Tải bản đầy đủ (.docx) (177 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 2012 ( LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.8 KB, 177 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ THỊ HƯƠNG LIÊN

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 2012

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

THÁI NGUYÊN - 2018


2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ THỊ HƯƠNG LIÊN

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 2012
Ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 9229013

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ
2. PGS.TS Hà Thị Thu Thủy



THÁI NGUYÊN - 2018


3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình nào khác.
Tác giả

Đỗ Thị Hương Liên


4
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tác giả luận án xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tập thể các thầy
cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên. Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy giáo hướng dẫn khoa
học: GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ, PGS.TS Hà Thị Thu Thủy đã chỉ bảo tận tình, ân
cần, động viên khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn
thành chương trình đào tạo tiến sĩ.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, III, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lạng Sơn,
cùng các đơn vị trực thuộc quản lí và toàn thể các ban ngành, đoàn thể địa phương
đã cung cấp các tư liệu để tác giả hoàn thành luận án. Tác giả xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 10 năm 2018

Tác giả

Đỗ Thị Hương Liên


5
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan.............................................................................................................. i
Lời cảm ơn................................................................................................................ii
Mục lục....................................................................................................................iii
Danh mục các chữ viết tắt........................................................................................iv
Danh mục các bảng....................................................................................................v


6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN

: Công nghiệp

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DV

: Dịch vụ

GD


: Giáo dục

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTX

: Hợp tác xã

LN

: Lâm nghiệp

NN

: Nông nghiệp

TCN

: Thủ công nghiệp

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

UBHC

: Ủy ban hành chính


CHND

: Cộng hòa Nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân


7
DANH MỤC CÁC BẢNG


8
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Lạng Sơn là một tỉnh nằm ở khu vực phía Bắc có đường biên giới tiếp giáp với
Trung Quốc, từ lâu đã được coi như cửa ngõ giao thương giữa nước ta với Trung Quốc.
Thành phố Lạng Sơn là đô thị tỉnh lỵ của tỉnh Lạng Sơn, tỉnh miền núi Đông Bắc của
tổ quốc, là một đô thị cửa khẩu có chức năng quan trọng trong kinh tế đối ngoại.
Thành phố Lạng Sơn - vùng đất đã trải qua thời kỳ Châu lỵ, Trấn lỵ và đến
năm 1925 được thành lập, trở thành thị xã tỉnh lỵ, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội của tỉnh. Đây là nơi có nhiều di tích lịch sử như thành nhà Mạc, Đoàn
thành, Ải Chi Lăng... cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc đã
từng hấp dẫn khách thập phương từ ngàn xưa. Sự hội tụ của các điều kiện tự nhiên
và xã hội đã tạo cho thành phố Lạng Sơn thế mạnh phát triển đô thị, trở thành trung
tâm chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội của tỉnh Lạng Sơn và vùng Đông Bắc Việt
Nam. Thành phố Lạng Sơn là loại hình đô thị thương mại ra đời từ khá sớm, được
hình thành theo phương thức "thị" có trước " đô " có sau. Ngày nay thành phố Lạng

Sơn là thành phố thương mại cửa khẩu đang trên đà phát triển, là cửa ngõ giao lưu
kinh tế - văn hoá của cả nước với Trung Quốc, là địa bàn có mối quan hệ với vùng
tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Với quá trình đổi mới diễn ra một cách toàn diện và sâu sắc từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của
thành phố Lạng Sơn, làm nảy sinh những vấn đề về quy hoạch phát triển đô thị, về
tổ chức đời sống kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng [66, 197], đồng thời những
thay đổi về cơ sở hạ tầng đô thị đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của thành phố.
Trong giai đoạn 2000 – 2002, thực hiện đề án thành lập thành phố, thị xã
được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kiến thiết đô thị, diện mạo thay đổi. Năm 2000,
thành phố Lạng Sơn được công nhận là đô thị loại III, đến tháng 10/2002, Chính
phủ đã ban hành Nghị định thành lập thành phố Lạng Sơn. Quá trình đô thị hóa
cùng với sự chuyển mình ngày càng mạnh mẽ của thành phố Lạng Sơn trong những
năm qua đã khẳng định sự đúng đắn trong việc thực hiện chủ trương, đường lối đổi
mới của Đảng và nhà nước để thành phố Lạng Sơn trở thành thành phố cửa khẩu
quan trọng vùng biên giới Đông Bắc, với chức năng chủ yếu là kinh tế thương mại,


9
chính trị, an ninh quốc phòng của một tỉnh biên giới. Thông qua nghiên cứu thực tế
thực hiện đường lối đổi mới ở một địa phương miền núi biên giới như Lạng Sơn để
thấy được sự lãnh đạo và đường lối đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, đồng thời
với việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần cung cấp thêm tư liệu khoa học cho việc
nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy lịch sử địa phương cũng như góp phần giáo dục
truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp của nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn.
Đến nay, cũng đã có khá nhiều nghiên cứu về quá trình đô thị hóa nói chung
của các tác giả ở trong và ngoài nước, với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên,
lại chưa có nghiên cứu nào về quá trình hình thành, phát triển của thành phố và quá
trình đô thị hóa dưới góc độ lịch sử diễn ra tại một thành phố của một tỉnh miền núi,

nhất là lại diễn ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc như tỉnh Lạng Sơn. Chính vì vậy,
tác giả đã chọn vấn đề: “Quá trình hình thành và phát triển thành phố Lạng Sơn từ
năm 1925 đến năm 2012” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Luận án sẽ tập trung vào các vấn đề
- Khái quát quá trình hình thành của đô thị Lạng Sơn từ khởi thủy đến năm
1925 (năm thành lập thị xã Lạng Sơn) và quá trình phát triển của Lạng Sơn từ thị xã
lên thành phố (năm 2002), cùng chặng đường 10 năm xây dựng và phát triển thành
phố Lạng Sơn (2002-2012).
- Phân tích những điều kiện lịch sử tác động đến sự phát triển của thị xã
Lạng Sơn và thành phố Lạng Sơn qua các giai đoạn lịch sử.
- Phân tích sự thay đổi về diên cách (quy mô) thành phố Lạng Sơn qua các
thời kì, trong đó tập trung vào quy hoạch kiến trúc và cảnh quan môi trường; đồng
thời tập trung làm rõ các cơ chế, chính sách của bộ máy chính quyền đương thời
trong công tác quản lí đô thị.
- Phác họa bức tranh về sinh hoạt đô thị được thể hiện qua các mặt như dân
cư đô thị, kinh tế đô thị, chính trị, văn hóa, xã hội của đô thị Lạng Sơn qua gần một
thế kỉ.
- Trên cơ sở đó làm rõ những thế mạnh thúc đẩy sự phát triển của Lạng Sơn,
luận án cũng đóng góp một số ý kiến nhằm kế thừa và phát huy mặt tích cực của đô
thị hóa góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lí và quy hoạch thành phố trong
giai đoạn hiện nay và tương lai.


10
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở mục tiêu đã đề ra như ở trên, đề tài hướng tới giải quyết các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Trình bày một cách có hệ thống về quá trình hình thành và phát
triển của thành phố Lạng Sơn, quá trình đô thị hóa ở thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng

Sơn từ năm 1925 đến năm 2012.
Thứ hai: Rút ra được những đặc điểm của quá trình đô thị hóa nói chung và
thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Thứ ba: Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình đô thị
hóa đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012.
Thứ tư: Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả chỉ ra đặc trưng của đô thị Lạng Sơn.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thành phố
Lạng Sơn. Trong đó chúng tôi tập trung nghiên cứu về sự ra đời, quá trình phát
triển của đô thị ở thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng sơn từ chức năng một “trấn
thành” đến một trung tâm đô thị và những đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội ở
thành phố Lạng Sơn.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Không gian nghiên cứu cuả đề tài là không gian lịch sử kinh tế - văn hóa - xã hội Lạng Sơn với trung tâm là thành phố Lạng Sơn. Trong quá
trình trình bày luận án thuật ngữ “thị xã Lạng Sơn nay là thành Phố Lạng Sơn” sẽ
có những cách gọi khác tương ứng được sử dụng trong các văn bản hành chính cả
chính quyền đương thời để phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Trong một số nội
dung phạm vi nghiên cứu có thể mở rộng ra địa bàn tỉnh để thấy được sự liên quan
mật thiết giữa thành phố Lạng Sơn với toàn tỉnh.
Về thời gian: Đề tài giới hạn chủ yếu trong thời gian từ năm 1925 đến năm
2012. Trong đó, năm 1925 là năm chính quyền thực dân Pháp đã ra Nghị định số
30431 về việc thành lập thị xã Lạng Sơn là trung tâm đô thị của tỉnh Lạng Sơn (theo
công điện của Chánh văn phòng Phó Thống sứ Bắc Kỳ về Nghị định thiết lập Lạng
Sơn - Thất Khê thành thị xã ngày 23/9/1925. Năm 2012, thành phố Lạng Sơn đã trải
qua 10 năm xây dựng và phát triển kể từ khi được công nhận là thành phố (giai


11
đoạn 2002 – 2012). Việc lấy mốc năm 2012 có thể chưa thật sự chính xác nhưng sẽ
giúp NCS thuận lợi hơn khi khai thác nguồn tư liệu.

Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu để để có cái nhìn toàn diện, luận án
còn đề cập khái quát một số vấn đềcủa thành phố trong phạm vi thời gian và không
gian rộng hơn.
Phương pháp nghiên cứu: Để tiếp cận đề tài “Quá trình hình thành và phát
triển thành phố Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012” là một đề tài rộng, cần nguồn tư
liệu khá lớn, đa dạng bởi vậy phương pháp đầu tiên được sử dụng nghiên cứu ở đây là
khai thác triệt để những tư liệu gốc như các tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, III,
Chi cục Văn thư Lưu trữ Lạng Sơn.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng là phương pháp lịch sử và phương pháp logic
Các phương pháp đa ngành, liên ngành: kết hợp giữa phương pháp lịch sử
với phương pháp điều tra xã hội học để xử lí các số liệu và thông tin liên quan.
Phương pháp khu vực học: Căn cứ vào thực tế khách quan của lịch sử và
điều kiện xã hội của địa phương để nghiên cứu.
Phương pháp điều tra khảo sát thực địa: Đối tượng chính của luận án là tập
trung nghiên cứu về thành phố Lạng Sơn nhưng việc nghiên cứu đặt trong mối quan
hệ với cả các huyện khác và cả tỉnh Lạng Sơn cũng là rất cần thiết, do đây là một
công việc hết sức quan trọng nên cần được tiến hành bằng các bảng câu hỏi điều tra
và phỏng vấn mà tác giả đưa ra.
4. Đóng góp của luận án
- Thứ nhất: Luận án trình bày một cách có hệ thống quá trình hình thành và
phát triển thành phố Lạng Sơn nói riêng cũng như mảnh đất Lạng Sơn nói chung.
- Thứ hai: Phục dựng lại một bức tranh toàn cảnh về thành phố Lạng Sơn từ
năm 1925 đến 2012 và thấy được những tác động cũng như ảnh hưởng của quá trình
đô thị hóa đến kinh tế - xã hội của thành phố Lạng Sơn.
Thứ ba: Tái hiện lại bức tranh toàn cảnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của thành phố Lạng Sơn. Qua đó chỉ ra những đặc điểm riêng mang tính
đặc thù trong quá trình phát triển của thành phố Lạng Sơn so với các thành phố
khác ở nước ta.
Thứ tư: Luận án còn cung cấp nguồn tư liệu mới, đáng tin cậy về thành phố
Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012, phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử

địa phương.
5. Bố cục Luận án


12
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận án được chia
thành 5 chương chính:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.
Chương 2. Thị xã Lạng Sơn từ khi thành lập đến ngày hòa bình lập lại (19251954).
Chương 3. Chuyển biến của thị xã Lạng Sơn trong những năm 1954-1975.
Chương 4. Chuyển biến của thị xã Lạng Sơn sau ngày thống nhất đất nước
và sự thành lập thành phố (1975-2002).
Chương 5. Thành phố Lạng Sơn qua 10 năm xây dựng, phát triển (2002-2012).


13

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về nguồn tư liệu
Để hoàn thiện luận án, tác giả đã sử dụng một số nguồn tư liệu liên quan trực
tiếp và gián tiếp đến đề tài như: tư liệu thành văn; tư liệu tranh ảnh, bản đồ, hiện
vật; tư liệu điền dã.
1.1.1. Tư liệu thành văn
Nguồn tư liệu là các văn kiện của các kì Đại hội Đảng, các nghị quyết, quyết
định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật; báo cáo và nghị quyết triển
khai, tổng kết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn và
của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Lạng Sơn, Ủy ban hành chính thị xã
Lạng Sơn cùng một số các báo cáo, quyết định của chính phủ Pháp thi hành trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn trước năm 1945. Ngoài ra còn có các số liệu, báo cáo

thống kê của chi cục thống kê và của các cơ quan, ban ngành của Trung ương và địa
phương có liên quan đến đề tài luận án.
Nguồn tư liệu là các công trình nghiên cứu của các tác giả ở trong và ngoài
nước, trong đó có các chuyên khảo đề cập đến vấn đề kinh tế, văn hóa của thành
phố Lạng Sơn; các kỷ yếu Hội thảo khoa học cùng các bài viết trên các tạp chí
chuyên ngành có liên quan đến đề tài luận án nghiên cứu.
Tư liệu lưu trữ
Nguồn tư liệu có liên quan trực tiếp đến đề tài được lưu giữ tại Trung tâm
Lưu trữ quốc gia. Trước tiên là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, tập trung chủ yếu ở
ba phông tài liệu lưu trữ là Fonds de la residenee Superieure au tonkin (Phủ Thống
sứ Bắc Kỳ), Phủ Toàn quyền Đông Dương và Nha kinh lược Bắc kì. Trong đó có
nhiều tư liệu quan trọng về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, sự thay đổi
địa giới hành chính của thành phố Lạng Sơn. Do đó có thể khai thác chủ yếu ở một
số dãy tài liệu sau: ở dãy tài liệu kí hiệu E (về tổ chức chính quyền địa phương) có
dãy tài liệu E2 (sự thay đổi địa giới hành chính với 68 hồ sơ), trong đó có một số hồ
sơ liên quan đến Lạng Sơn như hồ sơ 33306 có tiêu đề “Modificcations dans
lescirconsciptions administratius de la provice de LangSon” (sửa đổi các đơn vị


14
hành chính của tỉnh Lạng Sơn); hay tài liệu số 01025913, hồ sơ số 4049 với tiêu đề
“Asorganisation administrative et Suppession de la delegation de la provice de
LangSon” (về việc thay đổi hành chính và xóa bỏ địa lí tỉnh Lạng Sơn hay E02
(bảng tiểu dẫn các điều kiện kinh tế - xã hội). Ngoài ra tác giả luận án cũng tiến
hành khai thác tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, với các phông Văn
phòng Chính phủ, là phông tài liệu lưu trữ có giá trị trong thành phần phông lưu trữ
quốc gia Việt Nam. Đa số các tài liệu tác giả khai thác được đều là tài liệu gốc, hình
thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương.
Có thể kể tới một số hồ sơ như 708/17589, “Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng về
việc đổi tên các xã, huyện thuộc tỉnh Lạng Sơn”; hồ sơ 9420: “Báo cáo về tình hình lũ

lụt ở Lạng Sơn năm 1986”. Phông Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hồ sơ số 2054, “Quyết
định của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt đồ án thiết kế quy hoạch
chung xây dựng thị xã Lạng Sơn năm 1986-2000”……
Xuất phát từ nhu cầu phục vụ công tác sưu tầm nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn
các giá trị văn hóa lịch sử của tỉnh nhà. Thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân
tỉnh và thành phố Lạng Sơn cũng như sự quản lí trực tiếp của Sở văn hóa Thể thao
và Du lịch Lạng Sơn nên trong những năm gần đây Thư viện và Bảo tàng tổng hợp
tỉnh đã tiến hành dịch, sưu tầm, khai thác các tư liệu về tất cả các mảng đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…. Việc bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử đã tạo
sự thuận lợi hơn cho các nhà nghiên cứu nói chung và tác giả luận án nói riêng
trong công tác sưu tầm tư liệu.
Ngoài những tư liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, tác giả luận án đã khai
thác thêm những tư liệu lưu trữ khác tại Chi cục văn thư Lưu trữ tỉnh Lạng Sơn và
Phòng lưu trữ thành ủy thành phố Lạng Sơn, qua đó đã giúp cho tác giả những tư
liệu cần thiết liên quan đến nội dung luận án.
Nguồn tư liệu báo chí
Các tờ báo của Trung ương và Địa phương:
Trước hết là một số tờ báo dưới hình thức thông tin như Báo Bắc Kạn - Ty
thông tin Bắc Kạn số 83 (12/6/1950); Báo Hà Giang - Ty thông tin Hà Giang số 22,
28…; một số bản tin của Ty thông tin Thanh Hóa hay Ty thông tin Tuyên Quang; Ty
thông tin Thái Nguyên; Bản tin - tin tức - cơ quan của Quận chính thành phố Hà
Nội số 3 ngày 22/10/1954; hay Báo Cứu quốc - Cơ quan tuyên truyền kháng chiến
của tổng bộ Việt Minh; báo Liên khu I; báo Ninh Thuận; Báo Liên hiệp kháng chiến -


15
cơ quan tuyên truyền kháng chiến tỉnh hội Thanh Hóa; báo Việt Minh độc lập - cơ quan
tuyên truyền của Việt Minh - Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn; báo Lạng Sơn…đã
đăng tải nhiều thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội...của thành phố Lạng Sơn.
Các tạp chí chuyên ngành:

Trên các tạp chí chuyên ngành một số các bài viết có nội dung liên quan đến
đề tài luận án như “Một số nét về hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn” (Tạp chí ngân hàng, số 6-2004); “Lạng Sơn với phát triển kinh tế và
hội nhập” (Tạp chí Đông Nam Á, số 1-2005), “Khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh,
chặng đường 10 năm phát triển” (Tạp chí Đông Nam Á, số 2- 2007), “Các khu kinh
tế cửa khẩu biên giới Việt - Trung” (Tạp chí Cộng Sản, số 4-2007)…
1.1.2. Tư liệu tranh ảnh, bản đồ, hiện vật
Bao gồm tranh ảnh và bản đồ cũng là nguồn tư liệu hết sức quan trọng và
cần thiết cho tác giả luận án. Các tư liệu tranh ảnh, bản đồ hiện vật được khai thác
chủ yếu tại Bảo tàng thành phố Lạng Sơn và Thư viện tỉnh Lạng Sơn, với các danh
mục ảnh về con người, về phong tục tập quán, hệ thống các chợ ở Lạng Sơn, về diện
mạo thành phố Lạng Sơn… Ngoài ra còn có các nguồn ảnh tư liệu về lịch sử, kinh tế,
văn hóa, xã hội…của thành phố đăng tải trên các trang Web của Trung ương, địa
phương…
1.1.3. Tư liệu điền dã
Tác giả luận án đã trực tiếp điền dã, thu thập tư liệu tại nhiều nơi ở cả thành
phố và các huyện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Bao gồm khảo sát tại hệ thống các
chợ lớn ở thành phố Lạng Sơn như phố chợ Kỳ Lừa, chợ Đông Kinh, chợ Giếng
Vuông, chợ Chi Lăng, chợ Tân Thanh, chợ Đêm. Tìm hiểu lịch sử hình thành và
phát triển của các chợ gắn với sự ra đời và phát triển của đô thị Lạng Sơn qua các
hoạt động mua bán, thương mại… giữa người Việt với nhau, giữa người Việt với
người Hoa và người Pháp. Cùng với đó là khảo sát hệ thống sông ngòi như sông
Thương, sông Kỳ Cùng và các vấn đề về lịch sử, văn hóa, xã hội của một số phường
trên địa bàn thành phố nhằm bổ sung tư liệu thực tế cho đề tài luận án như: phường
Đông Kinh, phường Vĩnh Trại, phường Tam Thanh, Chi Lăng, Hoàng Văn Thụ….
1.2. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2.1. Những nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa ở Việt Nam
Những nghiên cứu trong nước
Có thể thấy rằng, từ trước đến nay cũng đã có khá nhiều những công trình
trên thế giới cũng như ở Việt Nam nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa. Ở Việt Nam

các đô thị cũng được hình thành từ khá sớm. Từ sau năm 1975, đã có một số công
trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về đô thị và đô thị hóa. Tại Việt Nam những


16
nghiên cứu đầu tiên về đô thị và quá trình đô thị hóa đã được tiếp cận dưới góc độ
sử học, trong đó chủ yếu là tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của các đô thị
của Việt Nam. Trước tiên phải kể đến cuốn “Đô thị cổ Việt Nam” (Viện Sử học Việt
Nam), xuất bản năm 1989. Đây là công trình tổng hợp nhiều bài nghiên cứu của
nhiều tác giả khảo cứu về các đô thị cổ trong lịch sử của Việt Nam như Hà Nội, Hoa
Lư, Phố Hiến, Hội An…[ ; ]ra đời và phát triển từ thế kỉ thứ III đến thế kỉ thứ XIX.
Những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề đô thị và đô thị hóa được mở rộng
nghiên cứu trên các lĩnh vực nhân học, kinh tế học như: cuốn “Đô thị Việt Nam”,
xuất bản năm 1995 của tác giả Đàm Trung Phường [80]. Sự ra đời của cuốn sách
này không chỉ cho thấy bước phát triển mới trong việc nghiên cứu đô thị mà còn về
vấn đề quy hoạch và phát triển đô thị ở Việt Nam. Nội dung sách gồm 4 chương
chính, trong đó có những vấn đề chung về đô thị, đánh giá thực trạng mạng lưới đô
thị, định hướng chiến lược phát triển đô thị của Việt Nam trong bối cảnh đô thị hóa
trên thế giới. Công trình này đưa ra cách tiếp cận mới về đô thị và đô thị hóa. Thứ
hai là công trình “Đô thị hóa tại Việt Nam và Đông Nam Á” (xuất bản năm 1995)
của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, đã đề cập đến tình hình và xu thế đô thị
hóa tại Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á; nhu cầu quản lí đô thị, bảo vệ
môi trường, tình trạng tăng dân số cơ học, các kinh nghiệm phát triển đô thị ở các
nước Đông Nam Á; về vấn đề môi trường nhân văn, môi trường văn hóa trong quá
trình đô thị hóa cũng như tiến trình đô thị hóa trong lịch sử, đồng thời giới thiệu một
số đô thị cổ ở nước ta cũng như trên thế giới [111].
Năm 1998, công trình nghiên cứu “Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của các tác giả Trần Ngọc Hiên, Trần
Văn Chử [51]. Cuốn sách đã đề cập đến những lí thuyết chung về đô thị. Trong đó con
người được đặt vào vị trí trung tâm, đồng thời đánh giá những tác động của công cuộc

công nghiệp thóa - hiện đại hóa tới quá trình đô thị và đô thị hóa; của các chính sách
tác động đến sự phát triển đô thị ở nước ta.
Bước sang những năm đầu thế kỉ XXI, khi vấn đề công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của nhân loại, vấn đề đô thị và tác động của đô
thị hóa càng được các nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt với nhiều cách tiếp cận
khác nhau trên các lĩnh vực văn hóa học, kinh tế học, xã hội học, nhân học, sử
học…
Năm 2000, cuốn “Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn” của các tác giả Nguyễn
Thừa Hỷ, Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đăng được xuất bản [60]. Với vai trò là một trung


17
tâm đầu não chính trị, tốc độ đô thị hóa của Hà Nội dưới thời Pháp thuộc được
chuyển biến nhanh chóng hơn so với các thế kỉ trước, cả về diện mạo và quy hoạch
đô thị. Quá trình đô thị hóa đã đem lại những chuyển biến về kinh tế, văn hóa, giáo
dục, hệ thống giao thông đô thị…
Năm 2002, hai tác giả là Tôn Nữ Quỳnh Trân, Nguyễn Thế Nghĩa (đồng chủ
biên) đã cho ra đời ấn phẩm “Phát triển Đô thị bền vững”[110], cuốn sách được
biên soạn với nội dung chủ yếu từ cuộc Hội thảo khoa học quốc tế: “Phát triển Đô
thị bền vững - Vai trò của nghiên cứu và giáo dục”, cuốn sách đã tập hợp nhiều bài
viết có nội dung mang tính lí luận chung và nghiên cứu những trường hợp cụ thể về
phát triển đô thị ở Việt Nam cùng các nước trên thế giới, những đặc thù và phương
hướng giải quyết theo nguyên tắc bền vững trong đô thị; năm 2004, Võ Kim Cương
đã cho ra đời cuốn “Quản lí đô thị thời kì chuyển đổi”[29], nêu lên một số vấn đề
cơ bản về quản lí đô thị trong thời kì chuyển đổi, phần hai là các bài viết của tác giả
được đúc kết trong quá trình tham gia quản lí đô thị.
Năm 2005, tác giả Đình Quang cho ra đời cuốn sách “ Đời sống văn hóa đô
thị và khu công nghiệp Việt Nam”, nội dung đi sâu vào nghiên cứu quá trình đô thị
hóa ở nước ta và trên thế giới hiện nay, về đời sống văn hóa đô thị, thực trạng văn
hóa - xã hội khu vực đô thị, cũng như khu công nghiệp cùng triển vọng đô thị hóa

Việt Nam và bối cảnh văn hóa thế kỉ XXI.
Cuốn “Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay” (2006) của tác giả
Nguyễn Thanh Tuấn [114], cung cấp cái nhìn mới về văn hóa trong đô thị, tác giả đi
sâu nghiên cứu: Đô thị và biến đổi văn hóa đô thị nói chung, trong thời kì đổi mới
cũng như thời kì hiện đại; những quan điểm và biện pháp điều tiết quá trình tiếp tục
biến đổi văn hóa đô thị.
Ngoài ra còn có các tác phẩm đã được Nhà xuất bản Xây dựng ấn hành như
Đỗ Hậu (2010), “Quản lí đất đai và bất động sản đô thị”. Trương Quang Thao
(2011), “Đô thị học, những khái niệm mở đầu”, đề cập tới năm khái niệm – chìa
khóa đi vào nghiên cứu đô thị học, đó là: đô thị, đô thị hóa, đô thị học, quy hoạch và
nhà đô thị cùng nhiều khái niệm phát sinh từ các thuật ngữ ấy [ ; ].
Năm 2012, tác giả Trần Hữu Quang đã cho ra đời tác phẩm “Hạ tầng đô thị
Sài Gòn buổi đầu” [82], trong đó đã khắc họa một bức tranh khái lược về quá trình
hình thành hạ tầng đô thị của thành phố Sài Gòn vào giai đoạn đầu của thời kì Pháp
thuộc, tìm hiểu lịch sử của đô thị Sài Gòn. Có thể nói một trong những điểm khác
biệt giữa đô thị hiện đại với làng xã trong nông thôn cổ truyền chính là điểm sau
đây: đô thị luôn luôn là nơi xuất hiện rất nhiều chuẩn mực hết sức cụ thể quy định


18
cả về không gian vật lí lẫn về quy cách sinh hoạt, với số lượng nhiều hơn và phức
tạp hơn nhiều so với làng xã ở nông thôn. Hay tác giả Nguyễn Sĩ Quế với cuốn
“Lịch sử đô thị” (xuất bản năm 2012), đề cập đến công tác quy hoạch đô thị của
một số nước trên thế giới cũng như các đô thị tiêu biểu thời kì cổ đại, phong kiến,
cận đại và một phần đô thị hiện đại Việt Nam. Là cơ sở khoa học trong việc phục vụ
nghiên cứu định hướng quy hoạch các đô thị mới, cũng như tôn tạo và phục hồi các
di sản của đô thị cũ [ ; ].
Năm 2013, tác giả Đăng Trường với “Đô thị thương cảng Phố Hiến” [112].
Nội dung chính được đề cập đến là thế kỉ XVII-XVIII, là thời kì hưng khởi của đô
thị cổ Việt Nam, nhiều đô thị xuất hiện và đạt được những thành tựu đáng kể, hàng

loạt các đô thị trở lên nổi tiếng trong đó có Phố Hiến, là một đô thị thương cảng
phát triển rực rỡ, một trung tâm đô hội rất nhiều ngành, mang diện mạo một đô thị
kinh tế, một tập hợp chợ, các thương điếm phương Tây.
Năm 2014, tác giả Đỗ Bang (chủ biên), thuộc Hội khoa học Lịch sử tỉnh
Thừa Thiên Huế đã cho ra đời cuốn sách “Đô thị Thừa Thiên Huế, tiến trình phát
triển và những giải pháp quy hoạch” [16]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các
tác giả khu vực miền Trung và Thừa Thiên Huế, nghiên cứu chủ yếu về tiến trình
phát triển đô thị qua các giai đoạn lịch sử, đúc kết bài học kinh nghiệm đưa giải
pháp quy hoạch thành thành phố loại I trực thuộc trung ương.
Năm 2015, tác giả Phan Xuân Biên (chủ biên) với “Xây dựng văn hóa đô thị
trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh” [20]. Nội dung chủ yếu đề
cập đến vấn đề đô thị hóa tác động mạnh đến kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân…ở Thành phố Hồ Chí Minh và những hệ quả, mà
đặc biệt là sự tác động đến nền văn hóa đô thị hiện nay.
Năm 2016, tác giả Nguyễn Văn Kim trong “Vân Đồn, thương cảng quốc tế
của Việt Nam”. Đây là công trình xuất bản dựa trên kết quả nghiên cứu của Đề tài
khoa học trọng điểm, Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình không chỉ làm rõ quá
trình hình thành và phát triển của đô thị, thương cảng Vân Đồn mà còn đạt đến
những nhận thức toàn diện, hệ thống về truyền thống khai thác biển, tư duy hướng
biển của người Việt trước đây cũng như hiện nay qua trường hợp Vân Đồn – Quảng
Ninh.
Những nghiên cứu của người nước ngoài
Ngoài những tác giả Việt Nam đi sâu nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa ở nước
ta, đặc biệt thời kì này còn có các tác giả người nước ngoài nghiên cứu chủ yếu về các
đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Có thể kể đến:


19
Tác giả André Masson (Pháp, 1929) với cuốn sách “Hanoi pendant la
periode heroique 1873-1888” (Dịch: Hà Nội giai đoạn 1873-1888, Lưu Đình Tuân

dịch, 2003), cuốn sách đã mô tả chi tiết những thay đổi của Hà Nội trong một thời
kì lịch sử đặc biệt khi đô thị này chuyển mình từ thành thị phương Đông sang một
đô thị theo kiểu châu Âu dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân Pháp.
Cuốn: “Hà Nội - chu kì của những đổi thay” (Mạc Thu Hương, Trương Quốc
Toàn dịch, 2003), cuốn sách tập hợp các bài viết của 22 tác giả chủ yếu là người
Pháp và có 3 tác giả người Việt Nam, cuốn sách gồm 5 phần: Mở đầu, Thăng Long;
Vùng đất sinh ra từ những dòng nước; Hình ảnh thành phố qua bản đồ; Ký ức lắng
đọng: từ những mô hình đô thị tới các công trình; Hình thái kiến trúc và tương lai
của thành phố.
Tác giả người Mỹ là Timothy M.Gorman (2008) trong “Nền kinh tế hàng ngày:
suy nghĩ lại về tính chất không chính thống ở Việt Nam” đã nghiên cứu về Hà Nội thời kì
đô thị hóa đã xuất hiện những người nông dân từ nông thôn vào thành phố để kiếm sống.
Qua đó tác giả cũng coi đó là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa.
Cũng trong năm 2008, tác giả người Mỹ nữa là Mike Douglass thuộc Trung
tâm Nghiên cứu đô thị hóa, Khoa Quy hoạch đô thị và vùng Đại học Hawaii trong
công trình “Đô thị hóa vùng ven Đông Nam Á: bỏ rơi không gian công cộng” đã
đưa ra kết quả nghiên cứu về những chuyển biến trong văn hóa đô thị, đó là một
cảnh quan hoàn toàn mới đang bao quanh các thành phố lớn ở Đông Nam Á, theo
tác giả thì toàn cầu hóa Đông Nam Á đang phát triển. Được xây dựng lên từ đất
nông nghiệp và làng mạc là những công trình xây dựng mới, bao gồm các khu đô
thị mới rộng lớn và những khu nhà ở biệt lập bên cạnh những trung tâm mua sắm là
những siêu thị bán lẻ và siêu thị ngoại ô mới xây, tất cả đều lớn về số lượng và quy
mô. Thành phố Hồ Chí Minh là một điển hình của sự biến đổi này. Tác giả cũng
khẳng định đô thị hóa tạo cho Hà Nội một diện mạo mới, mở rộng ra các vùng ven
đô theo cả chiều rộng và cao với những khu đô thị, khách sạn…Với những khu đô
thị mới như Bắc An Khánh, Nhà Bè, New City, Ciputra, Phú Mỹ Hưng…
Lisa Drummond (2008) trong “Đô thị hóa ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh”
đã nghiên cứu quá trình đô thị hóa ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có
những biến đổi một cách sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Song song với những tác
động tích cực của đô thị hóa như tăng trưởng kinh tế, đời sống văn hóa, vật chất và

tinh thần của người dân được nâng cao thì còn tồn tại nhiều mặt trái như chênh lệch
giàu nghèo, ô nhiễm môi trường ….


20
Các bài viết, hội thảo, luận văn, luận án
Trong những năm trở lại đây từ nhận thức đúng đắn để có thể phát huy
những tác động tích cực và hạn chế những hệ lụy do đô thị hóa gây ra, các nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đã nghiên cứu để đưa ra những khái niệm mới,
mô hình mới cho sự phát triển đô thị hóa bền vững. Ngoài các công trình kể trên
còn có một số bài viết hay một số đề tài của các tác giả được đăng trên các tạp chí
hay các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế và trong nước. Có thể kể đến bài viết của
tác giả Đào Thế Tuấn với “Đô thị hóa và đô thị hóa ven đô ở Hà Nội” trong “Phát triển
bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”. Tác giả Lê Quang Hậu với
bài “Vài nét về quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn thời kì 1954-1975”, trong cuốn “Phát
triển đô thị bền vững” (xuất bản năm 2002), đã đề cập đến quá trình đô thị hóa ở thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1975…
Năm 2016, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia
Hà Nội phối hợp với trường Đại học Hoa Đông của Thượng Hải (Trung Quốc), tổ
chức hội thảo quốc tế và cho xuất bản Kỷ yếu hội thảo về đô thị ở cả châu Á và
châu Âu: “Đô thị châu Á và châu Âu: Nghiên cứu so sánh” (Asian – European
cities: A comparative study)”. Cuộc hội thảo đã quy tụ được nhiều bài nghiên cứu
có chất lượng của nhiều nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước. Có thể tới một số
nghiên cứu nổi bật về đô thị như Prof. Wang Lei (Shanghai University of
Traditional Chinese Medicine) “Urban Dreams and Consequences of Urbanization:
Historical Reflections on the Emerging Cities in the Medieval Europe” (Những giấc
mộng đô thị và hệ quả của quá trình đô thị hóa: Góc nhìn lịch sử về những đô thị
trỗi dậy ở châu Âu trung đại); hay tác giả Detlef Briesen (Gießen University,
Germany/ USSH) “Cityscape in Europe and Southeast Asia. Ideas for a Systematic
Comparison” (Không gian đô thị châu Âu và Đông Nam Á: Những ý tưởng so sánh

hệ thống). Đỗ Thị Thanh Loan (USSH) trong “In Search of a Metropolitan Model:
Experiences from Tokyo Metropolis and Lessons for Hanoi City” (Nghiên cứu Mô
hình vùng đô thị: Kinh nghiệm từ đô thị Tokyo và bài học cho thủ đô Hà Nội)
…..Qua đó, cho thấy các tác giả đã có những cái nhìn và cách tiếp cận nghiên cứu
mới về vấn đề đô thị, những bài học kinh nghiệm được rút ra và vận dụng trong các
vấn đề về quy hoạch và quản lí đô thị ở việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu
vực hóa hiện nay.
Bên cạnh đó cũng phải kể tới những luận văn, luận án có nội dung liên quan
đến vấn đề đô thị hóa ở nước ta: Luận văn “Quá trình đô thị hóa ở Phú Minh (Phú
Xuyên - Hà Tây)” (1997) của tác giả Nguyễn Ngọc Hà cũng cho ta thấy rõ tốc độ đô
thị hóa diễn ra nhanh chóng tại nơi đây. Luận văn “Sự hình thành đô thị Hội An


21
trong lịch sử” của tác giả Tạ Thị Hồng Vân (2000), đã nêu lên quá trình hình thành
và phát triển đô thị thương cảng Hội An cùng những biến động do sự hình thành
thương cảng này. Luận văn “Quá trình đô thị hóa của Hà Nội thời Pháp thuộc
(1885-1945)” của tác giảNguyễn Hồng Chi (2010), đã nêu được quá trình đô thị
hóa ở Hà Nội trong gần 2 thế kỉ và sự chuyển biến quan trọng từ một đô thị truyền
thống phương Đông sang đô thị hiện đại kiểu phương Tây. Luận văn “Quá trình đô
thị hóa ở Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (1997-2012)” (2014) của tác
giả Dương Ngọc Hải đã tái hiện một cách khách quan quá trình đô thị hóa ở thành
phố Thủ Dầu Một, những yếu tố tác động, ưu và nhược điểm trong quá trình đô thị
hóa ở thành phố Thủ Dầu Một.
Bên cạnh những luận văn được bảo vệ thành công cũng có nhiều luận án tiến
sĩ trên một số lĩnh vực nghiên cứu về đô thị hóa. Có thể kể đến như:
Luận án của tác giả Nguyễn Thừa Hỷ với đề tài “Thăng Long - Hà Nội
thế kỉ XVII-XVIII-XIX” (1983), đây là bản luận án đi sâu nghiên cứu về kinh tế,
xã hội của Thăng Long - Hà Nội trong 3 thế kỉ trên phương diện thành thị trung
đại Việt Nam. Tác giả còn so sánh, đối chiếu cấu trúc và sự phát triển của

Thăng Long - Hà Nội với một số thành thị khác trên thế giới, chủ yếu là các
thành thị trung đại Tây Âu.
Có thể nói từ đầu thế kỉ XXI là thời kì nở rộ của các nghiên cứu về đô thị,
điều đặc biệt là những nghiên cứu này không chỉ dừng lại ở nghiên cứu các đô thị
lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh mà hàng loạt các đô thị khác cũng được
nghiên cứu. Năm 2000, tác giả Nguyễn Quang Hồng với đề tài “Thành phố Vinh,
quá trình hình thành và phát triển, từ năm 1908 đến trước cách mạng tháng Tám
1945” [54]. Luận án đã chỉ ra sự phát triển của các trung tâm đô thị Vinh, Bến Thủy,
Trường Thi và sự ra đời của thành phố Vinh - Bến Thủy, cùng với việc khái quát các
đặc điểm phát triển của thành phố Vinh trong hai hình thái tổ chức xã hội từ năm 1804
đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác giả Phạm Thị Tuyết (2011), đã bảo vệ
thành công luận án “Đô thị Hải Dương thời kì thuộc địa (1886 -1945)” [115] với nội
dung chủ yếu làm rõ Hải Dương từ một đô thị cổ phong kiến thành đô thị thuộc địa trên
tất cả các phương diện cùng quá trình nâng cấp lên thành phố.
Năm 2012, luận án “Từ hành cung Tức Mặc -Thiên Trường đến đô thị Vị
hoàng (thế kỉ XIII-XIX)” [44] của tác giả Trần Thị Thái Hà, đã trình bày rõ nét quá
trình hình thành, phát triển và chức năng của trung tâm Thiên Trường thế kỉ XIIIXIV của đô thị Vị Hoàng - Nam Định thế kỉ XV-XIX, phản ánh rõ nét những đặc


22
trưng của đô thị Vị Hoàng. Điều cần nhấn mạnh là, tác giả đã lý giải được vì sao,
Tức Mặc - Thiên Trường - Sơn Nam Hạ - Nam Định luôn trở thành trung tâm của
một xứ trong nhiều thế kỷ (từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX). Đó là do vị trí địa lý
trọng yếu mà đóng vai trò quan trọng là hệ thống giao thông sông, biển. Từ đây
thuyền bè có thể thuận tiện ra biển Đông, vào Nam, ra Thăng Long v.v. Đặc biệt là
các cửa biển Liêu, Lác dưới thời Nguyễn đóng vai trò hết sức quan trọng trong vận
tải và giao thông của quốc gia. Đô thị Vị Hoàng ra đời, hội tụ các yếu tố căn bản: từ
làng Vị Hoàng; từ trị sở của lộ Sơn Nam Hạ (1741) và từ hệ thống giao thông
đường sông và các cửa biển cho thuyền bè vào. Quá trình đô thị hóa làng Vị Hoàng
để trở thành đô thị Vị Hoàng, mặc dù có những đổi thay nhưng điều đặc biệt là đã

không làm cho làng Vị Hoàng bị tan biến mà vẫn tồn tại song song với phố Vị
Hoàng. Năm 2014, luận án “Thành phố Thanh Hóa, quá trình hình thành và phát
triển từ năm 1804 đến nay (2010)” [46] của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đã nghiên
cứu một cách có hệ thống về quá trình hình thành và phát triển của thành phố Thanh
Hóa từ khi thành lập đến 2010 với một bước chuyển. Từ một lỵ sở sang một đô thị
rồi một thành phố ở cửa ngõ Bắc Trung Bộ. Năm 2015, luận án “Thành phố Hải
Phòng từ 1888 đến 1945” [79] của tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương. Luận án tập
trung nghiên cứu vào quá trình hình thành và sự ra đời của thành phố Hải Phòng cùng
với sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Đồng thời cũng rút ra những
nhận xét về hình thái phát triển cũng như những đặc trưng của thành phố Hải Phòng
thời cận đại, vị trí và mối quan hệ với các vùng miền trong và ngoài nước.
Qua những công trình nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa có thể thấy rằng, ở
Việt Nam quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những biến đổi sâu sắc
về kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là những khu đô thị lớn.
Nhìn chung, các nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa ở Việt Nam trong giai
đoạn này tương đối nhiều, đặc biệt là giai đoạn từ sau năm 1975, những nghiên cứu
này được cả người Việt Nam và nước ngoài đi sâu nghiên cứu. Các nghiên cứu này
tập trung nghiên cứu ở các thành phố, các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, ở những thành phố, các đô thị khác, đặc biệt là với một thành phố
loại III trên địa bàn một tỉnh miền núi như ở Lạng Sơn thì trong giai đoạn này vẫn
chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu toàn diện, đầy đủ, mà mới chỉ dừng lại ở những
nghiên cứu trên một số mặt, một số lĩnh vực.
1.2.2. Các nghiên cứu về tỉnh Lạng Sơn và thành phố Lạng Sơn


23
Ngược dòng lịch sử, mảnh đất Lạng Sơn luôn gắn liền với vị thế là cửa ngõ
vùng biên ải, là con đường giao lưu kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội giữa các
triều đại quân chủ nước ta với các triều đại phong kiến Trung Quốc. Thành phố
Lạng Sơn lại là trung tâm của một vùng đất biên cương, nối liền từ vùng biên ải đến

kinh thành Thăng Long (thủ đô Hà Nội ngày nay), với vị trí địa đầu của tổ quốc lại
nằm trên con đường giao thông huyết mạch có từ rất lâu đời.Với vị trí trọng yếu
như vậy, ngay từ rất xa xưa, Lạng Sơn đã mang dấu ấn một đô thị với việc phát triển
song song, “đô” là hệ thống thành quách vừa mang ý nghĩa phòng thủ quân sự, vừa
mang tính chất bảo vệ dân sinh; “thị” là hình thức buôn bán, giao lưu kinh tế của
nhân dân các dân tộc Lạng Sơn với nét đặc trưng thể hiện qua phố chợ Kỳ Lừa đã
được hình thành và phát triển cho đến ngày nay.
Những nghiên cứu ở trong nước
Đô thị Lạng Sơn được ra đời từ khá sớm, có thể khẳng định rằng trấn lỵ
Đoàn thành vào cuối thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX đã có tính chất như một đô
thị được các thư tịch cổ nhắc tới. Tuy nhiên phải đến khi tác giả Nguyễn Nghiễm
với tác phẩm “Lạng Sơn Đoàn thành đồ” viết vào năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758)
mới có những ghi chép đầy đủ và cụ thể về mảnh đất Lạng Sơn cũng như việc xây
dựng Đoàn thành. Tác giả đã ghi rất rõ xung quanh trấn thành đã có nhiều chợ và
nhiều phố như phố Kỳ Lừa, phố Đồng Đăng. Đoàn thành Lạng Sơn nguyên trước là
trấn thành quân sự sau đã trở thành một đô thị, một trung tâm hành chính. Đến trước
năm 1945, thì “Lạng Sơn Đoàn thành đồ” là tác phẩm duy nhất nghiên cứu và ghi
chép một cách đầy đủ nhất về Đoàn thành Lạng Sơn [65].
Những nghiên cứu liên quan đến thành phố Lạng Sơn thời kì trước cách
mạng tháng 8 năm 1945 cho thấy, các công trình nêu trên đã cung cấp những khía
cạnh liên quan ít nhiều đến đề tài luận án. Chưa có công trình nghiên cứu nào của
các tác giả ở trong cũng như ở ngoài nước nghiên cứu một cách có hệ thống toàn
diện và đầy đủ về quá trình hình thành và phát triển của thành phố Lạng Sơn. Ở thời
kì sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là trong những năm 60 của thế kỉ XX,
mặc dù không nằm trong địa bàn thành phố nhưng các nhà khảo cổ Đức và Viện
khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện ra 3 di tích quan trọng thuộc thời kì tiền - sơ sử
ở Lạng Sơn đó là: hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lèng ở huyện Bình Gia
thuộc sơ kì đá cũ ở Việt Nam. Những tư liệu khẳng định từ Trung Kỳ Cánh tân trên
lãnh thổ Việt Nam đã xuất hiện người Vượn, đánh dấu mốc quan trọng trong sự tiến
hóa của nhân loại. Ngoài ra trên địa bàn thành phố cũng có hai di tích khảo cổ học

tiêu biểu là Mai Pha và Phai Vệ. Di tích khảo cổ học núi Phai Vệ thuộc phường


24
Vĩnh Trại, có vị trí trung tâm, phía Đông thành phố Lạng Sơn, ở đây các nhà khảo
cổ đã tìm thấy dấu vết cổ sinh vật. Năm 1914, người Pháp đặt tên cho đường qua
núi Phai Vệ là Đại lộ hang động. Di chỉ Mai Pha được phát hiện năm 1945, thuộc xã
Mai Pha thị xã Lạng Sơn khẳng định là nơi sinh sống của người tiền sử là một trong
những hợp nguồn tạo dựng văn hóa Việt cổ sau này. Với những nghiên cứu này đã
khắc họa được phần nào về mảnh đất, con ngườixứ Lạng.
Cuốn “Sơ thảo địa lí tỉnh Lạng Sơn” (1955) do các giáo viên Lạng Sơn, được
Ty Giáo dục tỉnh Lạng Sơn chỉ đạo biên soạn [121]. Nội dung chủ yếu của cuốn
sách nêu lên hoàn cảnh tự nhiên đặc biệt của vùng đất biên khu Đông Bắc và nhận
thấy, trước kia thời Pháp thuộc cũng như trong kháng chiến và hòa bình kiến thiết,
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, của Chính phủ,
nhân dân Lạng Sơn gồm nhiều thành phần dân tộc đã luôn làm tròn nhiệm vụ của
một vùng đất nơi địa đầu của tổ quốc.
Năm 1988, từ những nghiên cứu về Lạng Sơn đã được trình bày và tập hợp
tại cuộc Hội thảo khoa học xứ Lạng - Lạng Sơn năm 1986, Sở Văn hóa Thông tin
Lạng Sơn đã cho xuất bản cuốn “Tuyển tập Luận văn hội nghị khoa học xứ Lạng Lạng Sơn” (1988) [93], bao gồm các bài viết của các nhà nghiên cứu đã đề cập tới
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, từ cội nguồn đến hiện đại. Khắc
họa khá hoàn chỉnh bức tranh về con người, kinh tế, xã hội và văn hóa của vùng đất
xứ Lạng - Lạng Sơn
Trong những năm 90 của thế kỉ XX, những nghiên cứu về Lạng Sơn có
nhiều thành tựu đáng kể. Năm 1990, tác giả Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) cùng nhóm
soạn giả, cán bộ thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã cho ra đời cuốn sách
“Thị xã Lạng sơn xưa và nay” [62]. Cuốn sách đã phác họa rõ nét mảnh đất và con
người Lạng Sơn, nơi địa đầu của tổ quốc. Qua đó phần nào hiểu được về cả miền xứ
Lạng, với truyền thống văn hóa, truyền thống lịch sử được ghi chép lại qua các thời
kì châu lỵ, trấn, thành, tỉnh lỵ và thị xã. Đây được coi là công trình nghiên cứu một

cách đầy đủ và có hệ thống nhất về quá trình, hình thành và phát triển của thành phố
Lạng Sơn từ trước đến thời điểm cuốn sách được xuất bản, trong giai đoạn trước khi
Lạng Sơn được công nhận thành phố năm 2002. Cũng trong năm này Ủy ban Khoa
học - Kĩ thuật nhà nước, Viện các khoa học về Trái đất đã thực hiện chương trình đề
tài nhà nước “Điều tra tổng hợp tự nhiên - kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía
Bắc” trong đó có đề tài Nghiên cứu tổng hợp tự nhiên - kinh tế - xã hội tỉnh Lạng
Sơn”[3] với mục tiêu nhằm hướng vào sự phát triển nhanh nền kinh tế nước ta đến
năm 2000 bằng con đường đổi mới thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và không bị tụt
hậu so với các nước trong khu vực. Việc nghiên cứu, tổng hợp các điều kiện tự nhiên
- kinh tế - xã hội của 9 tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và Lạng Sơn nói riêng nhằm


25
đánh giá chính xác, đầy đủ các điều kiện trên. Qua đó có chiến lược phù hợp cho
những giai đoạn tiếp theo. Với đề tài nghiên cứu này đã cung cấp nhiều thông tin trực
tiếp phản ánh phần nào bức tranh về đời sống kinh tế - xã hội của thành phố Lạng Sơn
giai đoạn này.
Bên cạnh những nghiên cứu chung về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, lịch
sử của thành phố Lạng Sơn, còn có những nghiên cứu chuyên biệt của các đơn vị, tổ
chức, ban ngành của thành phố đã cung cấp cho tác giả luận án những tư liệu quý
báu về thành phố Lạng Sơn thời kì này. Cụ thể vào năm 1991, cuốn “Lịch sử phong
trào phụ nữ Lạng Sơn” (1930 - 1954) tập 1 xuất bản năm 1991. Năm 1992, Liên
đoàn Lao động tỉnh Lạng Sơn đã biên soạn cuốn “Lịch sử phong trào công nhân và
công đoàn Lạng Sơn”[67], với nội dung cơ bản là trình bày một cách có hệ thống
quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công nhân cùng với tổ chức Công
đoàn Lạng Sơn qua các thời kì lịch sử. Các cuốn sách “Lạng Sơn, lịch sử kháng
chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)” xuất bản năm 1995 [11], “Lịch sử Đoàn
và phong trào thanh niên Lạng Sơn (1930 - 1975)” (1996) [14], …. đã nêu lên
những đóng góp cuả công nhân, lao động, tổ chức công đoàn, thanh niên Lạng Sơn
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Bên cạnh đó Ban chấp hành Đảng bộ

tỉnh Lạng Sơn đã cho tổ chức biên soạn và xuất bản cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Lạng Sơn (1930 - 1945)” tập 1, tập 2 xuất bản năm 1996, hay cũng trong năm
này Tỉnh ủy Lạng Sơn cho chỉ đạo biên soạn cuốn “Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh
Lạng Sơn”.
Năm 1999, dưới sự chỉ đạo, tổ chức của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, sau
15 năm sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn (kể từ năm 1984), cuốn sách “Địa chí Lạng
Sơn”[132] đã được hoàn thành. Đây là một công trình khoa học có nội dung liên
quan đến nhiều vấn đề như vị trí địa lí, kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử và con
người, các huyện thị của tỉnh Lạng Sơn. Trong đó có những nội dung tác giả luận
án có thể kế thừa.
Từ năm 2000 trở lại đây những nghiên cứu về Lạng sơn tiếp tục có những
khởi sắc với cả những nghiên cứu tập thể và những công trình của các cá nhân. Năm
2001, Ban chấp hành Đảng bộ thị xã Lạng Sơn xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ thị
xã Lạng Sơn (1930 - 1954)” tập 1, tập 2. Đây là một công trình nghiên cứu được
thực hiện trong nhiều năm gắn với sự ra đời, những hoạt động cũng như sự tồn tại
và phát triển của Đảng bộ Lạng Sơn theo suốt chiều dài lịch sử từ khi có tổ chức
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đến năm 2000. Nội dung cuốn sách đã cung cấp
nhiều thông tin, tư liệu có giá trị quan trọng trong tiến trình lịch sử và phát triển của
Lạng Sơn. Năm 2002, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn đã tiếp tục chỉ đạo


×