu dạy học thầy nói - trò nghe thành trò nói trò nghe, nếu thế thì thầy nói cho trò
nghe dễ hiểu hơn. Qua đó ta thấy phương tiện trực quan thật sự cần thiết trong DHKP, nó đóng
vai trò là nguồn kiến thức, là động cơ kích thích sự hợp tác tích cực trong nhóm. Các phương
tiện trực quan đó có thể là: hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ, mô hình,… đã có sự gia công sư phạm của
GV và được thể hiện trong giấy, tranh, đèn chiếu, …. phương tiện trực quan sẽ kích thích sự
quan sát tìm tòi, tranh luận của HS.
 DHKP có một số đặc trưng sau đây:
 HS được thu hút bởi các câu hỏi định hướng khoa học. Trong nghiên cứu khoa học, các
nhà khoa học thường đặt ra hai loại câu hỏi chủ yếu. Loại câu hỏi thứ nhất về những
điều tồn tại sẵn thường được mở đầu bằng từ “ tại sao", ví dụ: tại sao ở các vùng ôn đới,
cây thường rụng lá vào mùa đông? Tại sao chúng ta ngủ? Tại sao tim có thể hoạt động
suốt đời?...Loại câu hỏi thứ hai hỏi về cách thức hình thành những điều đó, thường sử
dụng từ “ như thế nào", ví dụ: Trầm tích được hình thành như thế nào? Côn trùng hô
hấp như thế nào? Quá trình tiêu hóa ở chúng ta diễn ra như thế nào?....Các câu hỏi loại
hai thường dễ tìm được câu trả lời hơn câu hỏi loại một. Trong DHKP, GV đóng vai trò
quan trọng trong việc định hướng cho HS tìm câu trả lời cho các câu hỏi như vậy. Đôi
khi, để đơn giản và phù hợp hơn với mức độ nhận thức của HS, GV có thể chuyển từ
một câu hỏi “ tại sao" thành câu hỏi “ như thế nào".
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

14


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
 HS tiến hành tìm hiểu kiến thức, thu thập các bằng chứng và sử dụng chúng để xây
dựng và đánh giá các cách giải thích cho câu hỏi định hướng khoa học đã được đặt ra
ban đầu. Các nhà khoa học thu thập các bằng chứng như những dữ liệu khoa học bằng
cách ghi lại những quan sát và thực hiện các đo lường. Các dữ liệu chính xác có thể
được kiểm tra bằng cách lặp lại các quan sát hoặc thực hiện các đo lường mới. Trong
lớp học, HS sử dụng các dữ liệu này để tạo thành các giải thích cho các hiện tượng

khoa học. Cách giải thích khoa học cần phải phù hợp với các bằng chứng đang có và
mang đến cho HS những hiểu biết mới.
 HS công bố kết quả, kiểm chứng và đánh giá cách giải thích của họ bằng cách đối chiếu
nó với cách giải thích của bạn bè và với các kiến thức khoa học. Khám phá khoa học
khác với các dạng khám phá khác ở chỗ giải thích đề xuất có thể được xem xét lại,
thậm chí có thể bị loại bỏ dưới ánh sáng của những phát hiện mới. Các nhà khoa học
cần phải công bố nghiên cứu của mình một cách trung thực và chi tiết đủ để những nhà
khoa học khác có thể tái tạo lại các nghiên cứu đó nếu cần thiết. Tương tự như vậy, HS
sẽ thu được nhiều lợi ích khi họ chia sẻ và so sánh kết quả của mình với các bạn trong
lớp, thông qua đó, tạo cơ hội cho họ đặt ra các câu hỏi kiểm tra các bằng chứng, xác
định các lập luận sai lầm, xem xét giải pháp thay thế. Họ cũng có thể nhận thức được
các kết quả của họ có quan hệ với các kiến thức khoa học hiện tại như thế nào. DHKP
không phải là một chuỗi các hoạt động theo quy trình cứng nhắc mà có thể được thay
đổi và sử dụng linh hoạt phụ thuộc vào mức độ nhận thức và năng lực của HS.
 Tổ chức các hoạt động học tập khám phá trong học tập có nhiều dạng khác nhau, từ
trình độ thấp lên trình độ cao, tuỳ theo trình độ năng lực tư duy của người học và được tổ
chức hoạt động theo cá nhân, nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn, tuỳ theo độ phức tạp của vấn đề
cần khám phá. Các hoạt động khám phá học trong học tập có thể là:
+ Trả lời câu hỏi.
+ Điền từ, điền bảng, tra bảng...
+ Lập bảng, biểu đồ, đồ thị...
+ Thử nghiệm, đề xuất giải quyết, phân tích nguyên nhân, thông báo kết quả.
+ Thảo luận, tranh cãi về một vấn đề.
+ Giải bài tập.
+ Điều tra thực trạng, đề xuất giải pháp cải thiện thực trạng, thực nghiệm giải pháp lớn.
+ Làm bài tập lớn, chuyên đề, dự án, đề án...

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

15



PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
Quyết định hiệu quả học tập là những gì HS làm chứ không phải những gì GV làm. Vì
vậy phải thay đổi quan niệm soạn giáo án, từ tập trung vào thiết kế các hoạt động của GV
chuyển sang tập trung vào thiết kế các hoạt động của HS. Tuy nhiên không nên cực đoan, có
tham vọng biến toàn bộ nội dung bài học thành chuỗi các nội dung bài học khám phá. Số
lượng hoạt động và mức độ tư duy đòi hỏi ở mỗi hoạt động trong mỗi tiết học phải phù hợp với
trình độ HS để có đủ thời lượng cho thầy trò thực hiện các hoạt động khám phá. Phương
pháp tổ chức dạy học nhóm là cách tổ chức DHKP có hiệu quả. Song do hoàn cảnh lớp học, do
thời gian… không phải lúc nào cũng tổ chức nhóm được. Vì vậy có thể trao nhiệm vụ khám
phá cho cả lớp bằng lời, bằng hình chiếu, hình vẽ sẵn trên giấy, bằng một thí nghiệm đơn giản
hoặc bằng việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho dạy học.
* Phương pháp DHKP đòi hỏi HS phải đạt các yêu cầu sau:
- HS phải có những kiến thức, kỹ năng cần thiết để thực hiện các hoạt động khám phá
có hiệu quả do GV tổ chức.
- Sự hướng dẫn của GV cho mỗi hoạt động phải ở mức cần thiết thì mới lôi cuốn
được HS.
- GV phải giám sát việc thực hiện các hoạt động của HS, biết gần gũi HS phát hiện kịp
thời những nhóm đi chệch hướng.
- Dạy học bằng các hoạt động khám phá đòi hỏi nhiều thời gian. Nội dung SGK phải
gọn nhẹ để cả thầy và trò có đủ thời gian cần thiết thực hiện các hoạt động.
* Những ưu và nhược điểm của DHKP
- Những ưu điểm của DHKP:
+ HS coi việc học là của mình, tính tích cực chủ động được phát huy.
+ Hoạt động khám phá tạo ra hứng thú, đem lại nguồn vui, thúc đẩy động cơ đúng
đắn trong quá trình học tập.
+ HS hiểu sâu, nhớ lâu, biết vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học, đồng thời
phát triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết các vấn đề gặp phải, thích ứng linh hoạt
với xã hội hiện đại đang phát triển với tốc độ nhanh chóng.

- Một số hạn chế của phương pháp DHKP.
+ Nếu không biết tổ chức thì dạy học bằng các hoạt động khám phá này dễ phá
vỡ kế hoạch thời gian của bài học.
+ Nếu không có kinh nghiệm tổ chức có thể đưa đến những ấn tượng sai lầm về
tư duy, gây bất lợi về sau này.

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

16


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
+ Không phải bất cứ nội dung nào cũng có thể vận dụng DHKP, do vậy nếu áp
dụng một cách máy móc thì không những không đem lại hiệu quả mà còn có thể gây
phản tác dụng.
DHKP là một quá trình trong đó dưới vai trò định hướng của người dạy, người học chủ
động việc học tập của bản thân, hình thành các câu hỏi đặt ra trong tư duy mở rộng công việc
nghiên cứu, tìm kiếm; từ đó xây dựng nên những hiểu biết và tri thức mới. Những kiến thức
này giúp cho người học trả lời các câu hỏi, tìm nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết các
vấn đề, chứng minh, giải thích được các hiện tượng tự nhiên từ đó bồi dưỡng hứng thú học tập
của HS và phát triển các năng lực cơ bản người học: năng lực tư duy, năng lực tự chủ và tự
học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội,...
Hoạt động khám phá trong học tập là một chuỗi hành động và thao tác trí tuệ hoặc cơ
bắp hướng tới mục tiêu xác định. Hoạt động khám phá trong học tập có nhiều dạng khác nhau,
từ trình độ thấp đến trình độ cao tùy theo năng lực tư duy của người học và được tổ chức
thực hiện theo cá nhân, nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn, tùy theo mục đích phức tạp của vấn đề cần
khám phá. Hoạt động khám phá trong học tập có thể thực hiện dưới các dạng sau: Trả lời câu
hỏi vấn đáp; lập bảng, điền bảng, sơ đồ; thảo luận, đề xuất ý tưởng về vấn đề nêu ra; giải bài
tập; làm đề án, chuyên đề.
Đặc điểm của biện pháp DHKP đó là: Bằng những hướng dẫn của GV tạo điều kiện cho

HS thực hiện các hoạt động học tập của mình để tự tìm ra đáp án.
Đặc trưng của biện pháp tổ chức trong DHKP là dựa vào nhiệm vụ khám phá hay nhiệm
vụ học tập mà đưa ra các hoạt động cụ thể để HS dựa vào các hoạt động đó mà phát hiện
kiến thức.
Phương pháp tổ chức dạy học nhóm là cách tổ chức DHKP có hiệu quả. Song do hoàn
cảnh lớp học, do thời gian… không phải lúc nào cũng tổ chức nhóm được. Vì vậy có thể trao
nhiệm vụ khám phá cho cả lớp bằng lời, bằng hình chiếu, hình vẽ sẵn trên giấy, bằng một thí
nghiệm đơn giản hoặc bằng việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho dạy học.
Trong thời đại ngày nay CNTT là giải pháp quan trọng cần triệt để khai thác khi dạy và
học, không thể dạy học theo một lối mòn cũ kĩ mà cần phải đổi mới PPDH theo hướng ứng
dụng CNTT.
Mục tiêu mà ngành giáo dục cần phải hướng đến đó là chuỗi phát triển từ nền tảng cơ
bản nhất là tạo các bài giảng điện tử, phát triển đồng bộ để đạt đến ngưỡng của một trường học
điện tử, tạo tiền đề vững chắc để xây dựng nên một nền giáo dục điện tử tại Việt Nam.
Ứng dụng CNTT vào dạy học có nghĩa là việc đầu tiên mà người GV phải thực hiện là
có bài giảng điện tử. Bài giảng điện tử cần phải được hiểu thống nhất như là một PPDH trong
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

17


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
đó GV khai thác tiện ích của CNTT để thiết kế các nội dung học tập nhằm giúp HS không chỉ
lĩnh hội kiến thức, kỹ năng phát triển tư duy, nhận thức mà còn phát triển cả kỹ năng xử lý
thông tin, kỹ năng giao tiếp,...
Những quan điểm, định hướng nêu trên tạo tiền đề, cơ sở và môi trường pháp lí thuận
lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới đồng bộ PPDH, kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực người học.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn công tác kiểm tra, đánh giá ở trường phổ thông hiện nay cho ta thấy tình trạng

đánh đồng việc cho điểm với đánh giá năng lực HS; có xu hướng chú trọng kiến thức ghi nhớ
hơn là rèn kỹ năng và năng lực HS; công tác kiểm tra, đánh giá chịu sức ép của thi cử và bệnh
thành tích; các kết quả kiểm tra thường để xếp loại HS hơn là tìm ra điểm mạnh yếu của HS để
giúp HS tiến bộ và định hướng cho GV trong việc cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy.
Cùng với sự bùng nổ thông tin toàn cầu, các phương tiện thông tin hiện đại mang lại
nhiều sự lựa chọn mới, hấp dẫn hơn, các trò chơi game mới, trang mạng xã hội ngày càng thu
hút đông đảo HS tuổi mới lớn, thời gian học vô tình bị các em thu hẹp lại dành thời gian cho
những thú vui mới lạ, hấp dẫn hơn.
Vì chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học, cộng thêm năng lực tư duy giới hạn,
khả năng giải quyết vấn đề kém, động cơ học tập và hứng thú học tập của các em cũng thay
đổi. Mục đích học tập chủ yếu của HS THPT hiện nay là để chuẩn bị cho tương lai của chính
các em học để thi đỗ đại học, có việc làm tốt, thỏa mãn ước muốn bản thân, để giúp đỡ gia
đình… Những nguyên nhân khiến HS THPT chán, lười học là do ham chơi, kết quả học tập
không như mong đợi, rồi đến lý do cảm thấy môn học khó và hoàn cảnh tác động (dễ bị lôi
kéo, dụ dỗ; chưa quyết tâm, kiên trì và chưa quan tâm thực sự đến học tập). Ngoài ra, rất nhiều
học sinh THPT đưa ra ý kiến khác về nguyên nhân gây chán, lười học:
+ Do không có khả năng đối với môn học.
+ Do gia đình, thầy cô đặt quá nhiều hy vọng tạo áp lực lớn cho HS.
+ Do không giữ được ý chí quyết tâm học tập.
+ Khó tập trung học tập do nhiều yếu tố bên ngoài tác động.
+ Do môn học không đủ sức hấp dẫn với HS…
 Thái độ của HS THPT đối với việc học:
Tình trạng lớp học tương đối trầm ở các trường lớp THPT khá phổ biến hiện nay, tỷ lệ
phát biểu ít chiếm quá nửa, tỷ lệ những HS chưa bao giờ phát biểu khá cao, còn lại lượng HS
hăng hái phát biểu không đáng kể. Nguyên nhân gây nên hiện tượng này khá phức tạp, bắt
nguồn từ tâm lý chung của HS (sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin vào năng lực của
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

18



PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
mình, chưa hiểu rõ tác dụng của việc phát biểu xây dựng bài), do cá nhân chưa chuẩn bị bài kỹ,
đến phương pháp giảng dạy của GV chưa gây hứng thú tới HS.
Tình trạng không chuẩn bị bài trước khi đến lớp vẫn tồn tại khá phổ biến. Ở hầu hết các
trường lớp, HS thường khá bị động trong việc tự chuẩn bị bài ở nhà, kể cả khi GV kiểm tra,
các em vẫn có xu hướng làm đối phó. Nguyên nhân sâu xa của thực trạng phổ biến này là: HS
có rất ít thời gian học ở nhà trong khi lượng kiến thức học quá lớn, HS chưa chú tâm tới môn
học hay chưa hiểu rõ tác dụng của phương pháp học này…Hầu hết các em HS đều có tâm lý
chung học lệch, chỉ tập trung học các môn sắp kiểm tra, thi hay các môn chuyên ngành.
Mặc dù rất nhiều nguyên nhân khác nhau ảnh hưởng đến hứng thú học tập và thái độ
học tập của HS THPT, nhưng chung quy lại tôi vẫn thấy một điểm chung là HS học yếu, lười
học vì thiếu năng lực tư duy, thiếu kỹ năng giải quyết vấn đề, chưa có nhận thức đúng đắn
trong việc học tập và GV thì chưa tìm ra phương pháp phù hợp để phát huy các năng lực cơ
bản của HS.
Tóm lại, dựa vào việc tìm hiểu những nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng chán, lười
học và mức độ ảnh hưởng ít hay nhiều của các nguyên nhân, từ đó thúc đẩy việc học tập của
các em mà tôi hi vọng có thể đề ra được những PPDH phù hợp hơn nhằm khuyến khích HS
học tập tích cực, chủ động hơn.
Mặt khác, chương trình Sinh học 11 tập trung những kiến thức về sinh lí động vật và
thực vật. Đây là một nội dung rất hay vì nó là những kiến thức rất thực tế đối với người học, vì
vậy, rất dễ tạo được hứng thú học tập của các em. Tuy nhiên, qua thực tiễn giảng dạy HS
thường rất khó tiếp thu và lưu giữ những kiến thức này, vì vậy hứng thú của các em đối với
môn học dễ bị giảm đi gây ảnh hưởng đến hiệu quả dạy và học.
Nội dung chủ yếu của SGK Sinh học 11 gồm các kiến thức về cấu tạo và hoạt động sinh
lí cơ bản của động vật và thực vật được biên soạn theo hướng lồng ghép Sinh học cơ thể thực
vật với Sinh học cơ thể động vật. Điều này giúp HS nhận thức được các chức năng sinh lí cơ
bản đều có ở cả động vật và thực vật, đồng thời có thể so sánh cách thực hiện các chức năng
sinh lí ở giới Thực vật và giới Động vật.
Cấu trúc chương trình môn học thể hiện tính logic của cấu trúc nội dung, tính hệ thống

của các kiến thức, các khái niệm, trong đó khái niệm trước tạo điều kiện cho việc hình thành
và nắm vững khái niệm sau. Hệ thống các kiến thức được trình bày từ dễ đến khó, từ đơn giản
đến phức tạp, từ ngoài vào trong, từ cụ thể đến trừu tượng và theo nguyên tắc đi từ tổng hợp
đến sơ bộ, khái quát đến phân tích và cuối cùng là tổng hợp ở mức cao hơn, đồng thời đảm bảo
tính vừa sức, hợp với trình độ và lứa tuổi HS.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

19


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
TIẾT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43

BÀI- TÊN BÀI DẠY
HỌC KỲ I
Phần IV: sinh học cơ thể

Chƣơng I: CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƢỢNG
A- CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT VÀ NĂNG LƢỢNG Ở THỰC VẬT
Bài 1: Sự hấp thu nước và muối khoáng ở rễ.
Bài 2: Vận chuyển các chất trong cây.
Bài 3: Thoát hơi nước.
Bài 4: Vai trò của các nguyên tố khoáng
Bài 5&6: Dinh dưỡng Nito ở thực vật.
Bài 7: Thực hành: Thí nghiệm thoát hơi nước và thí nghiệm về vai trò của phân bón.
Bài 8: Quang hợp ở thực vật.
KIỂM TRA 1 TIẾT
Bài 9: Quang hợp ở các nhóm thực vật C3, C4 và CAM.
Bài 10 & 11: Ảnh hưởng của các nhân tố ngoại cảnh đến quang hợp. Quang hợp và
năng suất cây trồng.
Bài 12: Hô hấp ở thực vật.
Bài 13: Thực hành: Phát hiện diệp lục và carotenoit
Bài 14: Thực hành: Phát hiện hô hấp ở thực vật.
Bài 15: Tiêu hóa ở động vật.
Bài 16: Tiêu hóa ở động vật (tt)
Bài 17: Hô hấp ở động vật.
Ôn tập
Ôn tập
KIỂM TRA HỌC KÌ I
Bài 18: Tuần hoàn máu.
Bài 19: Tuần hoàn máu (tt).
Bài 20: Cân bằng nội môi.
Bài 21: Thực hành: Đo một số chỉ tiêu sinh lí ở người.
Bài 22: Bài tập chương I
Bài 23: Hướng động.
Bài 24: ứng động.
Bài 25: Thực hành: Hướng động

Bài 26: Cảm ứng ở động vật.
Bài 27: Cảm ứng ở động vật (tt)
Bài 28: Điện thế nghỉ.
Bài 29: Điện thế hoạt động và sự lan truyền xung thần kinh.
Bài 30: Truyền tin qua xinap.
Bài 31: Tập tính của động vật.
Bài 32: Tập tính của động vật (tt).
Ôn tập
KIỂM TRA 1 TIẾT
Bài 33: Thực hành: Xem phim tập tính động vật.
Bài 34: Sinh trưởng ở thực vật.
Bài 35: Hoocmon ở thực vật.
Bài 36: Phát triển ở thực vật có hoa.
Bài 37 :Sinh trưởng và phát triển ở động vật.
Bài 38:Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển ở động vật.
Bài 39:Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển ở động vật. (tt)

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

20


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
44
45
46
47
48
49
50

51
52
53
54
55

Bài 40: Thực hành: Xem phim về sinh trưởng và phát triển của một số động vật.
Ôn tập
Bài 41: Sinh sản vô tính ở thực vật.
Bài 42:Sinh sản hữu tính ở thực vật.
Bài 43: Thực hành: Nhân giống vô tính ở thực vật bằng giâm, chiết, ghép.
Bài 44: Sinh sản vô tính ở động vật.
Bài 45: Sinh sản hữu tính ở động vật.
Bài 46: Cơ chế điều hòa sinh sản.
Bài 47:Điều khiển sinh sản ở động vật và sinh đẻ có kế hoạch ở người.
Ôn tập
Bài tập
KIỂM TRA HỌC KÌ II

Bên cạnh việc biên soạn nội dung chương trình hợp lí, thì đặc trưng về tâm lí của HS lứa
tuổi này là tò mò và ham hiểu biết, thích khám phá cái mới, muốn tìm hiểu về thế giới tự nhiên
với muôn điều kì thú, muốn tự khẳng định mình. Trên cơ sở đó, SGK Sinh học 11 được thiết
kế với các kênh hình và kênh chữ phù hợp với mục đích phát triển năng lực tư duy, sự sáng tạo
của người học, do đó, HS rất dễ liên hệ thực tế để tìm tòi, phát hiện kiến thức cũng như giải
thích và vận dụng kiến thức khoa học để giải thích các hiện tượng Sinh học trong tự nhiên.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi GV và HS đều có thể khai thác hợp lí, hiệu quả các tư
liệu, hình ảnh trong SGK để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Ngày nay, việc ứng dụng CNTT vào dạy và học đã và đang rất phổ biến. Một trong
những phần mềm được sử dụng rộng rãi nhất là Microsoft PowerPoint. Microsoft PowerPoint
được xem là công cụ hỗ trợ thuyết trình nhiều tính năng nhất hiện nay. Các đối tượng mà

Microsoft PowerPoint phục vụ rất đa dạng, từ nhân viên văn phòng, GV, sinh viên, HS, ...
Microsoft PowerPoint thậm chí còn được coi là phần mềm hữu hiệu cho công tác giảng dạy.
Microsoft PowerPoint là ứng dụng được tích hợp trong bộ Microsoft Office, dễ học, dễ sử
dụng và dễ chia sẻ. Một file thuyết trình Microsoft PowerPoint có thể được thiết kế với vô số
định dạng và phong cách mang dấu ấn riêng của người thực hiện. Điều này khuyến khích tính
sáng tạo của người thuyết trình để lựa chọn áp dụng các dữ liệu, thông tin và cách thể hiện phù
hợp với người nghe và các yêu cầu cụ thể của bài thuyết trình. Khi thuyết trình bằng Microsoft
PowerPoint dễ dàng thu hút sự chú ý của người nghe, tạo bầu không khí mà người thuyết trình
mong muốn thông qua việc sử dụng kết hợp các hiệu ứng hình ảnh, âm thanh và video.
Microsoft PowerPoint là công cụ thuyết trình hỗ trợ đa phương tiện rất mạnh, trang bị đầy đủ
các hiệu ứng tiên tiến. Gần như mọi thứ có thể số hóa đều có thể đưa vào slide Microsoft
PowerPoint. Vì vậy, slide Microsoft PowerPoint có thể là sản phẩm tích hợp của nhiều yếu tố:
ngôn từ, hình ảnh, đồ họa 3D, ghi âm giọng nói, hiệu ứng âm thanh và hình ảnh động được sử
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

21


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
dụng một cách sáng tạo để làm sinh động thêm các cuộc trao đổi, tăng chất lượng bài giảng,
tăng tính thuyết phục cho phần trình bày, làm phong phú thêm các nghiên cứu và báo cáo.
Riêng đối với những cán bộ giảng dạy, Microsoft PowerPoint có thể sử dụng để tăng hiệu quả
của lớp học và áp dụng được với tất cả mọi môn học. Lợi ích lớn của việc sử dụng Microsoft
PowerPoint là GV có thể soạn thảo bài giảng và tái sử dụng cho những lần giảng sau. Nhờ
Microsoft PowerPoint, GV tiết kiệm thời gian cung cấp các tài liệu hướng dẫn, viết lên bảng,
nhắc lại các thông điệp… Microsoft PowerPoint giúp làm phong phú thông tin trong bài học,
làm việc trình bày linh hoạt nhưng lại rất quy củ. Ngoài ra các điểm chính của bài học có thể
được nhấn mạnh để dễ ghi nhớ bằng việc sử dụng hình ảnh đồ họa, hình ảnh động hay âm
thanh. HS ngày nay rất nhạy bén với công nghệ mới, các công cụ giáo dục kết hợp với công
nghệ như Microsoft PowerPoint sẽ nâng cao mức tương tác và tham gia của HS trong lớp học.

Tuy nhiên, Microsoft PowerPoint cũng có hạn chế là người dùng không thể tương tác
trực tiếp lên nội dung trên các slide mà phải theo trình tự có sẵn khi thiết kế bài giảng. Để khắc
phục nhược điểm này, những năm gần đây, các phần mềm tương tác đã ra đời, trong đó phải kể
đến phần mềm ActivInspire. Đây là ứng dụng được thiết kế viết bởi các chuyên gia phần mềm .
Nó là công cụ tạo bài giảng điện tử tốt bậc nhất hiện nay. Nó cũng thu hút sự quan tâm của
người dùng và được hầu hết người dùng ưa chuộng. Không chỉ giúp GV, HS mà nó còn tương
tác với cả phụ huynh được tiếp cận kiến thức trong môi trường năng động. Một khi đã có
ActivInspire trên máy tính thì việc soạn bài của bạn sẽ dễ dàng thuận tiện hơn và quan trọng là
chất lượng bài giảng sẽ hoàn hảo hơn. Vậy nên, HS sẽ thấy hứng thú hơn trong việc học và
tiếp thu bài. Không chỉ kết hợp giữa thực tế với lí thuyết mà kho kiến thức cũng đa dạng phong
phú, sinh động. Hơn nữa, nó là một trong những phần mềm thiết kế bài giảng tốt nhất hiện nay
bởi sở hữu chế độ người dùng đôi và cảm ứng đa khả năng, thêm vào đó, tích hợp gần 90,000
tài nguyên và bài học trên Promethean Planet. Với chức năng này giúp GV tạo ra các ý tưởng
sư phạm hay đồng thời giúp hỗ trợ họ để có thêm nhiều hoạt động sinh động, trực quan cho
HS tiếp cận một cách dễ dàng, đơn giản, làm khơi dậy niềm đam mê và sáng tạo cho họ. Thực
tế cho thấy ngày nay đại đa số GV đều phải theo xu hướng giảng dạy ứng dụng công nghệ nên
sẽ rất tiện cho những người trẻ, thành thạo vi tính, thiết bị hiện đại. Và ActivInspire là sự lựa
chọn hợp lí cho môi trường giảng dạy và học tập, bởi ứng dụng này hỗ trợ tối đa về công nghệ,
kỹ năng dạy học cũng như tạo ra một môi trường học tập mang tính liên kết chặt chẽ giữa các
GV và HS. Từ đó tạo ra môi trường năng động, hiện đại giúp dung hòa giữa người dạy và
người học và dễ dàng chia sẻ dữ liệu, kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ. Sở hữu giao diện đẹp
mắt, thân thiện cuốn hút cả người dạy và học. Bên cạnh đó, ActivInspire không những mang lại
cho GV khả năng tiếp cận các hoạt động giảng dạy, mà còn cả hình ảnh, âm thanh và mẫu bài
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

22


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
giảng. Thật hiện đại và thuận tiện khi người dùng chỉ cần dùng bút chạm cảm ứng, hoặc dùng

tay thao tác trên các công cụ nhằm nâng cao trong hiệu chỉnh cho bài giảng cũng như hoạt
động học tập của HS. Như đã nói ở trên công cụ này giúp đỡ GV tạo nên các bài giảng có tính
tương tác cao, do đó, tạo ra một môi trường học tập mang tính liên kết chặt chẽ, lại sinh động,
lôi cuốn người học. Với các dụng cụ trực quan, nó cho phép người dùng tiếp cận các phương
pháp giảng dạy mới, hiện đại, hấp dẫn thì bài giảng điện tử cũng phải thật hoàn chỉnh có nội
dung hay, đầy đủ, súc tích cũng như hình thức đẹp mắt cuốn hút. Đặc biệt phần mềm này
tương thích trên mọi hệ điều hành hiện nay như win XP, 7, 8, 8.1, 10. Ngoài ra, phần mềm này
còn có một chế độ gọi là " chú giải trên màn hình", khi GV chọn chế độ này thì người dùng sẽ
tương tác được trên bất cứ phần mềm nào cũng được mà vẫn tận dụng được công cụ của phần
mềm ActivInspire để tương tác trên phần mềm đó. Khi sử dụng chế độ này, ta có thể tận dụng
kho bài giảng rất phong phú ứng dụng phần mềm Microsoft powerpoint từ trước đến nay, mà
chất lượng bài giảng trên bảng tương tác thông minh cũng rất hiệu quả.
3. Nội dung vấn đề
3.1 . Vấn đề đặt ra:
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy bộ môn Sinh học, trong những năm gần
đây, tôi thấy rằng hoạt động học tập bộ môn Sinh học tại trường vẫn còn nhiều tồn tại, từ
PPDH của GV đến phương pháp học tập của HS. Khảo sát thực trạng dạy – học bộ môn Sinh
học cho kết quả như sau:
 Thực trạng hoạt động học tập bộ môn Sinh học:
 Về phía HS:
Qua việc thăm lớp, dự giờ khảo sát trước tác động tại trường THPT Nguyễn Thái
Bình tôi nhận thấy rằng, tỉ lệ HS thụ động, chưa tích cực, không muốn động não suy nghĩ,
không hứng thú với tri thức Sinh học, không thể vận dụng tri thức Sinh học để giải thích các
qui luật, hiện tượng Sinh học trong thực tiễn còn khá cao. Phần lớn HS quen với phương pháp
truyền thụ kiến thức một chiều, người học thụ động tiếp nhận tri thức do người dạy truyền đạt
một cách nhàm chán.
Đặc điểm nổi bật trong khả năng tư duy của HS là thói quen lao động trí óc chưa bền,
ngại động não. Trong học tập nhiều em không biết lật đi lật lại vấn đề, phát hiện thắc mắc, suy
nghĩ sâu sắc về vấn đề học tập. Nhiều HS không hiểu bài nhưng không biết mình không hiểu ở
chỗ nào. Tư duy của HS còn kém nhanh nhạy và linh hoạt, khả năng thay đổi giải pháp chậm,

nhiều khi máy móc, rập khuôn. HS thường thỏa mãn với cái có sẵn, ít động não đổi mới, khả
năng độc lập tư duy và óc phê phán còn hạn chế. Thao tác tư duy thể hiện ở khả năng phân
tích, tổng hợp, khái quát của HS còn phát triển chậm, thiếu toàn diện.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

23


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
HS tuy chăm chỉ, chịu khó song phương pháp học tập nói chung chưa khoa học, thường
tiếp thu tri thức một cách thụ động bằng các ghi nhớ, tái hiện. Cố gắng ghi nhớ toàn bộ lời
giảng của GV rồi cố gắng lặp lại y nguyên, ngại đào sâu, suy nghĩ, tìm dấu hiệu bản chất của
nội dung vấn đề nghiên cứu (học vẹt).
Hình thức học tập của HS vẫn hay sử dụng là học thuộc lòng trong vở ghi, các hình thức
học tập mang tính tích cực ít được sử dụng, kỹ năng xây dựng dàn ý tóm tắt bài học, kĩ năng
xây dựng sơ đồ, lập bảng tóm tắt của HS đa số ở mức yếu và hầu như chưa được hình thành.
Sự nỗ lực của bản thân trong hoạt động tự học chưa cao, khi gặp những khó khăn trong
học tập (một bài tập khó, một vấn đề chưa hiểu) hầu hết các em bỏ qua, một số ít hỏi bạn, hỏi
thầy, còn lại tự mình mày mò, tiếp tục suy nghĩ, tìm tài liệu để giải quyết vấn đề.
HS thường gặp khó khăn khi phát biểu trước đám đông vì ngại ngùng, thiếu tự tin, một
số HS gặp khó khăn trong diễn đạt các kiến thức vốn đã hiểu (tức là tuy trong óc thì hiểu mà
lại khó khăn để nói, viết ra). Đặc biệt có một số HS gặp khó khăn trong việc tự tìm hiểu các
loại sơ đồ, bảng biểu, hình vẽ trong SGK. Qua dự giờ và trao đổi với HS tôi thấy khi làm việc
với hình vẽ, bảng biểu, sơ đồ nhiều HS còn chưa chú ý xem xét các bộ phận, các chi tiết cụ thể
của hình vẽ, khă năng nhận biết ý nghĩa của các dấu hiệu và mối liên quan giữa các bộ phận
trên hình vẽ còn rất hạn chế.
-

Việc chuẩn bị bài mới trước khi lên lớp: Nếu các thầy cô giao nhiệm vụ, yêu cầu HS
đọc bài ở nhà thì phần nhỏ HS có ý thức đọc trước, nếu các thầy cô không giao nhiệm

vụ, không yêu cầu HS đọc bài ở nhà thì hầu như các em không tự giác đọc. Trong đó
hầu hết các em chỉ đọc lướt qua (đọc lấy lệ hay đọc đối phó), một số có tìm hiểu xem
nội dung bài sẽ học gồm những mục nào, nội dung nào, rất ít các em tìm thuật ngữ khó
hiểu để dự định hỏi thầy cũng như tìm mối liên quan giữa kiến thức mới với kiến thức
đã học.

-

Việc xem lại bài vừa học: Nhiều em không xem lại bài vừa học mà các em chỉ có thói
quen học bài cũ chuẩn bị cho việc kiểm tra bài của ngày hôm sau, một số chỉ xem qua ở
mức đơn giản và một số các em xem lại bài kết hợp điều chỉnh vở ghi chép bài giảng
trên lớp và tìm hiểu thêm những điều mà trên lớp hoặc nghe chưa rõ, hoặc khó hiểu
nhưng không thường xuyên.

-

Việc học bài cũ và thực hiện ôn tập chương: Hầu hết các em sử dụng hình thức học
thuộc lòng bài cũ thậm chí cả bài ôn tập chương cũng học thuộc (có một số em không
hiểu nhưng vẫn học thuộc), một số ít học bằng cách xây dựng đề cương, lập sơ đồ, làm
bài tập thông qua đó mà ghi nhớ kiến thức, một số ít học kiến thức cơ bản của bài,
chương và có thực hiện đọc thêm tài liệu để mở rộng kiến thức có liên quan nhưng mức

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

24


PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH BẰNG PHƢƠNG PHÁP DHKP...
độ còn ít. Có thể kết luận rằng xu hướng chung của HS về tự học là để chuẩn bị cho
việc kiểm tra bài cũ của GV để lấy điểm, một số để nắm vững những kiến thức cơ bản

chứ ít có nhu cầu mở rộng, hiểu sâu kiến thức.
-

Việc hoạt động của HS trong giờ lên lớp: Phần nhiều HS thụ động nghe giảng, ít động
não suy nghĩ, chỉ trả lời khi thầy yêu cầu và không dám hỏi thầy khi có thắc mắc, ghi
(chép lại) theo nội dung đọc tóm tắt của thầy, chỉ có một số nhỏ HS tích cực, chủ động
trong quá trình học như sẵn sàng trả lời câu hỏi của thầy nếu biết và thậm chí sẵn sàng
hỏi lại thầy nếu có thắc mắc.

-

Về vấn đề thảo luận nhóm: Qua dự giờ và trao đổi với các em HS và GV khác tôi thấy:
Khi GV yêu cầu nghiên cứu SGK trao đổi nhóm và thảo luận, một số HS không làm gì
chỉ nghe các bạn trong nhóm làm và báo cáo, một số em có tham gia (để GV không phê
bình) nhưng không nhiệt tình. Chỉ những HS học khá, hay phát biểu (năng động) thì giữ
vai trò chủ chốt trong giờ học khi GV sử dụng hình thức trao đổi nhóm. Đa số các em
biết bám sát yêu cầu của câu hỏi khi thảo luận song khả năng diễn đạt ý kiến rõ ràng,
ngắn gọn và khả năng tranh luận đặc biệt là tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình, của
nhóm mình còn hạn chế.

-

Về ý thức môn học: phần lớn các em chỉ coi học môn Sinh học là nhiệm vụ bắt buộc,
không hứng thú, say mê môn học; chỉ một phần nhỏ là yêu thích và say mê.
 Về phía GV bộ môn:
GV thường chỉ yêu cầu HS học bài cũ và chuẩn bị bài mới theo câu hỏi và bài tập

trong SGK, một số GV có hướng dẫn HS học bài cũ và chuẩn bị bài mới. Một số GV quan
tâm đến việc yêu cầu HS lập dàn ý và xây dựng sơ đồ cho các bài học và các bài ôn tập
chương.

Trong giờ lên lớp hầu hết GV thường đặt các câu hỏi dễ, các câu hỏi tái hiện kiến thức
cũ hoặc yêu cầu HS tóm tắt kiến thức cơ bản để từ đó dạy kiến thức mới, một số GV quan
tâm đến việc hướng dẫn HS phân tích bảng biểu, sơ đồ, đồ thị, hình vẽ cũng như đặt ra các
tình huống có vấn đề hướng dẫn HS thảo luận nhóm để tìm ra kiến thức mới nhưng không
thường xuyên.
Qua dự giờ, trao đổi chuyên môn và tham khảo kế hoạch bài học của một số GV dạy
môn Sinh học tôi có nhận xét sau:
-

Tình hình hướng dẫn HS tự học thể hiện qua kế hoạch bài học: Trong kế hoạch bài học
chủ yếu là liệt kê những kiến thức cơ bản mà HS cần phải nắm được qua giờ giảng bài ở
cột nội dung cũng như chỉ có những câu hỏi đơn giản tái hiện kiến thức cũ, câu hỏi phát
hiện kiến thức mới ở mức đơn giản, thậm chí có nhiều câu hỏi chỉ để gọi là có câu hỏi;

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Trƣờng THPT Nguyễn Thái Bình

25


×