Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu Luận Phân tích mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong hành vi của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.8 KB, 12 trang )

Phục Lục
Trang
MỞ ĐẦU
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ Ý THỨC VÀ VÔ THỨC ………. 2
1. Tìm hiểu chung về ý thức và vô thức …………………………….. 3
1.1. Các khái niệm cơ bản ……………………………………………... 3
1.2. Vai trò của ý thức và vô thức trong cuộc sống ………………… 5
1.2.1. Vai trò của ý thức ……………………………………………….. 5
1.2.2. Vai trò của vô thức ……………………………………………… 5
II. MỖI QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC VÀ VÔ THỨC, NHỮNG
ỨNG DỤNG THỰC TIỄN …………………………………………… 6
2.1. Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi
vô thức. …………………………………………………………………. 7
2.2. Ý thức có thể giải tỏa, biểu hiện thông qua vô thức. ………………7
2.3. Ý thức và vô thức có thể chuyển hóa cho nhau. ………………….. 9
III. KẾT LUẬN ………………………………………………………... 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………. 12


MỞ ĐẦU
Đời sống tâm lý ở con người rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Đây luôn
là vấn đề được nhiều người quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu. Trong đời sống
tâm lý của con người, những hiện tượng tâm lý được ý thức đóng vai trò quan
trọng trong cuộc sống. Ý thức điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người, giúp
cho con người dễ dàng hòa nhập với xã hội và thành công trong những hoạt động
của mình. Song không ít người không biết hoặc không quan tâm nhiều đến vô
thức, một hiện tượng tâm lý có mối quan hệ chặt chẽ với ý thức. Để hiểu rõ hơn
về vô thức và mối quan hệ của vô thức với ý thức, em xin chọn làm đề tài:
“Phân tích mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong hành vi của con người”.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ Ý THỨC VÀ VÔ THỨC


2


1. Tìm hiểu chung về ý thức và vô thức
Để phân biệt các hiện tượng tâm lý, ta chia nhận thức thành hai cấp độ: ý
thức và vô thức.
1.1. Các khái niệm cơ bản
* Khái niệm ý thức
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống riêng,tồn
tại tách biệt vật chất thậm chí quy định, sinh ra vật chất.
Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật chất.
Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy được ý thức phản ánh thế giới
kháchquan, đã chỉ ra được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc xã hội
và vai trò xã hội của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa, phát triển, khắc tục những quan
niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức.
Theo chủ nghĩa Mác – Lên nin: Ý thức là sự phản ánh mang tính năng
động và sáng tạo của hiện thực khách quan vào óc người. Ý thức phụ thuộc vào
năng lực phản ánh của chủ thể, tâm trạng của chủ thể phản ánh và mục đích phản
ánh.
Tóm lại ý thức được hiểu là năng lực hiểu được các tri giác về thế giới
khách quan mà con người tiếp thu được và năng lực được thế giới chủ quan trong
chính bản thân mình nhờ đó con người có thể cải tạo thế giới khách quan và hoàn
thiện bản thân mình.
Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và xã hội:
Nguồn gốc tự nhiên:
Ý thức là đỉnh cao trong sự tiến hoá một loại thuộc tính chung mà mọi
dạng vật chất đều có là thuộc tính phản ánh.
Phản ánh là khái niệm dùng để chỉ khả năng và năng lực thực tế của hệ
thống vật chất này có thể tái tạo được một số đặc điểm, thuộc tính của hệ thống

vật chất khác khi chúng tác động qua lại với nhau.
Nguồn gốc xã hội:
Trong lao động và thông qua lao động mà các giác quan phản ánh của con
người ngày càng hoàn thiện hơn. Bằng lao động con người tác động vào sự vật
làm bộc lộ ra thuộc tính ẩn dấu bên trong nhờ vậy con người phản ánh được cái
thuộc tính ấy. Chính hiểu biết đó tạo nên nội dung căn bản của hiểu biết của con
người về sự vật.
Ngôn ngữ giúp con người phản ánh gián tiếp sự vật, truyền đạt hiểu biết
cho nhau, cho các thế hệ sau, nhờ vậy nhận thức của con người về sự vật ngày
càng phong phú sâu sắc hơn.
* Khái niệm vô thức
3


Vô thức là loại hiện tượng tâm lý trong đó chủ thể không có nhận thức,
không tỏ được thái độ và không thể thực hiện được sự kiểm tra có chú ý đối với
chúng. Nói cách khác, vô thức bao gồm những hiện tượng tâm lý mà ở đó ý
thứckhông thực hiện được chức năng của mình.
Ví dụ điển hình của vô thức như: Buổi tối khi ngủ A thường bị mộng du
như tỉnh dậy đi một vòng quanh nhà sau đó lại tiếp tục vào phòng và ngủ... mà
sáng tỉnh dậy thì A không hề nhận thức được mình mộng du như thế nào. Chỉ có
người nhà mới biết được A khi ngủ thường có hiện tượng mộng du.Trong ví dụ
trên ta gặp hiện tượng tâm lí trong khi ngủ, đó là hiện tượng mộng du. Đây là một
trong số những hiện tượng tâm lí diễn ra trong trạng thái thần kinh bị ức chế. Nó
có những đặc trưng trái với những hiện tượng tâm lí được ý thức, thể hiện ở
những đặc điểm sau: Trước hết đó là tính không được nhận thức. Hiện tượng
mộng du diễn ra khi con người ta đang ngủ. Khi ngủ thì mọi cơ quan trong cơ thể
A đang ở trạng thái nghỉ cho nên A không hề có nhận thức hiện tượng mộng du
đang diễn ra, không hề biết rằng mình đang bị mộng du. Đặc trưng thứ hai là A
không thể hiện được thái độ của mình khi hiện tượng đó đang diễn ra. Do không

nhận thức được nên không thể thể hiện được thái độ của mình đối với việc mộng
du. A không chủ ý “mộng du”, không thể hiện được cảm xúc của mình ( thích hay
không thích ). Hiện tượng này diễn ra như ngẫu nhiên vào lúc A ngủ do đó A
không thể nhớ được gì và không thể thực hiện được sự kiểm tra có chúý đối với
hiện tượng đó. Đây là đặc trưng thứ ba.Như vậy hiện tượng mộng du trong ví dụ
trên là hiện tượng vô thức.
Vô thức có 4 đặc điểm sau:
Con người không nhận thức được hiện tượng tâm lý, hành vi, cảm nghĩ của
mình.
Con người không thể đánh giá, kiểm sóat được về hành vi, ngôn ngữ, cách
cư xử của mình.
Vô thức không kèm theo dự kiến trước, hành vi không có chủ định. Sự xuất
hiện hành vi vô thức thường bất ngờ, đột ngột, xảy ra một thời gian ngắn.
Hình ảnh tâm lý trong vô thức có thể có cả quá khứ, hiện tại và tương lai
nhưng chúng liên kết với nhau không thao quy luật hiện thực.
Các hiện tượng vô thức.
- Hiện tượng quên là biểu hiện của sự không tái hiện được nội dungđã ghi
nhớ trước đây vào thời điểm nhất định. Ví dụ: Quên mất khuôn mặtmột người đã
lâu không gặp, quên mất hôm qua mình đã học những gì.
- Sực nhớ là hiện tượng mà bất chợt con người nhớ lại về một sự vậtđã bị
lãng quên. Ví dụ: Sực nhớ ra ngày mai mình phải nộp bài tập, sực nhớ ramình
chưa tắt bếp khi ra khỏi nhà.

4


- Bản năng là tổng hòa các thành tố bẩm sinh của hành vi, tâm lý conngười
và động vật; là sự say mê, các hành vi bột phát hoặc là những phản xạkhông điều
kiện. Ví dụ: Bản năng sinh sản, phản xạ tiết nước bọt.
- Lóe sáng là hiện tượng mà bất chợt có người nhận ra nó. Ví dụ:Nhà vật lý

học Ác-si-mét phát hiện ra lực đẩy dưới nước khi đang ngâm mìnhtrong bồn tắm
- Linh cảm là hiện tượng một quyết định hay một ý nghĩ xuất hiệntrong
điều kiện thiếu thông tin, nghĩa là bằng con đường lập luận logic thìkhông thể có.
Ví dụ: Trong giờ kiểm tra bài cũ, M linh cảm rằng mình sẽ bịgọi lên bảng.
- Tiềm thức là những hiện tượng vốn ban đầu được ý thức nhưng sauđó bị
đẩy xuống hoặc chìm sâu vào trong tâm thức, thỉnh thoảng trong điềukiện nào đó
mới được ý thức. Ví dụ: Kỹ xảo, thói quen...
- Tiền ý thức là hiện tượng mà con người chỉ mang máng, mơ hồ, không
rõvì sao. Ví dụ: T cảm thấy nhớ nhớ một ai đó, lúc nhớ lúc không, không rõ
vìsao.h. Các hiện tượng tâm lý diễn ra trong trạng thái hệ thần kinh bị ức chế.
Vídụ: Giấc mơ, mộng du, mê sảng, nói nhảm..
1.2. Vai trò của ý thức và vô thức trong cuộc sống
1.2.1. Vai trò của ý thức
Ý thức và vô thức có vai trò quan trọng trong cuộc sống. Chức năng của ý
thức bao gồm những gì chúng ta nhận biết một cách tự giác, những điều chúng ta
tự nguyện và hiểu rõ "một cách có ý thức" rằng chúng ta nên làm, dựa trên cơ sở
nhận thức lý tính, tri thức, giá trị, lô-gíc và các giác quan thông thường.
Ý thức cho phép chúng ta lựa chọn những gì chúng ta lĩnh hội, tập trung và
kiểm soát được.
Ý thức giúp chúng ta ghi nhớ và cho phép chúng ta chỉ quan tâm đến
những gì liên quan đến mình, loại trừ những thông tin không cần thiết.
Ý thức cũng giúp chúng ta biết dừng lại, phản ánh, suy ngẫm về bản thân
và sử dụng những bài học trong quá khứ để cân nhắc những hồi đáp khác nữa,
đánh giá và hình dung được hiệu quả của chúng trong tương lai.
1.2.2. Vai trò của vô thức
Tích cực
Vô thức giúp ta thỏa mãn, giải tỏa được một số nhu cầu trong cuộc
sống,đặc biệt là những hành động mang tính bản năng, những phản xạ khôngđiều
kiện. Ví dụ: Tiết nước bọt giúp ta tiêu hóa thức ăn dễ dàng hơn... Vô thức đôi khi
đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều khiển,thúc đẩy hành vi tích

cực của con người. Ví dụ: Khi A linh cảm mình sẽ bị kiểm tra, A sẽ ý thức được
rằng mình cần ôn lại bài để đạt được điểm tốt.
Sự quên giúp con người quên đi những thứ không cần thiết để giảm tải bộ
nhớ, tránh việc căng thẳng quá tải hoặc tránh sự ảnh hưởng từ những kýức buồn
5


trong quá khứ. Ví dụ, ta sẽ chỉ nhớ những thứ đã được “tạo vết”và có ý nghĩa
nhất định với mình trong cuộc sống, và quên đi những thứkhông liên quan đến ta.
Vô thức nhiều khi giúp con người có những phát minh mới, những định
luật mới để phục vụ cuộc sống. Ví dụ: Niu-tơn đã phát hiện ra định luậtvạn vật
hấp dẫn khi nằm dưới gốc cây táo và tình cờ nhìn thấy một quả táo rụng rơi
xuống đất và định luật đó có ý nghĩa đến tận ngày nay.Đối với những người
hoạt động trong ngành Luật nói chung, vô thức có vai trò quan trọng. Qua phân
tích các hành vi biểu hiện ở trạng thái vôthức giúp ta hiểu được các hiện tượng
tâm lí. Ví dụ, nhờ sự vô tình của bị cáo khi khai báo thể hiện qua hành động,
ngôn ngữ, các nhà điều tra có thể xác định được hung thủ của vụ án. Hoặc nhờ
linh cảm, thẩm phán có thể tin rằng bị cáo hoàn toàn không có tội, từ đó đưa ra
những quyết định sáng suốt, chẳng hạn như dừng phiên tòa để tiếp tục điều tra
hoặc sử dụngmột số biện pháp khác.
Trong lĩnh vực pháp lý vô thức đóng vai trò quan trọng trong việc điều
chỉnh, điều khiển hành vi con người, qua phân tích các hành vi biểu hiện ở trạng
thái vô thức giúp ta hiểu được các hiện tượng tâm lý (thái độ, suy nghĩ,… của con
người).. Ví dụ: nhờ linh cảm, Thẩm phán Tòa án có thể tin rằng bị cáo vô tội, từ
đó đưa ra những quyết định đúng đắn, như tạm dừng phiên tòa để tiếp tục điều
tra. Ví dụ: Vụ án Tô Đông Pha.
Tiêu cực
Vô thức nhiều khi khiến con người hành động một cách bản năng, tráivới
các quy định hoặc phép tắc. Hiện tượng này xảy ra phổ biến ở trẻ em,đặc biệt là
các em nhỏ.

Sự quên nhiều khi khiến con người quên đi những điều quan trọng,
nhữngthứ có ý nghĩa trong cuộc sống.
Linh cảm chưa hẳn đã là chính xác. Nhiều khi linh cảm sai sẽ dễ dẫn
đếnnhững quyết định sai.
Từ những vai trò nêu trên của vô thức, ta cần vận dụng vô thức để phát
huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của vôthức. Ví
dụ như nên quên đi những việc không cần thiết, hành động cần kết hợp giữa ý
thức với vô thức, chú ý tới những hành động vô thức khichúng có ý nghĩa nhất
định... hoặc không quá tin tưởng vào linh cảm,không nên quên những việc quan
trọng, có ý nghĩa.
II. MỖI QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC VÀ VÔ THỨC, NHỮNG ỨNG
DỤNG THỰC TIỄN
Ý thức và vô thức là hai lĩnh vực, hai hình thức, hai cấp độ phản ánh trong
đời sống. Nhưng ý thức và vô thức có mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp: vừa
xung đột, kiềm chế, vừa bổ sung, hỗ trợ, chuyển hóa cho nhau.

6


2.1. Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi vô thức.
Có nghĩa là, trong mỗi hành vi của con người, nếu con người vẫn đang
thực hiện khả năng ý thức của mình thì con người có thể kiềm chế, kiểm duyệt
hành vi được thúc đẩy bởi cái vô thức.
Chẳng hạn, ngồi trong lớp học nóng nực, chúng ta muốn đi ra ngoài chơi
cho thoải mái, nhưng nhờ ý thức được nghĩa vụ của bản thân và những hậu quả
có thể xay ra nếu ta bỏ giờ học mà chúng ta vẫn ngồi lại lớp. Như vậy trong ví dụ
này ta thấy vô thức khiến chúng ta muốn đi ra ngoài chơi cho thoải mái, nhưng ý
thức giúp ta nhận thức được rằng hành vi của mình là không nên, có thể sẽ gây
hậu quả xấu nên ta không đi nữa mà ngồi trong lớp.
Hoặc khi đi học về, chúng ta đang rất đói, thấy hộp bánh trên bàn, chúng ta

muốn bóc ra ăn, nhưng nhờ ý thức được rằng ta không biết hộp bánh đó là của ai,
cho ta hay là gửi, nếu của bố, mẹ mua thì mua để làm gì, mua để cho chúng ta ăn,
để mang đi cho hoặc hôm nay là ngày rằm còn phải thắp hương…. Nên chúng ta
sẽ không bóc, ăn bánh. Ở đây, vô thức khiến chúng ta không nhận thức được
hành vi của mình, do đói, ta sẽ bóc bánh ra ăn. Nhưng nhờ có ý thức, ta nhận thức
được hành vi của mình là không nên, là chưa được phép , nếu tiếp tục làm cóa thể
chúng ta sẽ bị mắng , nên ta dừng lại.
Hoặc sáng nay là lịch học của ta nhưng thấy ngoài trời mưa to, đường lầy
lội nên ta rất muốn nghỉ buổi học này, nhưng nhờ ý thức được nghĩa vụ của bản
thân là phải đến trường học, để cha mẹ không phụ công nuôi ta ăn học… và ý
thức được hậu quả xấu có thể phải gánh chịu từ việc tự ý bỏ buổi học như phải
viết bản kiểm điểm, bị kỷ luật trước toàn trường… mà chúng ta vẫn quyết tâm
đạp xe đến trường học bình thường. Qua ví dụ này chúng ta có thể biết được, nhờ
có ý thức cao trong học tập, tinh thần tự giác, quyết tâm, cố gắng đến lớp của
chúng ta đã kiềm chế được hành vi sai lầm đó là tự ý bỏ buổi học và được thúc
đẩy bởi cái vô thức.
Hoặc một sinh viên A nhà rất nghèo, để có tiền ăn học người đó đã phải
làm việc rất vất vả. Một hôm, khi chuẩn bị đi học A thấy trên bàn có một chiếc ví,
trong đó có năm triệu. Ngay lập tức trong đầu người này hiện ra ý muốn giấu số
tiền này, nhưng khi suy nghĩ lại A thấy đây có thể là tiền của bạn cùng phòng
được bố mẹ gửi lên. A nghĩ nếu mình lấy số tiền này thì người bạn đó sẽ rất lo
lắng và không có tiền tiêu dùng, A lại càng không muốn trở thành một tên trộm.
Vì vậy, A đã xóa bỏ ý nghĩ đó và đi học. Như vậy, ý thức đã đóng vai trò quan
trọng trong việc kiềm chế ham muốn lấy trộm tiền của bạn.
2.2. Ý thức có thể giải tỏa, biểu hiện thông qua vô thức.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta thường nói: “có tật giật mình”. Ở đây,
“tật” dùng để chỉ một điểm yếu, một thông tin bất lợi nào đó mà chủ thể muốn
che giấu (tức là có thể ý thức) thế nhưng nó lại được bộc lộ thông qua “giật
mình”- một phản ứng do vô thức điều khiển. Trong giao tiếp, những phản ứng
cảm xúc biểu hiện qua ánh mắt, nét mặt, giọng nói, cử chỉ, những lời nói bột phát

7


tưởng như vô tình ở người đối thoại có thể ẩn chứa những thông tin mà chúng ta
quan tâm. Trong khoa học điều tra hình sự, đây chính là cơ sở để các nhà điều tra
xây dựng những phương pháp, những thủ thuật xét hỏi trong trường hợp đối
tượng khai báo không thành khẩn.
Để hiểu rõ hơn về khía cạnh này, chúng ta có thể lấy một vài ví dụ cụ thể
trong đời sống:
Ví dụ đầu tiên Trần A là một học sinh nghiện chơi điện tử. Do một lần
không có tiền để thỏa mãn ham muốn của mình, Trần A đã mở tủ lấy trộm tiền
của bố mẹ và sử dụng hết. Vì hành vi đó mà mỗi lần nghe bố mẹ hỏi xem mình
có còn tiêu vặt không (bố mẹ Trần An vẫn chưa biết chuyện ), Trần A đã “thót
tim” và trả lời ấp úng vì lo sợ bị bố mẹ phát hiện. Trong ví dụ này, ta thấy mặc dù
Trần A đã luôn ý thức phải giấu chuyện mình ăn cắp, nhưng vẫn để lộ sự lo lắng
bị phát hiện thông qua trạng thái “thót tim”, trả lời ấp úng chính là phản ứng cảm
xúc do vô thức điều khiển
Ví dụ thứ hai chứng minh cho luận điểm ý thức có thể được giải tỏa, biểu
hiện thông qua vô thức là trong giờ học, cô giáo giao bài tập cho cả lớp. Mặc dù
đã làm xong bài nhưng khi bạn bè hỏi mượn để tham khảo cách giải, do tính ích
kỉ của bản thân, Nguyễn B đã nói dối là chưa làm được. Đến giờ ra chơi, khi các
bạn bàn nhau chuyện bài tập khó, Nguyễn B liền buột miệng nói: “Bài đó có gì
mà khó chứ”. Trong ví dụ này, ý thức thể hiện ở việc Nguyễn B tuy làm được bài
không muốn cho bạn bè xem, còn câu nói của Nguyễn B chỉ là bộc phát, do vô
thức điều khiển.
Anh Ngô C yêu chị Hoàng D từ lâu nhưng do thấy điều kiện gia đình mình
không phù hợp với gia cảnh nhà chị Hoàng D và cũng là do sự nhút nhát nên anh
không nói ra với chị Hoàng D và cũng không muốn để ai biết chuyện. Một hôm
trong buổi liên hoan với bạn bè, do uống nhiều rượu, Ngô C không kiểm soát
được suy nghĩ của mình nên đã nói ra tình cảm đó. Ý thức thể hiện ở việc anh

Ngô C yêu chị Hoàng D nhưng muốn giấu, nhưng ý thức đó đã được biểu hiện
qua những lời nói vô thức khi uống rượu.
Trong giờ kiểm tra, Lê K có những hành vi gian lận và không muốn ai
biết. Lê K đã thực hiện được hành vi của mình, nhưng khi thu bài giáo viên nói
nếu phát hiện thêm được hành vi giam lận nào thì sẽ phạt nặng. Vì vậy, mỗi lần
nghe nhắc đến việc gian lận trong thi cử, Lê K lại “giật mình”, lo lắng. Ở đây,
việc Lê K giam lận trong thi cử là do ý thức điều khiển, còn cái “giật mình”
chính là một phản xạ do vô thức điều khiển. Như vậy, ý thức đã được biểu hiện
thông qua vô thức.
Trong khoa học điều tra hình sự, việc vận dụng mối quan hệ này của ý thức
và vô thức cũng rất cần thiết. Ví dụ trong một vụ án giết người, để tìm ra hung
thủ, cơ quan điều tra đã khoanh vùng, tìm ra các đối tượng có liên quan đến nạn
nhân. Trong số những người này có đối tượng M có những biểu hiện lạ. Mỗi khi
điều tra viên nhắc đến nạn nhân, M đều nói năng không thống nhất, đổ mồ hôi, sợ
hãi. Những dấu hiệu trên đều là vô thức. Hành vi giết người (hoặc che dấu tội
8


phạm giết người) của M (ý thức) đã bị biểu hiện ra ngoài bằng những hành động
vô thức.
Một ví dụ về khoa học là nhà bác học Mendeleev (1834-1907), người phát
minh bảng phân loại tuần hoàn các chất hóa học sau một giấc ngủ. Đây không
phải là sự ngẫu nhiên mà là kết quả của công trình nghiên cứu lâu dài của bộ óc.
Với tất cả những kinh nghiệm nghiên cứu được cất giữ trong tầng vô thức và
đúng một thời điểm nào đó thì từ trong tầng vô thức, những khám phá đó được
bộc lộ mà chúng ta gọi là phát minh.
Một ví dụ khác nữa là khi mới bắt đầu tập đi xe đạp, ban đầu chúng ta phải
dùng ý thức để điều khiển các động tác như đạp bàn đạp, chuyển hướng và cố giữ
thăng bằng…Đến khi thành thạo chúng ta ngồi lên xe là tự nhiên đạp bàn đạp, tay
chuyển hướng mà không cần kiểm soát những hành tác theo ý thức nữa. Bởi vì

những kinh nghiệm đó đã tiềm ẩn trong tầng vô thức mà con người chỉ cần đánh
thức nó là có tác động ngay.
2.3. Ý thức và vô thức có thể chuyển hóa cho nhau.
Một hiện tượng vốn lúc đầu nằm ở lĩnh vực vô thức nhưng dần dần có thể
được chúng ta ý thức. Ngược lại, một hiện tượng vốn ban đầu được ý thức nhưng
sau đó có thể chuyển sang lĩnh vực vô thức. Cũng do sự chuyển hóa từ ý thức
sang vô thức mà chúng ta có thể quên đi những chuyện buồn, những kí ức mà gợi
lại sẽ gây cảm xúc khó chịu.
Khi còn bé chúng ta thường đòi cha mẹ mua món đồ chơi cho bằng được.
Nếu không được mua thì sẽ khóc lóc…Như vậy hành động đòi mua quà của đứa
bé là vô thức bởi vì nó không thể ý thức được hành vi của nó mà chỉ muốn thỏa
mãn ham muốn lúc đó mà thôi. Nhưng khi lớn lên, nó ý thức được vấn đề nên có
sự chọn lựa thích ứng. Bây giờ nó mới biết vì sao nó thích nên có nên mua hay
không. Do vậy, giữa ý thức và vô thức không có một ranh giới rõ ràng nào cả.
Chúng luôn chuyển hóa lẫn nhau và cũng vì mối quan hệ đó là động cơ chính
giúp con người quân bình đời sống tâm linh, không còn căng thẳng
Đơn giản có thể hiểu như sau: trẻ em tư duy chủ yếu bằng vô thức, lớn lên
mới bổ sung dần dần ý thức. Vô thức có từ khi lọt lòng mẹ hay có thể từ khi còn
ở trong bụng mẹ. Do vậy các bác sĩ thường khuyên các bà mẹ nghe nhạc cổ điển
nhẹ nhàng, những bức tranh phong thủy vì thai nhi tiếp thu thông tin về thế
giớiqua người mẹ ngay từ khi đang ở trong bụng mẹ, thông qua hoạt động vô
thức của não. Khi bắt đầu đi học, chúng ta học số đếm, số nhân, số chia… chẳng
hạn như bảng cửu chương 2×2=4, 5×5=25…ý thức đã dần hình thành trong con
người chúng ta và đã trở thành vô thức thông qua hoạt động học tập lặp đi lặp lại
từ lúc nào. Bỉểu hiện của sự chuyển hóa từ ý thức sang vô thức này là khi một ai
đó hỏi ta 2×2 bằng bao nhiêu, hay 5×5 bằng bao nhiêu thì ta không cần phải nhớ
lại hay không cần xem lại bảng cửu chương nữa mà ta có thể trả lời ngay 2×2=4
và 5×5=25 không cần đắn đo suy nghĩ nữa, không cần sự giám của ý thức nữa.
Việc học bảng cửu chương là 1 hành vi có ý thức và khi chuyển hóa sang vô thức
đó là sự trả lời những gì mình đã học 1 cách tự nhiên mà không cần phải nhớ, tư

9


duy lại. Còn vô thức có thể chuyển hóa thành ý thức không, ta hãy xét ví dụ sau:
một đứa trẻ thích một món quà gì đó và đòi mẹ mua cho bằng được bằng cách chỉ
tay vào món quà đó và khóc nhưng nó không biết được rằng vì sao nó lại thích,
muốn món quà đó. Nhưng khi lớn lên thì nó mới ý thức được nó cần vật đó
không và vì sao nó lại cần lại cần. Như vậy hành động đòi mua quà của đứa trẻ là
hành vi đòi hỏi của đứa trẻ là vô thức bởi nó không thể ý thức được hành vi của
mình. Nhưng khi nó lớn lên thì nó đã ý thức được vấn đề, nó đã có sự đánh giá
chọn lựa cho của riêng nó đối với món quà đó. Nó biết vì sao nó thích và nó có
nên mua không, hành vi có ý thức thể hiện sự đánh giá, chọn lựa của con người
đối với đối tượng.
Như vậy, giữa ý thức và vô thức không tồn tại một ranh giới rõ ràng.
Chúng không ngừng giải tỏa, chuyển hóa lẫn nhau và có mối quan hệ chặt chẽ
này chính là cơ chế giúp đời sống tinh thần của chúng ta cân bằng, không căng
thẳng quá tải.

10


III. KẾT LUẬN
Như vậy thông qua việc nghiên cứu tìm hiểu ta có thể thấy được vai trò
quan trọng của ý thức và vô thức trong cuộc sống và những ứng dụng của ý thức
và vô thức trong thực tiễn. Tóm lại, ý thức và vô thức luôn đi liền với nhau, có
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Nhờ mối quan hệ này mà đời sống tinh thần của
con người luôn ở trạng thái cân bằng.

11



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nxb. Công an nhân
dân, 2011.
2. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), Tâm lý học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2011.
3. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình những nguyên lý cơ bản về chủ nghĩa Mác –
Lê nin.
3. Tâm lý học thực nghiệm – Tác giả Cao Văn Đạt.

12



×