Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện đức phổ, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.24 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ ÁNH NGUYỆT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018

1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ ÁNH NGUYỆT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 834.04.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN SONG TÙNG

HÀ NỘI, năm 2018
2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn đề hết sức bức xúc, ảnh hưởng xấu
đến đời sống và sức khỏe của con người, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển bền
vững và sự tồn vong của xã hội. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của môi
trường và những tác hại do ô nhiễm môi trường, trong thời gian vừa qua Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, tiêu
biểu như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004, Bộ Chính trị
(khóa IX) “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”, Đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường năm 2014… Việc tổ chức thực
hiện các chính sách về bảo vệ môi trường đã đem lại những kết quả nhất định, giúp
cho giảm thiểu ô nhiễm môi trường, chất lượng môi trường được cải thiện cũng như
ngăn chặn, phòng ngừa sự suy giảm chất lượng môi trường. Tuy nhiên, dưới sức ép
của phát triển kinh tế, của sự gia tăng dân số… môi trường ngày càng bị suy thoái
và ô nhiễm nghiêm trọng, có lúc đã đến ngưỡng báo động. Nguyên nhân của tình
trạng trên là do chúng ta quá chú trọng phát triển kinh tế, chưa có sự quan tâm, hành
động và đầu tư đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, ý thức của người dân
còn thấp… trong đó, quan trọng nhất là việc thực hiện các chính sách về bảo vệ môi
trường còn nhiều hạn chế, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu.
Đối với huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, một địa phương đang trong quá
trình đô thị hóa và phát triển, các hoạt động sản xuất kinh doanh chưa phát triển

mạnh, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn… Mặc dù, chính quyền cấp tỉnh cũng
như cấp huyện đã có những cố gắng nhất định trong công tác bảo vệ môi trường,
nhưng nhìn chung môi trường tại địa bàn các xã, thị trấn trong huyện hiện nay vẫn
còn nhiều vấn đề đáng quan tâm, đặc biệt là rác thải phát sinh ngày càng nhiều gây
ô nhiễm môi trường, có lúc, có nơi khiến nhân dân bức xúc. Một trong những
nguyên nhân quan trọng là quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo vệ
môi trường trên địa bàn còn nhiều bất cập. Xuất phát từ những trăn trở đó, tác giả
3


lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức
Phổ, tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ chính sách công, với mong muốn góp
phần nhỏ bé vào việc bảo vệ môi trường tại địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ môi trường luôn là vấn đề được cả xã hội quan tâm, đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ chính trị, pháp luật,
kinh tế, môi trường, xã hội học, chính sách công… với quy mô rộng, hẹp khác nhau.
Khi nghiên cứu về vấn đề này, bước đầu tác giả đã tìm hiểu được những công trình
khoa học tiêu biểu liên quan đến nội dung đề tài như:
- Các công trình nghiên cứu về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường:
Đã có một số luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Chính sách công của Học viện
Khoa học xã hội đã thực hiện có nội dung về thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường như: đã thực hiện có nội dung về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường
như: Luận văn của Trần Thị Thùy Dung về “Thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi”; Luận văn của
Nguyễn Anh Dũng (2016) về “Chính sách môi trường từ thực tiễn tỉnh Bình
Phước”; Luận văn của Phạm Xuân Vinh (2016) về “Thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường từ thực tiễn các Khu công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi”; Luận văn của Lê
Trọng Dũng (2017) về “Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường từ thực tiễn làng
nghề tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”; Luận văn của Trần Diễm Loan (2017) về

“Thực hiện chính sách về bảo vệ môi trường từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố
Đẵng” và luận văn của Nguyễn Thị Hồng Thủy (2017) về “Thực hiện chính sách
bảo vệ môi trường tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng”.
- Các công trình nghiên cứu khác liên quan đến việc thực hiện chính sách bảo
vệ môi trường:
Một số luận văn thạc sỹ lại tập trung vào việc thực hiện chính sách đối với
từng vấn đề môi trường cụ thể như các luận văn chuyên ngành Chính sách công của
Học viện Khoa học xã hội như luận văn của Lê Thanh Sơn (2016) về “Thực hiện
chính sách thu gom và xử lý chất thải từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng
4


Ngãi”và luận văn của Đặng Thị Hà (2015) về “Chính sách thu gom, xử lý chất thải
rắn sinh hoạt từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, tập trung vào việc nghiên cứu
thực hiện chính sách thu gom, xử lý chất thải ở các địa phương cụ thể và đề xuất,
kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách bảo vệ môi trường
nói chung và quản lý chất thải nói riêng.
Đề tài khoa học của Trần Thị Thùy Dương (2008)“Bảo vệ môi trường sinh
thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” tập trung nghiên
cứu tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tới môi trường sinh thái và bảo vệ
môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam dưới
góc độ của Khoa học Kinh tế chính trị.
Luận án tiến sĩ Hà Văn Hòa (2015) "Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
biển ven bờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh" tại Học viện Hành chính Quốc gia. Luận
án nghiên cứu những vấn đề lý luận về môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển;
thực trạng ô nhiễm môi trường biển ven bờ, nguyên nhân và công tác quản lý nhà
nước để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở Quảng Ninh thời gian qua.
Trong đó đã phân tích những hạn chế của chính sách và việc thực hiện các chính
sách về bảo vệ môi trường biển ven bờ.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu khác đề cập đến vấn đề bảo vệ môi

trường cũng như chính sách bảo vệ môi trường trên các khía cạnh khác nhau, mức
độ khác nhau như: Luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế học (2012) “Quản lý nhà
nước về môi trường tại thành phố Đà Nẵng” của Nguyễn Lệ Quyên; Luận văn thạc
sỹ chuyên ngành khoa học môi trường của Trần Duy Khánh (2012), “Đánh giá hiện
trạng môi trường làng nghề và việc thực hiện chính sách pháp luật về BVMT làng
nghề tại một số tỉnh Bắc bộ”; Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hồ Thị Ngọc Quyên tại
Đại học Đà Nẵng “Nghiên cứu thực trạng ô nhiễm môi trường và đề xuất các giải
pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại Làng nghề thủ công đá mỹ nghệ Non Nước,
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng”; Bài viết của Nguyễn Hữu Chí “Về việc
thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong vấn đề bảo vệ môi
trường” đã đánh giá kết quả thực hiện NQ 41 ngày 15 tháng 11 năm 2004, Bộ
5


Chính trị (khóa IX); Bài viết của nhóm tác giả: Nguyễn Thế Tiến, Phùng Chí Sỹ,
Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Bảo vệ môi trường và Huỳnh Thị Minh Hằng, Viện Môi
trường và Tài nguyên - Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh: "Các vấn đề môi trường
trong quá trình đô thị hóa - công nghiệp hóa ở thành phố Đà Nẵng"; Bài viết của
Thạc sĩ Nguyễn Thị Nga trên Tạp chí Cộng sản (2015): “Bảo vệ môi trường tự nhiên
ở Việt Nam – Yêu cầu cấp thiết”.
Tóm lại, vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những khía cạnh khác
nhau và mức độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu cơ bản đã khái quát được
các vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện chính sách bảo vệ môi trường, đánh giá
được việc thực hiện các chính sách này ở những nội dụng cụ thể, địa phương cụ thể
gắn với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương. Trên cơ sở đó, các công trình
nghiên cứu cũng đã đề xuất các giải pháp, đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện,
thực hiện có hiệu quả hơn nữa các chính sách về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, tác
giả nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, cũng như chưa có công trình

nghiên cứu về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại những địa phương có
những điều kiện kinh tế, xã hội tương đồng. Các vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách bảo vệ môi trường đã được các công trình nghiên cứu làm rõ sẽ được tác giả
tiếp tục kế thừa có chọn lọc trong công trình nghiên cứu của mình. Việc đánh giá
thực hiện chính sách bảo vệ môi trường, cũng như các giải pháp, kiến nghị là cơ sở
để tác giả tham khảo, đưa ra các nội dung đánh giá việc thực hiện các chính sách
này phù hợp với phạm vi của đề tài. Do vậy, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các
chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, cần có công
trình nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề này, trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp, kiến nghị thực hiện có hiệu quả các chính sách bảo vệ môi trường trong thời
gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
6


Đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ,
tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tăng cường việc thực hiện
chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian
tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên cần thực hiện một số nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách
bảo vệ môi trường.
- Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường ở huyện
Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường việc thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Không gian nghiên cứu của luận văn là tại huyện Đức Phổ,
tỉnh Quảng Ngãi.
- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách
bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để nghiên cứu việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường, luận văn sử dụng
các cách tiếp cận:
- Tiếp cận chính sách công: Tiếp cận chính sách công giúp cho việc nghiên
cứu tình hình thực hiện chính sách bảo vệ môi trường được xem xét ở nhiều góc độ,
từ đó sẽ có những giải pháp hoàn thiện hơn nữa việc thực thi chính sách bảo vệ môi
7


trường tại địa phương hiện nay.
- Tiếp cận hệ thống: Hệ thống là một thể thống nhất và khách quan để mọi chủ
thể tồn tại và phát triển. Các hoạt động của hệ thống luôn thể hiện ở trạng thái cân
bằng và được điều chỉnh kịp thời khi chịu tác động. Do đó, khi đánh giá bất kỳ vấn
đề gì cũng cần xem xét tính một cách toàn diện, tổng thể.
Với cách tiếp cận này, luận văn đã xem xét tổng thể vấn đề nghiên cứu như
một hệ thống, vừa đánh giá phân tích các yếu tố riêng lẻ vừa đặt chúng trong một
tổng thể lớn hơn. Điều này, hàm ý nhấn mạnh rằng việc thực hiện tốt chính sách bảo
vệ môi trường là rất quan trọng, do đó luôn phải đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa
phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường của một địa phương. Tiếp cận hệ
thống trong nghiên cứu này sẽ dựa vào định hướng chính trị, năng lực thực tế của
chủ thể tham gia thực hiện chính sách, môi trường thực hiện chính sách,sự tồn tại

của chính sách và tình trạng pháp luật tại địa bàn nghiên cứu.
Tiếp cận liên ngành luôn là cần thiết khi muốn tìm hiểu nhiều chiều cạnh khác
nhau vốn rất cần các tiếp cận của chuyên ngành khác, gần gũi với xã hội trong triển
khai nghiên cứu đề tài (như tâm lý học, kinh tế học.). Thực tế, việc thực hiện chính
sách bảo vệ môi trường liên quan đến nhiều chủ thể và đối tượng khác nhau, tạo nên
tính tổng thể liên ngành, nhưng ở đấy cũng thường xuất hiện những xung đột lợi ích
của các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, điều đó dẫn đến những bất cập
trong bảo vệ môi trường hiện nay. Với cách tiếp cận này, đề tài xem xét tất cả các yếu
tố có liên quan để từ đó đưa ra được những giải pháp tăng cường việc thực hiện chính
sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian đến.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tư liệu: được sử dụng để thu thập,
phân tích, tổng hợp các thông tin từ các nguồn đã công bố liên quan đến đề tài
nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, quyết định của Đảng,
Nhà nước, bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các
báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân

8


liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới chính sách bảo vệ môi trường.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nhỏ làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết
liên quan đến chính sách công, trên cơ sở đó, đó hình thành các giải pháp chính sách
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả luận văn cung cấp thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc

vận dụng các lý thuyết về chính sách công, xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về
việc phân tích, đánh giá về chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh
Quảng Ngãi từ đó nâng cao hiệu quả của chính sách trong những năm tiếp theo.
- Cung cấp thêm cơ sở khoa học cho ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, các phòng,
ban, ngành, đoàn thể có liên quan trong quá trình thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường để chính sách có thể mang lại hiệu quả trong việc phát triển kinh tế, xã hội,
bảo vệ môi trường tại địa phương trong thời gian đến.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia làm
3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường ở Việt
Nam.
- Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức
Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
- Chương 3. Các giải pháp tăng cường việc thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

9


10


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm liên quan đến thực hiện chính sách bảo vệ môi trường
1.1.1. Môi trường và bảo vệ môi trường
Môi trường là khái niệm có nội hàm vô cùng rộng và được sử dụng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong cuộc sống người ta dùng nhiều khái niệm môi

trường như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường giáo dục… Môi
trường theo định nghĩa thông thường “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự
nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối
quan hệ với con người hay sinh vật ấy” [26, tr.618] hay là “sự kết hợp toàn bộ hoàn
cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực
thể hữu cơ” [25, tr.616].
Môi trường nhân tạo bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo ra trên cơ sở
quy luật của tự nhiên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, phục vụ cuộc
sống của chính mình như ô tô, máy bay, điện thoại, công trình thủy lợi, công trình
nghệ thuật, công trình xây dựng...
Môi trường xã hội là tổng hợp tất cả các yếu tố về xã hội có liên quan và tác
động tới đời sống con người. Đó là những quy định ở các cấp khác nhau của: Liên
hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia
đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể...
Tuy nhiên khái niệm về môi trường được sử dụng một cách thống nhất hiện
nay tại Việt Nam là định nghĩa về môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường đã
được thông qua ngày 23 tháng 6 năm 2014 như sau: “Môi trường là hệ thống các
yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của
con người và sinh vật”.
Môi trường dưới sự tác động của con người luôn có xu hướng bị ô nhiễm. Ô
nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn
11


môi trường, thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các thành phần và đặc tính vật lý, hóa
học, nhiệt độ, sinh học, chất hòa tan, chất phóng xạ…
1.1.2. Chính sách bảo vệ môi trường và thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường
Chính sách bảo vệ môi trường phải cụ thể hoá Luật Bảo vệ Môi trường (trong
nước) và các Công ước quốc tế về môi trường. Ở mỗi cấp có thẩm quyền quản lý

hành chính về môi trường đều có những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể
hoá luật pháp và những chính sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa
phương. Việc ban hành chính sách của các cấp địa phương có vai trò quan trọng
trong đảm bảo sự thành công của các chính sách do cấp trung ương.
Theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường, các chính sách của Nhà nước về
bảo vệ môi trường được pháp luật quy định khá cụ thể như: Khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt
động bảo vệ môi trường. Ðẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp
dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự
giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường. Sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái
chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. Ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường
bức xúc; tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi
môi trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị,
khu dân cư. Ðầu tư cho việc bảo vệ môi trường là đầu tư cho sự phát triển; thực
hiện đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi
riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm. Việc ưu đãi về
đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường và các sản phẩm
thân thiện với môi trường; kết hợp hài hoà giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các
thành phần môi trường cho phát triển. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khuyến
khích nghiên cứu, áp dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về
bảo vệ môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường. Mở
rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về
12


bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện hợp tác quốc
tế về bảo vệ môi trường. Phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường; tăng cường,
nâng cao năng lực quốc gia về bảo vệ môi trường theo hướng chính quy, hiện đại.
Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các chính sách, văn bản quy phạm

pháp luật về bảo vệ môi trường, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, để những chính sách và pháp luật về bảo
vệ môi trường đi vào cuộc sống và trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể về
bảo vệ môi trường, phát huy tác dụng của nó trong thực tiễn.
Như vậy có thể khẳng định, Chính sách bảo vệ môi trường là một nội dung
của Chính sách công bao gồm hệ thống thể chế quy định về hoạt động bảo vệ môi
trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm định hướng và điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống liên quan đến môi trường nhằm
bảo vệ môi trường trước những xâm hại của con người, qua đó tạo lập môi trường
sống trong lành và xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững.
Như vậy thực hiện chính sách bảo vệ môi trường là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những quy định của chính sách và pháp luật về bảo vệ môi
trường đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi
trường; bảo vệ, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành và
bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững.
Chính sách môi trường được tổ chức thực hiện thông qua hệ thống tổ chức
quản lý môi trường cùng với sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, tổ chức nghề nghiệp và các cộng đồng trong xã hội.
Các hình thức tuyên truyền, vận động, thuyết phục để người dân nâng cao
nhận thức về bảo vệ môi trường. Hệ thống tổ chức quản lý môi trường của nhà nước
và hệ thống các tổ chức, các cộng đồng được phối kết hợp với nhau trong tổ chức
thực hiện chính sách môi trường dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường
13


Tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường là hoạt động của các chủ thể
thực hiện chính sách thông qua trình tự các bước nhằm thực hiện chính sách bảo vệ

môi trường trên thực tế. Chính sách bảo vệ môi trường là một nội dung của Chính
sách công, do đó các bước tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường về cơ
bản tương tự với Chính sách công, tuy nhiên có một số đặc trưng riêng, cụ thể:
Bước 1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.
Đây là bước đầu tiên và có ý quan trọng quyết định thành bại của việc thực
hiện chính sách bảo vệ môi trường. Hệ thống chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường theo thẩm quyền được phân công xây dựng kế hoạch triển khai thực
hiện chính sách với các nội dung như:
+ Kế hoạch tổ chức nhân sự bao gồm: bộ phận điều hành, bộ phận thực thi,
giám sát…;
+ Kế hoạch xây dựng các phương án về vật chất, tiền bạc… cho việc thực hiện
chính sách;
+ Kế hoạch cho từng giai đoạn cụ thể với mục tiêu cụ thể của quá trình thực
hiện chính sách bảo vệ môi trường;
+ Kế hoạch về các nội dung khen thưởng và chế tài cho các cá nhân, tổ chức
thực hiện chính sách;
+ Kế hoạch đánh giá, lấy ý kiến của những đối tượng chịu tác động của việc
thực hiện chính sách ở từng giai đoạn và sau khi chính sách được thực hiện;
Kế hoạch thực hiện chính sách bảo vệ môi trường phải được xây dựng dựa vào
những quy định thống nhất của Nhà nước về bảo vệ môi trường, phù hợp với mục
tiêu, nội dung của chính sách và mang tính khả thi. Bên cạnh đó, kế hoạch phải
được ban hành bởi cá nhân, cơ quan đúng thẩm quyền quy định và được xây dựng
đảm bảo dân chủ, cầu thị.
Bước 2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ môi trường.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật là bước giúp quảng bá, truyền thông kế
hoạch thực hiện chính sách nói riêng và chính sách bảo vệ môi trường nói chung.
Việc tuyên truyền hiệu quả mới thu hút được sự tham gia đông đảo của người dân
14



và xã hội vào việc thực hiện chính sách, bên cạnh sự hiểu biết tường tận của những
người trực tiếp tham gia thực hiện chính sách.
Để đảm bảo bước này có hiệu quả, cần thiết có sự chuẩn bị chặt chẽ từ nhân
lực đến phương tiện. Về nhân lực, cần thiết xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên
chuyên nghiệp, nắm bắt tâm lý, đặc điểm nhận thức của từng nhóm đối tượng để có
phương pháp thực hiện hiệu quả. Phương tiện tuyên truyền phải có sự đan xen giữa
các phương tiện truyền thống và hiện đại. Trong đó, tùy đối tượng tuyên truyền để
lựa chọn phương tiện truyền thông phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh
phương tiện truyền thông truyền thống như hệ thống loa phát thanh, tuyên truyền
thông qua văn bản thì sử dụng mạng xã hội lại trở nên hiệu quả đối với đại bộ phận
giới trẻ.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến được thực hiện thường xuyên, liên tục và
không ngừng đổi mới phương pháp lẫn nội dung đảm bảo người được tuyên truyền
không cảm thấy nhàm chán để tự miễn nhiễm với những nội dung tuyên truyền.
Hoạt động tuyên truyền phải được tổ chức thường xuyên để người được tuyên
truyền cập nhật thông tin, nắm bắt được các nội dung một cách liên tục. Bên cạnh
đó, cần thiết trong nội dung tuyên truyền phải lồng ghép các kết quả đạt được của
thực hiện chính sách qua các giai đoạn nhằm giúp người dân hiểu rõ việc thực hiện
chính sách bảo vệ môi trường trên thực tiễn.
Bước 3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.
Việc thực hiện chính bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả hay không phụ
thuộc vào hiệu quả trong thực hiện công việc của từng người, từng nhóm người
tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện chính sách. Muốn vậy, trước hết phải có
sự phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo vệ môi trường rành mạch, logic và
công bằng cho từng người hay nhóm người cụ thể. Sự phân công này giúp những
người thực hiện chính sách hiểu rõ về vai trò, trách nhiệm của mình đối với việc
thực hiện chính sách. Qua đó, bản thân mỗi người hay nhóm người được phân công
sẽ nỗ lực hết sức và bằng các phương thức khác nhau để hoàn thành nhiệm vụ được
phân công. Việc phân công nhiệm vụ cũng đồng nghĩa với việc xác lập trách nhiệm
15



của từng người và nhóm người trong thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.
Phối hợp thực hiện chính sách được thực hiện sau khi có sự phân công. Phối
hợp là sự kết nối, thể hiện mối quan hệ giữa những người hay nhóm người với nhau
trong thực hiện chính sách. Sự phối hợp chặt chẽ, hợp lý sẽ đem lại hiệu quả tích
cực trong công việc, ngược lại nếu không có sự phối hợp chặt chẽ sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.
Bước 4. Duy trì chính sách bảo vệ môi trường.
Duy trì chính sách bảo vệ môi trường là việc làm quan trọng giúp quá trình
thực hiện chính sách đạt được mục tiêu đã đề ra. Bước này phải được đảm bảo để
tránh tình trạng thực hiện chính sách theo phong trào, không đảm bảo tính toàn vẹn
của chính sách. Để duy trì được chính sách bảo vệ môi trường đòi hỏi sự tham gia
của nhiều chủ thể, song quan trọng nhất chính là những người trực tiếp thực hiện
chính sách bảo vệ môi trường theo nhiệm vụ đã phân công, trong đó những cá nhân,
tổ chức càng trực tiếp càng quan trọng. Bên cạnh đó cũng phải kể đến vai trò duy trì
chính sách của người dân, bởi lẽ nguyên do chủ yếu khiến cho tình trạng môi
trường bị ô nhiễm xuất phát từ hoạt động sản xuất và sinh sống của người dân.
Bước 5. Điều chỉnh chính sách bảo vệ môi trường.
Xã hội luôn biến đổi, các mối quan hệ xã hội cũng vì thế mà thay đổi theo
nhiều chiều hướng khác nhau. Quy mô của sản xuất, kinh doanh và các hoạt động
sống khác có xu hướng gia tăng theo thời gian, khiến cho tình trạng ô nhiễm môi
trường trở nên trầm trọng, các nội dung chính sách như mục tiêu, công cụ, giải
pháp… để thực hiện chính sách bảo vệ môi trường cũng vì thế có những biến đổi
khác đi so với thời điểm bắt đầu thực hiện chính sách. Chính vì thế, cần thiết có sự
điều chỉnh của chính sách để phù hợp hơn với những thay đổi của xã hội. Việc điều
chỉnh chính sách phải diễn ra kịp thời với những quan sát nhạy bén nhằm đảm bảo
thực hiện chính sách bảo vệ môi trường đi đúng hướng và đúng tiến độ đã đề ra.
Bước 6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường.

Việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường cũng như thực hiện chính sách
16


công nói chung phải được liên tục theo dõi, kiểm tra và đôn đốc. Theo dõi, kiểm tra
để kịp thời phát hiện những sai lệch, những biểu hiện tiêu cực của thực hiện chính
sách nhằm đề xuất các giải pháp thay thế hoặc sửa đổi. Đốn đốc thực hiện chính
sách nhằm đảm bảo sự liền mạch của thực hiện chính sách, không để xảy ra gián
đoạn hay thực hiện chính sách theo kiểu phong trào.
Bước 7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường.
Đây là bước cuối cùng trong tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.
Đánh giá, tổng kết để thấy được những điểm đạt được và chưa đạt được trong quá
trình thực hiện chính sách trên cơ sở đối chiếu kết quả thực tiễn với mục tiêu chính
sách bảo vệ môi trường đã đặt ra. Việc đánh giá, tổng kết được thực hiện thông qua
nhiều thang đo định tính và định lượng khác nhau. Tuy nhiên, với lĩnh vực môi
trường, thang đo chủ yếu vẫn là những chuyển biến tích cực của tình trạng ô nhiễm
môi trường trên thực tế. Bên cạnh đó, các tiêu chí về thái độ, sự đóng góp của
những cá nhân, tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường và ý thức, thái độ
của người dân về bảo vệ môi trường cũng trở thành thang đo của việc thực hiện
chính sách. Thông qua kết quả đánh giá, tổng kết có những khen thưởng và chế tài
xứng đáng dành cho những cá nhân, tổ chức có công trạng hoặc mắc khuyết điểm
trong quá trình thực hiện chính sách. Đối với những hạn chế trong quá trình thực
hiện chính sách, các hạn chế trên thực tiễn khi đối chiếu với mục tiêu chính sách
cần thiết phải được làm rõ, tìm ra nguyên nhân và định hướng được các giải pháp
nhằm rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường sau đó.
1.3. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường
Trên thực tế, việc bảo vệ môi trường thuộc về trách nhiệm của toàn xã hội.
Tuy nhiên, trong phạm vi của chính sách công, chủ thể thực hiện chính sách công

lấy trọng tâm là các cá nhân, tổ chức công quyền được giao nhiệm vụ thực hiện
chính sách bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, cũng cần kể tới các bên liên quan khác.
Theo đó chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ môi trường gồm:
17


Thứ nhất, chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trọng tâm là hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng thực hiện chính sách về bảo vệ
môi trường. Các cơ quan này từ trung ương đến địa phương bao gồm: Chính phủ,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp
được quy định cụ thể tại chương XIV Luật bảo vệ môi trường 2014, Ban quản lý
các khu công nghiệp, Sở Tài nguyên và môi trường, Cảnh sát môi trường là cơ quan
tham mưu, giúp việc UBND Tỉnh, thành phố trong việc thực hiện trách nhiệm bảo
vệ môi trường. Cụ thể thẩm quyền của các chủ thể như sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành thực hiện Chương trình, Kế
hoạch bảo vệ môi trường trong cả nước.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các lĩnh
vực: môi trường, tài nguyên nước, đất đai; tài nguyên khoáng sản…và có nhiệm vụ
trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự
thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị quyết, nghị định của
Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây
dựng pháp luật về BVMT; phê duyệt chiến lược, quy hoạch, chương trình phát triển
các ngành, lĩnh vực về BVMT; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ; thông tin, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên và môi trường.
- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ: có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, ban hành thông tư, thông tư
liên tịch về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ trực tiếp
quản lý
Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được quy định cụ

thể tại điều 142, Chương XIV, Luật bảo vệ môi trường năm 2014.
- Ủy ban nhân dân các cấp:
+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố (cấp tỉnh): thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường tại địa phương. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách
nhiệm trước UBND tỉnh, thành phố trong việc bảo vệ môi trường tại địa phương.
18


+ Đối với cấp quận, huyện (cấp huyện), hoạt động quản lý nhà nước về môi
trường được giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện. Phòng Tài
nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thực hiện chức năng
tham mưu, giúp UBND quận, huyện quản lý nhà nước về môi trường và có các
nhiệm vụ cụ thể sau:
Trình UBND quận, huyện ban hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch
dài hạn, 05 năm và hằng năm; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ cải cách hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực môi trường.
Tổ chức đăng ký, xác nhận và kiểm tra việc thực hiện cam kết BVMT, đề án
BVMT, kế hoạch BVMT và các kế hoạch phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố
môi trường trên địa bàn; thực hiện công tác BVTM làng nghề trên địa bàn; lập báo
cáo hiện trạng môi trường theo định kỳ; đề xuất các giải pháp xử lý ô nhiễm môi
trên địa bàn.
Tổ chức thực hiện kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và tham
gia cập nhật kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn cấp
huyện.
Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về BVMT, tài nguyên đất, tài
nguyên nước, tài nguyên khoảng sản, bảo vệ môi trường biển.
Theo dõi, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật về tài nguyên và môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống
tham nhũng, lãng phí về tài nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật và
phân công của UBND câp huyện.Giúp UBND quận, huyện quản lý nhà nước đối

với các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; tham gia quản lý hoạt động tổ chức
và hoạt động của các hội trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường thuộc thẩm quyền
của UBND cấp huyện.
Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực
hiện nhiệm vụ được giao theo quy định ủa UBND cấp huyện và Sở Tài nguyên và
Môi trường
Thứ hai, bên cạnh các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường kể
19


trên, các bên liên quan trong thực hiện chính sách bảo vệ môi trường còn bao gồm:
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các Tổ chức chính trị - xã hội và các cá nhân, tổ chức
xã hội liên quan trực tiếp đến hoạt động bảo vệ môi trường. Trong đó Mặt trận tổ
quốc Việt Nam và các Tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có chức năng chủ
yếu tuyên truyền chính sách bảo vệ môi trường đến người dân và xã hội. Bên cạnh
đó, hai nhóm tổ chức này còn có chức năng giám sát và phản biện trong xuyên suốt
chu trình chính sách, từ xây dựng, ban hành đến thực hiện. Chức năng giám sát và
phản biện nếu được thực hiện hiệu quả, khách quan sẽ đóng vai trò lớn đối với hiệu
quả của thực hiện chính sách bảo vệ môi trường nhờ tạo ra được những áp lực cần
thiết lên chủ thể thực hiện chính sách cũng như giúp chuyển tải tiếng nói của người
dân, đặc biệt những người trực tiếp chịu sự tác động của chính sách bảo vệ môi
trường.
Người dân và đại diện cộng đồng dân cư tại nơi chịu sự ảnh hưởng trực tiếp
của chính sách bảo vệ môi trường có những quyền nhất định đối với việc thực hiện
chính sách.
Ngoài ra, các tổ chức xã hội, các tổ chức Phi chính phủ (NGo) hoạt động trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng có những tác động nhất định đến thực hiện chính
sách bảo vệ môi trường. Các tổ chức xã hội với tư cách là đại diện lợi ích của các
nhóm dân cư sẽ là phương tiện khuếch đại tiếng nói của người dân về các vấn đề
liên quan đến môi trường, đồng thời đó cũng là kênh giám sát quan trọng của người

dân với thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Trong khi đó, các tổ chức NGo
hoạt động trong lĩnh vực môi trường có chuyên môn sâu để trở thành các cố vấn cho
các chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ môi trường, đồng thời ở nhiều nội dung, có
thể để chính các tổ chức NGo đảm nhận trực tiếp việc thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường nhằm giảm bớt gánh nặng cho nhà nước, trong khi đó có thể tận dụng
được các công nghệ, kỹ thuật thực hiện chính sách từ nước ngoài.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo vệ môi trường
Chính sách công xuất phát từ nội tại xã hội và quay trở lại thay đổi tích cực xã
hội, do đó bản thân chính sách công chịu sự chi phối, ảnh hưởng của nhiều yếu tố
20


khác nhau. Có thể tạm thời liệt kê 03 yếu cố cơ bản: yếu tố kinh tế; yếu tố xã hội và
yếu tố thể chế.
1.4.1. Yếu tố kinh tế
Ở nghĩa rộng lớn, trong môi trường xã hội, hầu hết các hoạt động hay mối
quan hệ đều chịu sự chi phối của thể chế, vì thế ở phía ngược lại, các hoạt động hay
mối quan hệ phản ánh một cách sâu sắc trình độ, nền tảng và quan điểm kinh tế của
mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ. Chính sách công sau khi xuất phát từ những mâu thuẫn
trong lòng xã hội để ra đời sẽ quay trở lại cải tạo xã hội, nhằm làm cho xã hội tốt
đẹp hơn, phát triển mọi mặt trong đó có kinh tế. Vậy nên sự tác động giữa kinh tế và
chính sách công là mối quan hệ biện chứng, tương hỗ. Cả hai đều là tiền đề và đều
là kết quả của nhau.
Ở nghĩa hẹp hơn, nếu xem kinh tế là sự giàu có của các nguồn lực, thì rõ ràng
yếu tố kinh tế ở đây chính là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện chính sách được
diễn ra trên thực tế. Ở các quốc gia phát triển và giàu có trên thế giới, nền kinh tế
của họ dồi dào đủ cung cấp các yếu tố vật chất cho thực hiện chính sách sẽ đảm bảo
cho chính sách đó được thực hiện ở quy mô lớn, do vậy đạt được sự cải biến lớn.
Điều ngược lại xảy ra ở các quốc gia đang phát triển hay nghèo khó. Bài toán chi
phí cơ hội không cho phép các quốc gia này sử dụng quá nhiều đồng tiền trong tổng

số ngân sách hạn chế để thực hiện chính sách bảo vệ môi trường và đôi khi đây
chính là đối tượng đánh đổi đầu tiên cho giấc mơ phát triển kinh tế vượt bậc. Chính
vì thể có thể khẳng định tình trạng ô nhiễm môi trường ở các quốc gia này ngày
càng trầm trọng.
Ở khía cạnh khác, sự phát triển kinh tế luôn tác động đến môi trường, qua đó
gián tiếp làm ảnh hưởng đến sự thành bại của thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường. Cụ thể, kinh tế phát triển với tốc độ ngày càng nhanh của các tổ chức sản
xuất, khai thác kéo theo hai hệ quả: thứ nhất, nhu cầu nguyên liệu đầu vào tăng
nhanh. Với các quốc gia đang phát triển, nguyên liệu đầu vào đa số được khai thác
trực tiếp từ tự nhiên thay vì tìm kiếm các nguyên liệu nhân tạo thay thế. Hoạt động
khai thác nguyên liệu từ tự nhiên khiến cho tài nguyên dần bị cạn kiệt, các hoạt
21


động khai thác có tác động tiêu cực đến môi trường sống tự nhiên. Tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Thực tế cho thấy, hoạt động khai thác tác
động xấu đến môi trường nhanh chóng, nhưng để phục hồi môi trường nhờ các
chính sách bảo vệ môi trường phải tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc. Chính vì
thế, kết quả của các chính sách bảo vệ môi trường còn phụ thuộc vào mức độ tác
động tiêu cực của hoạt động khai thác nguyên liệu tự nhiên phục vụ phát triển kinh
tế. Mặt khác, hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng đem đến những tác động tiêu cực
khi tạo ra lượng rác thải lớn làm ảnh hưởng đến cả môi trường nước, đất và không
khí. Nền kinh tế càng phát triển, thị trường càng nhộn nhịp thì hoạt động sản xuất
và kinh doanh càng lớn, dẫn đến tỷ lệ nghịch về mức độ trong lành của môi trường.
Cũng như hoạt động khai thác, các hệ lụy từ sản xuất và kinh doanh đến môi trường
luôn có xu hướng lớn hơn kết quả của các hoạt động bảo vệ môi trường. Chính vì
thế có thể nói ở khía cạnh này, mặt trái của phát triển kinh tế làm môi trường bị hủy
hoại mạnh mẽ hơn và khiến cho việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường gặp
khó khăn và kém hiệu quả.
Như vậy, có thể thấy, tác động của kinh tế đối với hoạt động bảo vệ môi

trường có hai mặt. Những tác động tiêu cực đến từ tham vọng phát triển kinh tế, bỏ
qua việc duy trì môi trường sống đã dẫn đến hệ quả môi trường bị tàn phá, khiến
cho việc thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường trở nên yếu ớt. Tác động này
thấy rõ ở các quốc gia đang phát triển bởi xu hướng dịch chuyển của nền kinh tế thế
giới mà trong đó có Việt Nam.
1.4.2. Yếu tố xã hội
Các vấn đề xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực trong đời sống con người và có tác
động sâu sắc đến những yếu tố còn lại, trong đó có môi trường. Trong các vấn đề xã
hội, có thể kể đến một số lĩnh vực trực tiếp ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo
vệ môi trường như: dân số; việc làm; tập quán và quan điểm xã hội.
Thứ nhất, việc gia tăng của dân số kéo theo các nhu cầu cũng gia tăng. Trong
tháp nhu cầu của con người, từ những nhu cầu nhỏ nhất như ăn, ở, mặc và đi lại đến
những nhu cầu cao hơn như công việc, sự giàu có… đều có mối liên hệ với môi
22


trường. Cụ thể, để thỏa mãn các nhu cầu, con người khai thác chủ yếu các nguồn vật
chất từ tự nhiên khiến cho hầu hết các tài nguyên hữu dụng với đời sống con người
đều có nguy cơ bị cạn kiệt. Bên cạnh đó, với hoạt động sống ngày càng phức tạp,
con người tạo ra nhiều chất thải hơn, sản xuất ra nhiều chất độc hơn và làm biến đổi
sự phát triển tự nhiên của môi trường. Chính điều đó khiến cho tình trạng ô nhiễm
môi trường tồi tệ hơn khi dân số gia tăng. Chính sách bảo vệ môi trường luôn phải
đối mặt với tình trạng lượng rác thải và các chất độc hại sinh ra từ hoạt động sống
của con người ngày càng nhiều. Do đó, hầu hầu hết các chính sách bảo vệ môi
trường đều dành một nguồn lực lớn và dự liệu các vấn đề biến cố xảy ra trong thực
hiện chính sách do vấn đề bùng nổ dân số mang lại. Song trên thực tế có thể thấy
nhiều chính sách đã thất bại do sự bùng nổ dân số hoặc di dân. Đương nhiên ở một
khía cạnh khác, sự gia tăng dân số cũng mang lại lợi ích cho thực hiện chính sách
bảo vệ môi trường với điều kiện lúc này dân số nói chung tích cực tham gia vào
hoạt động phục hồi và bảo vệ môi trường. Song đây là một giả thuyết chưa được

kiểm chứng trên thực tiễn, bởi đến nay chưa xác lập được một hoạt động thực hiện
chính sách mà toàn bộ xã hội đều tham gia vào đó với một mục đích chung, do vậy
đây vẫn chỉ là mô hình lý tưởng.
Thứ hai, đối với việc làm, yếu tố quan trọng ở đây là sự gia tăng của các việc
làm tự phát, trong đó có nhiều hoạt động ngành nghề tự phát tác động rất lớn đến
môi trường. Các hoạt động ngành nghề tự phát thường nhỏ lẻ, trong quá trình sản
xuất không tuân thủ các quy trình về đảm bảo vệ sinh môi trường, đồng thời các
thiết bị nhằm đảm bảo quy trình cũng không được đầu tư lắp đặt. Do đó, tình trạng
chung hoạt động ngành nghề này thường xả trực tiếp chất thải ra môi trường, làm
tình trạng môi trường ngày một xấu đi. Thực tế này phổ biến tại khu vực nông thôn,
các làng nghề truyền thống hay các khu khai thác, chế xuất tự phát của người dân.
Trong quá trình thực hiện chính sách bảo vệ môi trường đã gặp không ít các khó
khăn, vất vả do hoạt động của các ngành nghề mang lại, không những thế xu hướng
của hoạt động này ngày một gia tăng, do đó trong thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường luôn phải tăng cường đầu tư nguồn lực khắc phục.
23


Thứ ba, về tập quán, ý thức xã hội. Khâu quan trọng nhất trong thực hiện
chính sách chính là tuyên truyền chính sách để người dân và xã hội được thông
suốt, từ đó lôi cuốn được đông đảo người dân tham gia thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên, những thói quen tạo nên tập quán xấu đối với môi trường
hay quan niệm xã hội thiếu tôn trọng môi trường tự nhiên trở thành cản lực của hoạt
động này. Tập quán chính là những thói quen được thực hiện ở phạm vi cộng đồng,
không ít các tập quán có tác động tiêu cực đến môi trường như tục đốt vàng mã, đốt
rừng làm rẫy vào vụ mùa mới, thả đèn trời… Các hoạt động này phục vụ cho những
nghi thức hoặc tín ngưỡng của con người nhưng tác động tiêu cực đến môi trường.
Ở những nơi tập quán này hiện hữu và được thực hiện một cách thường xuyên, công
tác bảo vệ môi trường gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ tập quán có vị thế rất quan
trọng trong đời sống cộng đồng và theo thói xưa “phép vua thua lệ làng” khiến cho

nhiều lúc tập quán được bảo vệ một cách chặt chẽ và được đề cao hơn những giá trị
khác của cộng đồng. Bên cạnh tập quán, hiểu biết xã hội về vai trò của môi trường
thấp dẫn đến những tác hại đến môi trường từ tập quán tiêu cực không được phát
hiện, lợi ích thỏa mãn nghi thức, tín ngưỡng được đặt cao hơn lợi ích khi duy trì
một trạng thái môi trường lý tưởng. Tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường ở các quốc gia có nhận thức về vai trò của môi trường thấp cộng với việc
duy trì nhiều tập quán tiêu cực sẽ vấp phải rất nhiều cản lực. Hoạt động bảo vệ
môi trường lúc này phải đối mặt với sự phản đối từ phía xã hội để bảo vệ những
nghi thức và niềm tin tín ngưỡng của họ. Ngược lại, ở những xã hội đề cao vai trò
của môi trường, hiểu rõ giá trị của tự nhiên và nguy cơ khi môi trường bị xâm
phạm thì việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường nhận được nhiều hưởng ứng
và thuận lợi.
1.4.3. Yếu tố thể chế
Thể chế ở đây được hiểu là các quy định mang tính pháp lý về vấn đề bảo vệ
môi trường. Chính sách bảo vệ môi trường ở đây được hiểu là chính sách công với
vai trò cụ thể hóa và đưa pháp luật về môi trường vào đời sống nhằm tác động và
cải biến thực tiễn theo tinh thần của luật pháp. Vì thế, trước hết chính sách bảo vệ
24


môi trường phải dựa vào một hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường đầy đủ và thống
nhất. Cơ sở pháp lý này bao gồm các quan điểm lập pháp rõ ràng về vấn đề bảo vệ
môi trường, các cơ chế thực thi, một hành lang với giới hạn cụ thể và những chế tài
tương ứng với những hành vi vi phạm. Tất cả các cơ sở này sẽ làm tiền đề cho thực
hiện chính sách về bảo vệ môi trường. Các cơ sở pháp lý này càng thống nhất, rõ
nét và công bằng thì việc thực hiện chính sách càng có được nhiều lợi thế trên thực
tiễn. Ngược lại, thiếu cơ chế đảm bảo từ thể chế, chính sách bảo vệ môi trường
không thể thực thi trên thực tế, vì lịch sử cho thấy vấn đề bảo vệ môi trường phải
song hành với những cơ chế mang tính bắt buộc, nếu chỉ là tự nguyện, con người dễ
dàng thỏa hiệp sự trong lành của môi trường với những giá trị kinh tế và thường họ

sẽ chọn vế thứ hai.
1.5. Chính sách bảo vệ môi trường của Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, chất lượng môi trường bị suy thoái trầm trọng. Đảng
ta đã nhận thức được mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của vấn đề suy thoái môi
trường toàn cầu đến sự phát triển đất nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo gắt gao công tác
bảo vệ môi trường.
Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống thể chế chính sách góp phần vào việc
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường trong sạch và phát triển bền vững.
Các văn bản này điều chỉnh các nhóm quan hệ sau:
+ Nhóm quan hệ hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước đối với môi
trường thuộc phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật Bảo vệ môi trường và các luật có
liên quan;
+ Nhóm quan hệ về phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm
môi trường, phòng chống sự cố môi trường. kiểm soát các hoạt động ảnh hưởng đến
môi trường thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bảo vệ môi trường và hệ thống các
văn bản có liên quan;
+ Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng các thành phần
môi trường thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về tài nguyên;
25


×