Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng và những điểm mới theo Bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.52 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử pháp luật thế giới, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
một trong những chế định có sớm nhất của pháp luật dân sự. Trải qua các thời kì
lịch sử và ở những nước khác nhau, quy định về người phải bồi thường, cách thức
bồi thường, thiệt hại phải bồi thường cũng như mức độ bồi thường…có sự khác
biệt. Vấn đề này phụ thuộc vào quan điểm giai cấp, điều kiện kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Trong lịch sử pháp luật của nước ta nói riêng, dù dưới hình thức
nào thì cũng có thể nhận định chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất
hiện từ rất sớm. Ngày nay, do sự phát triển của xã hội, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng không còn được coi là hình phạt mà là nghĩa vụ, bổn
phận. Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của chế định bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong lý luận cũng như trong thực tiễn, em xin nghiên cứu về đề tài:
“căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. những điểm
mới của BLDS 2015 so với 2005”


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰVÀ
CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠINGOÀI HỢP ĐỒNG.....................................................................................2
1. Khái niệm trách nhiệm dân sự.........................................................................2
2. Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng..................3
II. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA VÀ DO
TÀI SẢN GÂY RA................................................................................................4
2.1 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành
vi trái pháp luật gây ra.........................................................................................4
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra..................................................................................4
2.1.2. Có hành vi trái pháp luật........................................................................5
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp


luật....................................................................................................................7
2.1.4. Có lỗi của người gây ra thiệt hại............................................................8
2.2 Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về căn cứ phát sinh bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng........................................................................10
2.3. Ví dụ minh họa về căn cứ phát sinh ngoài hợp đồng.................................14
KẾT LUẬN..........................................................................................................15


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN
SỰVÀ CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠINGOÀI HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm trách nhiệm dân sự
Khái niệm trách nhiệm dân sự
Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp lý giữa bên có quyền và bên có nghĩa
vụ xác định, tại đó bên có nghĩa vụ bị pháp luật cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ. Về
điểm này, Bộ luật Dân sự Pháp qui định “hợp đồng giao kết hợp pháp có giá trị
như luật đối với các bên giao kết” (Điều 134). Khoản 1 điều 302 Bộ luật dân sự
quy định: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ, thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.” Như vậy, người
vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi là trách nhiệm dân sự. Nếu các
bên thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình thì quan hệ pháp luật phát sinh
là quan hệ nghĩa vụ, còn trong trường hợp nghĩa vụ bị vi phạm, quan hệ phát sinh
sau đó là quan hệ trách nhiệm.
Tóm lại, trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi, áp dụng đối với chủ
thể vi phạm pháp luật dân sự để buộc chủ thể này phải khắc phục những tổn thất
đã gây ra.
Đặc điểm của TNDS
Như trên đã phân tích, TNDS được hiểu là một trách nhiệm pháp lý cho
nên nó sẽ mang những đặc tính nói chung của trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, vì
đây là TNDS nói riêng nên sẽ có những đặc điểm riêng biệt thuộc về TNDS

Thứ nhất: Căn cứ phát sinh TNDS phải là hành vi vi phạm pháp luật dân
sự: Đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự;
Thứ hai: TNDS là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản. Trong quan hệ
nghĩa vụ dân sự mục đích mà các bên hướng đến là lợi ích. Chính vì vậy, lợi ích


mà các bên hướng tới sẽ mang tính tài sản và đó là trách nhiệm bù đắp cho bên bị
vi phạm một lợi ích nhất định từ bên vi phạm
Thứ ba: TNDS là trách nhiệm của bên vi phạm trước bên có quyền, lợi ích
bị xâm phạm
Thứ tư: Chủ thể chịu TNDS ngoài người vi phạm nghĩa vụ còn có thể là
những chủ thể khác như: Pháp nhân, cơ quan, tổ chức, người đại diện theo pháp
luật cho người chưa thành niên…
Thứ năm: Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu có
thể là việc phải thực hiện nghĩa vụ, thực hiện đúng và thực hiện đủ nghĩa vụ và
nếu có thệt hại thực tế từ vi phạm đó thì sẽ phát sinh thêm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Thứ sáu: TNDS nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm.
2. Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng
+ Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản
hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút
về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán
được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại
phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín,
tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất
mà họ phải chịu.

+ Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật
trong trách nhiệm dân sự là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông
qua hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: Làm những việc mà pháp luật cấm,
không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn
pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.


+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là
nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu
có tính quy luật chứ không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của
hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ thể khi xảy ra
chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.

II. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA VÀ
DO TÀI SẢN GÂY RA
2.1 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do hành vi trái pháp luật gây ra
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản
do người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường
cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính
thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản
của cá nhân , tổ chức. trong trách nhiệm hình sự với một số tội có cấu thành hình
thức thì không đòi hỏi có hậu quả vật chất. Ngay với một số tội có cấu thành vật
chất thì trong một số trường hợp cá biệt, hậu quả chưa xảy ra nhưng do tính chất

của hành vi nguy hiểm có khả năng chưa gây hậu quả lớn cũng đã cấu thành tội
phạm hoặc ngược lại, đối với một số tội như tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc
vi phạm các quy định về an toàn giao thông thì phải có thiệt hại nghiêm trọng
mới cấu thành tội phạm. Nhưng trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có thiệt hại dù
không nghiêm trọng cung phải bồi thường. vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải
có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì
không phải bồi thường vì vậy, cần xác định thiệt hại:


+ Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là sự mất mát tài sản, giảm sút tài
sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn
liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật
chất của người bị thiệt hại;
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao
gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, bị giảm
sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe;
+ Tổn thất về tinh thần: Đời sống tinh thần là phạm trù rất rộng bao gồm
nhiều vấn đề và chỉ tồn tại đối với xã hội loài người như đau thương cảnh góa
bụa, mồ côi, sự xấu hổ…về nguyên tắc không thể trị giá được bằng tiền theo
nguyên tắc ngang giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được. Nhưng
với mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại về tinh thần, cũng như
moojtbieejn pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp luật,
BLDS quy định người xâm hại phải: “bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp
tổn thất về tinh thần” cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi cuẩ người
đó phải gánh chịu.
2.1.2. Có hành vi trái pháp luật
Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,tài sản là một quyền
tuyệt đối của công dân, mọi tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền
đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến
các quyền tuyệt đối đó. Bởi vậy, điều 584 BLDS quy định: “Căn cứ phát sinh

trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn


do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài
sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh
theo quy định tại khoản 2 Điều này.”
Việc “xâm phạm” mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình
sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư…
Hànhvi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. chủ thể
đã thược hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành
vi theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện các hành
vi đó. Ví dụ khi đang điều khiển phương tiện giao thông, có mộ em bé chạy ra
đường, khoảng cách giữa người chủ lái xe và em bé quá ngắn để có thể phanh
gấp để ngăn chặn tai nạn xảy ra. Khi đó, người lái xe đã lái rẽ sang đâm vào một
ngôi nhà ven đường, gây thiệt hị trị giá 2 triệu đồng. trong trường hợp này, hành
vi của người điều khiển xe không được coi là trái pháp luật bởi đây là tình thế cấp
thiết, người gây thiệt hại đã gây ra một thiệt hại nhỏ hơn so với hậu quả có thể
xảy ra. Tuy nhiên, khi vượt quá giới hạn của tình thế cấp thiết, người gây thiệt hại
vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. điều này được quy định rõ tại điều Điều
595. BLDS 2015: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá yêu cầu của

tình thế cấp thiết
1. Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu
của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại.
2. Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.


2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái
pháp luật
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi
trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại
điều 584 BLDS 2015. Hành vi xâm phạm tài sản, tính mạng là nguyên nhân, và
thiệt hại là hậu quả hành vi của hành vi đó. Tuy nhiên, xác định mối tương quan
nhân quả là vấn đề rất phức tạp. Phạm trù nguyên nhân và kết quả là cặp phạm
trù trong triết học. Nhân quả là mối liên hệ nội tại, khách quan, và tất yếu giữa
các sự vật hiện tượng cũng như xã hội, trong đó một là nguyên nhân và sau nó là
kết quả. Việc xác địnhmối quan hệ nhân quả chính là sự liên hệ khách quan đó.
Nguyên nhân bao giười cũng có trước kết quả và kết quả là hậu quả của nguyên
nhân. Xem xét mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội, trong đó con
người sinh sống và hoạt động phức tạp hơn nhiều so với các hiện tượng tự nhiên
khác. Vì vậy, việc xem xét chỉ có ý nghĩa khihanhf vi của con người là hậu quả
của hành vi đó được đánh giá dưới góc độ xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng tới
hành vi của con người , liên quan đến con người vào thời điểm có hành vi và hậu
quả xảy ra.
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó, cần phải xem xét, phân tích,
đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn
diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác dịnh
đúng trách nhiệm người gây ra thiệt hại.

2.1.4. Có lỗi của người gây ra thiệt hại
Lỗi hiểu theo góc độ luật học, từ xưa đến nay có nhiều học giả, trong đó có
các luật gia đã quan tâm nhận xét rất khác nhau trong việc xác định thế nào là yếu
tố lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng. Ví dụ như: Theo học thuyết cổ điển, lỗi định nghĩa là
“một hành vi bất hợp pháp có thể quy trách nhiệm cho người làm hành vi ấy”.
Hoặc như luật dân sự La Mã cũng như Luật dân sự; khoa học pháp luật dân sự


của các nước Châu Âu lục địa đều không đề cập đến trạng thái tâm lý của chủ thể
đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra khi xác định lỗi. Mà
theo Luật La Mã, lỗi (Culpa) là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu:
“Không có lỗi nếu như tuân thủ tất cả những gì được yêu cầu” Tuy nhiên, trong
phạm vi bài viết, lỗi được thống nhất hiểu là là trạng thái tâm lý của con người có
thể làm chủ, nhận thức được hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó mang
lại. Việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng khác với trách nhiệm hình
sự. Trong trách nhiệm hình sự, hình thức và mức độ lỗi có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải xác định kẻ phạm tội có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội.
Trong khi đó, đối với trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi và
mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Về nguyên tắc, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể lỗi đó là
lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Xung quanh vấn đề lỗi, một câu hỏi thường được đặt ra đó
là: Mọi trường hợp trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng đều tiên niệm có sự thiệt
hại, nhưng có phải mọi sự thiệt hại có đều phát sinh trách nhiệm không? Hay sự
thiệt hại đó còn cần phải do một lỗi gây ra? Về vấn đề này có hai quan điểm: một
quan điểm cố điển cho rằng phải có lỗi mới có trách nhiệm, một quan điểm khác
lại chủ trương trách nhiệm khách quan không cần điều kiện lỗi. Khuynh hướng
cổ điển đặt căn bản của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng trên ý niệm lỗi của

người gây ra thiệt hại cho người khác. Theo đó, lỗi là một trong bốn điều kiện
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà
gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi
thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi
của người gây thiệt hại. Đây cũng là quan điểm của Điều 604 BLDS: “Người nào
do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, …”Giá trị của khuynh hướng cổ điển khi đặt trách nhiệm trên nền
tảng lỗi là đã xác định phạm vi của tự do cá nhân: mọi người trong xã hội đều
được tự do hoạt động, sự tự do ấy chỉ bị giới hạn bởi quyền lợi của người khác;


vậy chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Song trong tình trạng kinh tế xã hội
ngày nay, khuynh hướng cổ điển nhiều khi tỏ ra chật hẹp và không che chở được
một cách có hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại
cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Thực vậy, trong
trường hợp thiệt hại xảy ra mà không có ai chứng kiến, hoặc xảy ra mà không do
lỗi của ai cả, nếu buộc nạn nhân phải dẫn chứng lỗi, tức là gián tiếp bác bỏ quyền
đòi bồi thường của nạn nhân. Ngoài ra khuynh hướng cổ điển cũng không giải
thích được trách nhiệm của người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi
về các thiệt hại do họ gây ra. Khuynh hướng thứ hai đó là khuynh hướng chủ
trương trách nhiệm khách quan, không cần điều kiện lỗi. Khuynh hướng này đặt
ra trách nhiệm khách quan cho người gây ra thiệt hại, do đó, trong mọi trường
hợp, người này đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Khuynh hướng này cũng
không thỏa đáng vì bảo đảm sự bồi thường cho nạn nhân trong mọi trường hợp
không hẳn là một giải pháp ích lợi cho xã hội. Trên lập trường lợi ích công cộng
còn phải quan tâm đến quyền tự do hoạt động của cá nhân, nếu thừa nhận sự bồi
thường mà không đòi hỏi lỗi, mọi sự hoạt động của cá nhận sẽ bị tê liệt vì ai nấy
đều không khỏi e sợ gây thiệt hại phải bồi thường mặc dầu không phạm lỗi. Từ
những lập luận trên, cùng với thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan

nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng
cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về
tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ
nạn nhân Bộ luật dân sự Việt Nam được xây dựng trên cơ sở dung hòa cả hai
khuynh hướng trên. Bên cạnh những điều khoản quy định yếu tố lỗi là một trong
những điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, BLDS Việt Nam cũng áp dụng chế độ trách nhiệm khách quan đối với
các thiệt hại do tác động của các phương tiện cơ giới, của súc vật và vật vô tri
thức khác. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp có
thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Ví dụ tại Khoản 3 Điều 627 quy định
là: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy


hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi”. Hoặc Điều 624
quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người
gây ô nhiễm môi trường không có lỗi.” Khi xác định lỗi trong bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, cần phải phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác,
không thuộc hành vi do lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra.
2.2 Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về căn cứ phát sinh
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hai
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác…
Bộ luật dân sự 2005 quy định:
Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,

danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật dân sự 2015, một trong những căn cứ
làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật”
và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ luật
dân sự 2015 về “Trách nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong
trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây thiệt
hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài


hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải Bồi thường thiệt
hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa
vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm Bồi thường
thiệt hại. Về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, Bộ luật dân sự 2015 đã được sửa đổi và có sự tiến bộ so với Bộ luật dân sự
2005. Cụ thể, khoản 1 Điều 584 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy, trong Bộ luật dân sự 2015, căn cứ
xác định trách nhiệm Bồi thường thiệt hại là “hành vi xâm phạm của người gây
thiệt hại”. Theo quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự 2005, trách nhiệm Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng yêu cầu người gây thiệt hại phải có “lỗi cố ý hoặc
vô ý”. trái pháp luật, người bị thiệt hại cần phải chứng minh người gây thiệt hại có
lỗi. Bộ luật dân sự 2015 đã quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho người bị thiệt hại. Theo đó,
trách nhiệm Bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các điều kiện:

+Có thiệt hại xảy ra:.
+ Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
+Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Ngoài ra, Bộ luật dân sự 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng trách nhiệm
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ luật dân sự 2005 quy định về các đối
tượng bị xâm phạm trong căn cứ phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại theo
hướng liệt kê. Cụ thể, khoản 1 Điều 604 quy định: “Người nào có lỗi cố ý hoặc
vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Với quy định như trên, đối với cá nhân, Bộ luật dân sự 2005 có phạm vi
điều chỉnh rất rộng. Tuy nhiên, đối với pháp nhân, Bộ luật dân sự 2005 chỉ liệt kê


ba đối tượng bị xâm phạm là “danh dự, uy tín, tài sản”.Quy định mới tại khoản 1
Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 đã khắc phục được nhược điểm trên, theo đó, đối
tượng bị xâm phạm làm phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại của cá nhân
và pháp nhân bao gồm “tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác”.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì một trong những điều kiện để
phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại là có lỗi của người gây thiệt hại. Tuy
nhiên, điều này sẽ là không hợp lý với những trường hợp thiệt hại là do tài sản
gây ra. Bởi vì, theo lý luận về Nhà nước và pháp luật thì lỗi là yếu tố chủ quan
thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình và hậu quả do
hành vi đó gây ra. Vậy thì, không thể tìm kiếm được yếu tố lỗi trong trường hợp
tài sản - một vật vô tri, vô giác - gây ra thiệt hại. Bộ luật dân sự 2015 đã khắc
phục được thiếu sót này khi bổ sung thêm căn cứ phát sinh trách nhiệm Bồi
thường thiệt hại là “tài sản gây thiệt hại”. Cụ thể, khoản 3 Điều 584 quy định:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm Bồi thường thiệt
hại trong trường hợp tài sản gây thiệt hại”. Sự bổ sung của Bộ luật dân sự 2015

đã sát thực tế hơn và tạo nên sự thống nhất trong quy định về thực tiễn áp dụng
pháp luật, góp phần làm ổn định và lành mạnh hóa các quan hệ pháp luật dân sự.
Vậy, trong trường hợp nào tài sản gây ra thiệt hại và không liên quan đến
hành vi của con người? Đó là những trường hợp mà tài sản gây ra thiệt hại nhưng
lại không chứng minh được lỗi của bất kỳ chủ thể nào: Không có lỗi cố ý cũng
như vô ý. Những tài sản mà trong quá trình tồn tại hoạt động của chúng, có khả
năng gây thiệt hại bất cứ lúc nào cho những người xung quanh, nguy cơ, tiềm
tàng gây thiệt hại đó vượt khỏi sự kiểm soát của con người, tức là tự thân các tài
sản này gây ra thiệt hại cho người khác mà không phải do lỗi của người quản lý,
sử dụng. Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại được
phát sinh dựa trên các điều kiện: Có thiệt hại xảy ra; tài sản gây ra thiệt hại xâm
phạm đến những lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ như tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác; có mối quan hệ nhân quả giữa sự tác động của tài sản và thiệt hại xảy ra.


Bộ luật dân sự 2015 đã quy định phạm vi điều chỉnh trong trường hợp đối
tượng tài sản gây ra thiệt hại. Các quy định của Bộ luật dân sự 2015 đã khái quát
các trường hợp khi đối tượng gây ra thiệt hại là tài sản. Các trường hợp tài sản
gây ra thiệt hại được điều chỉnh đó là súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây
dựng và nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu gây ra thiệt hại thì trách nhiệm BTHT sẽ
được áp dụng dựa trên căn cứ là tài sản gây thiệt hại chứ không phải là hành vi
trái pháp luật.
Ngoài ra, trong từng trường hợp bồi thường cụ thể, Bộ luật dân sự 2015
cũng đã có sự sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất giữa tiêu đề của điều luật và
nội dung của điều luật và mở rộng phạm vi áp dụng điều luật liên quan. Cụ thể,
Điều 604 - Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra, bỏ điều kiện “do cây cối đổ,
gẫy gây ra”. Như vậy, điều luật sẽ có phạm vi áp dụng cho tất cả những trường
hợp thiệt hại do cây cối gây ra chứ không chỉ khi cây “đổ, gẫy”. Hoặc Điều 627 Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra, thay nội dung
“phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp

đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác” thành “phải bồi thường thiệt
hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác”. Điều
luật sẽ áp dụng cho mọi trường hợp nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt
hại chứ không chỉ trường hợp thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra khi “bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở”.
Qua việc phân tích một số điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 về căn cứ
phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có thể thấy, BLDS
2015 đã sửa đổi khá hoàn chỉnh những hạn chế cũng như bất cập của các quy
định liên quan đến vấn đề này. Ngoài ra, BLDS 2015 cũng bổ sung nhiều điểm
mới rất tiến bộ và hợp lý so với các quy định trong BLDS 2005.
2.3. Ví dụ minh họa về căn cứ phát sinh ngoài hợp đồng
Tình huống: Ông A mới mua một chiếc xe máy trị giá 27 triệu. Ông mang chiếc
xe đi bọc yên, lắp một số thiết bị phụ cho xe hết 1 triệu hai, về đến nhà ông dựng
xe trước hiên. Anh C chủ sơ hữu của chiếc xe ô tô mang biển số 29H XXX đang


lưu thông trên đường, do anh C ngủ gật, xe mất lái đã lao lên hè nhà ông A và cán
nát chiếc xe máy ông A mới mua.
Xét ví dụ có thể thấy các căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ có thiệt hại xảy ra: thiệt haijddax hoàn toàn xảy ra bởi chiếc xe máy mới mua
của ông A đã bị anh C cán nát bỏi lí do ngủ gật khi đang điều khiển xe. Đây là
một tổn thất thực tế, xâm phạm đến tài sản của ông A. tài sản của ông A hiện tại
đã bị thiệt hại trị giá 27 triệu đồng bởi chiếc xe máy mới mua, còn nguyên giá trị.
Do vậy, nghĩa vụ bồi thường đã phát sinh khi có thiệt hại xảy ra.
+ lỗi của người gây thiệt hại: trong trường hợp trên, hành vi của C được xác định
là lỗi vô ý. Trong trường hợp này, có thể thấy, luật bắt buộc C phải biết được
hành vi của mình là nguy hiểm có thể dẫn đến tai nạn, tuy nhiên C vẫn ngủ gật
làm cho hậu quả xảy ra và không ngăn chặn được. tình huống trên không nói rõ
việc C có năng lực hành vi dân sự hay không thì ta mặc nhiên Claf người có năng
lực trách nhiệm hành vi dân sự. đủ điều kiện để điều khiển xe ô tô.

+ có mối liên hệ nhân quả xảy ra: nguyên nhân để dẫn tới hành vi gây thiệt hại
của C là do ngủ gật. điều 584 BLDS quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Xét trong trường hợp của C,
C đã xâm phạm tới tài sản của ông A do vậy, C phải chịu trách nhiệm bồi thường
về hành vi của mình gây ra.


KẾT LUẬN
Như vậy thông qua việc nghiên cứu tìm hiểu về các căn cứ phát sinh bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng giúp ta thấy được tầm quan trọng của việc làm rõ
các căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong quá trình giải
quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong thực tiễn. Đồng thời giúp các
nhà làm luật các cơ quan chức năng xây dựng hoàn thiện, bịt kín các sơ hở của
các quy định trong việc giiair quyết các vụ việc có liên quan đến bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Trường Đại Học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân.
2. Phùng Trung Tập, luật dân sự Việt Nam, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, NXB công an nhân dân.
3. Phạm Văn Tuyết,hướng dẫn môn học Luật dân sự tập 2, NXB Tư pháp.
4. />5. />6. />


×