VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ PHƯƠNG LOAN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỐI VỚI
HỘ DÂN DIỆN DI DỜI, GIẢI TỎA, THU HỒI ĐẤT
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN –
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2018
1
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ PHƯƠNG LOAN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỐI VỚI
HỘ DÂN DIỆN DI DỜI, GIẢI TỎA, THU HỒI ĐẤT
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN –
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 834.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
HÀ NỘI, năm 2018
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, hội
nhập làm xuất hiện những cơ hội mới: những ngành nghề mới, các lĩnh vực,
khu vực mới. Song quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mạnh
mẽ làm cho đất nông nghiệp thu hẹp lại, dẫn đến lao động có xu hướng thiếu
và mất việc làm, thu nhập giảm. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế, hướng tới tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm
tỷ trọng ngành nông nghiệp hiện nay, Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói
riêng đã đạt được những kết quả khả quan trong việc phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, nguy cơ tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu về việc làm cho
người lao động ngày càng trở thành một sức ép không nhỏ trong nền kinh
tế.Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, Nhà nước đã ban hành chính sách
hỗ trợ cho người bị thu hồi đất, từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều
kiện ngày càng tốt cho người có đất bị thu hồi ổn định cuộc sống và sản xuất.
Tuy nhiên, vẫn chưa tập trung tạo việc làm và chuyển đổi nghề cho người có
đất bị thu hồi; việc lập và tổ chức thực hiện phương án hỗ trợ tại một số dự
án chưa công khai, minh bạch; một số cán bộ làm công tác giải phóng mặt
bằng chưa đáp ứng yêu cầu; vai trò của các tổ chức quần chúng chưa được
phát huy. Những năm gần đây, với quá trình đô thị hoá và đẩy mạnh công
nghiệp hoá, Đà Nẵng là thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh nhiều diện tích
đất ở, đất sản xuất bị thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng để đầu tư phát
triển đô thị theo hướng văn minh hiện đại. Cùng với tiến trình đô thị hóa của
thành phố, quận Ngũ Hành Sơn là một trong những đơn vị có tốc độ đô thị
hóa nhanh, toàn quận có hơn 100 dự án đã và đang triển khai thực hiện trong
đó, có 6.043 hồ sơ thực hiện việc di dời giải tỏa, thu hồi đất sản xuất để nhà
3
nước thực hiện đầu tư các dự án. Tổng diện tích đất thu hồi là: 1.721ha, trong
đó đất thổ cư: 286,6ha, đất nông nghiệp và các loại khác là 1.452,4ha, dẫn đến
một lực lượng lớn lao động không có việc làm do bị thu hẹp hiện tích và quy
mô đất sản xuất nông nghiệp, tình hình đời sống của người dân sau khi bị thu
hồi đất hiện nay rất khó khăn gây ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế,
tình hình an ninh - xã hội của quận nói riêng và thành phố nói chung. Mặc dù
trong quá trình thu hồi đất Chính phủ và thành phố đã ban hành nhiều chính
sách đối với người dân như hỗ trợ giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi
nghề, hỗ trợ tái định cư,… tuy nhiên những vấn đề hậu giải phóng mặt bằng
mà trong đó vấn đề giải quyết việc làm cho lao động thuộc diện thu hồi đất,
chính sách pháp luật về hỗ trợ còn chưa đồng bộ, bất cập và đang là vấn đề
bức thiết cần được quan tâm giải quyết. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Thực hiện
chính sách hỗ trợ đối với hộ dân diện di dời giải tỏa thu hồi đất trên địa bàn
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu, làm luận văn tốt
nghiệp của mình, với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp có hiệu quả góp
phần thực hiện chính sách trong giải quyết hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
nhằm góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội trên địa bàn quận.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong đề tài này, tác giả đã hệ thống được cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn
của tạo việc làm cho người lao động. Tác giả đã phân tích rất rõ sự tác động
của công tác thu hồi đất đến đời sống và việc làm của người dân; tập trung
phân tích vào các chính sách của nhà nước, của địa phương và những khó
khăn trong việc tìm kiếm việc làm và các giải pháp nhằm giải quyết tạo việc
làm cho lao động trong vùng bị thu hồi đất tại Khu Kinh tế Dung Quất, Quảng
Ngãi. Học viên đánh giá cao phương hướng và giải pháp mà tác giả đã đưa ra.
Các giải pháp mà tác giả đưa ra đã góp phần giải quyết được những khó khăn
mà các địa phương đang gặp phải, tìm ra được nguyên nhân của những hạn
4
chế về tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất; làm rõ những nhân tố tác
động đến người lao động khi khi bị thu hồi đất để đề ra những giải pháp đạt
hiệu quả.
Theo pháp luật hiện hành quy định về dịch chuyển đất đai bao gồm cơ
chế thu hồi đất, cơ chế thực hiện hỗ trợ và cơ chế giải quyết khiếu nại của
dân từ đó có giải pháp hợp lý cho quá trình thực thi pháp luật.
Võ Thanh Long (2011), “Giải quyết việc làm cho người lao động vùng
bị thu hồi đất sản xuất trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế Đà Nẵng.
Tam kỳ là một thành phố mới được công nhận là thành phố thuộc tỉnh, quá
trình đô thị hóa diễn ra tương đối nhanh, tuy nhiên việc giải quyết việc làm
cho lao động sau khi nhà nước thu hồi đất vẫn còn nhiều bức xúc. Thực tế cho
thấy, người lao động trong vùng bị thu hồi đất không tìm được việc làm, hoặc
tìm được việc làm không ổn định, tình trạng doanh nghiệp sau khi tuyển dụng
lao động nhưng trả lương quá thấp khiến người lao động tự bỏ việc,… Ở đề
tài này tác giả đã làm rõ những vấn đề:
+ Lý luận về giải quyết việc làm cho lao động vùng thu hồi đất;
+ Nghiên cứu thực trạng về giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất
ở thành phố Tam Kỳ thời gian qua, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế.
Từ đó tác giả đã đề xuất một số giải pháp có tính khả thi để giải quyết
việc làm cho lao động thuộc diện thu hồi đất ở thành phố Tam Kỳ.
Ngoài các tài liệu nghiên cứu trên, còn có nhiều những bài báo khoa
học, những nghiên cứu nói về việc cần phải giải quyết việc làm cho lao động
thuộc diện thu hồi đất ở nhiều khía cạnh, cũng như những khó khăn còn tồn
tại của vấn đề này.
Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài: “Thực hiện
chính sách hỗ trợ đối với hộ dân diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất trên địa
5
bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích đánh giá khi thực hiện chính sách này tại quận Ngũ Hành
Sơn
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác thực hiện chính sách
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng
trong thời gian tới nhằm giải quyết hài hòa giữa các bên liên quan là Nhà
nước, nhà đầu tư và người thu hồi đất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan lý luận cơ bản về chính sách hỗ trợ đối với người dân diện
di dời khi nhà nước thu hồi đất.
- Phân tích thực trạng chính sách hỗ trợ trên địa bàn quận Ngũ Hành
Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác thực hiện chính
sách hỗ trợ đối với người dân diện di dời khi Nhà nước thu hồi đất nói chung
và tại quận Ngũ Hành Sơn nói riêng.
4. Đối tượng và nội dung nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu trong luận văn: là chính sách hỗ trợ đối với
người dân diện di dời thu hồi đất.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu về chính sách của Nhà nước và Thành phố
Đà Nẵng hỗ trợ hộ dân diện di dời khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2003-2017.
6
- Về không gian: Nghiên cứu tại các địa phương có quy hoạch thu hồi
đất trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn; gồm 4/4 phường của quận Ngũ Hành
Sơn: Phường Mỹ An, Phường Khuê Mỹ, Phường Hòa Hải và Phường Hòa
Quý.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Là cách tiếp cận nghiên cứu dựa trên cơ sở các chính sách ban hành để
thực hiện với quá trình tổ chức thực hiện chính sách ở cơ sở theo chu trình thực
hiện chính sách với sự tham gia của các chủ thể thực hiện chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp thu thập thông tin: được sử dụng để thu thập, phân tích
và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu,
bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước,
Bộ, Ngành ở Trung ương và thành phố Đà Nẵng, quận Ngũ Hành Sơn; các
công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban
ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới chính
sách và thực hiện chính sách hỗ trợ tại quận Ngũ Hành Sơn nói riêng.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để phân tích và
tổng hợp các quy định của pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói
chung và các thông tin về thực tiễn áp dụng hỗ trợ tại các dự án trên đại bàn
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
- Phương pháp thống kê: nhằm tiến hành thu thập tài liệu, số liệu báo
cáo phục vụ cho việc phân tích và đánh giá kết quả.
- Phương pháp phân tích và đánh giá chính sách: tìm hiểu các chính
sách hiện hành, các nghiên cứu đã có về chính sách trong lĩnh vực giải phóng
mặt bằng, nêu quan điểm của các tác giả từ đó đề ra các giải pháp phù hợp với
7
địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng để tham khảo và kiểm trai lại
các phân tích, đánh giávà đề xuất thực hiện chính sách hỗ trợ ở địa bàn nghiên
cứu.
- Phương pháp xã hội học: Thu thập các dữ liệu xây dựng chính sách
giải phóng mặt bằng; đánh giá cán bộ trực tiếp người dân được hưởng chính
sách.
6. Ý nghĩa lý luận và phương pháp thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tế vận dụng các kiến thức để
đánh giá thực hiện chính hỗ trợ.
- Qua nghiên cứu đề đã cho thấy việc vận dụng lý luận về đánh giá
chính sách công trong quá trình triển khai thực hiện đã phát hiện các vấn đề
hỗ trợ làm cơ sở và định hướng cho việc đưa ra các kiến nghị cho thực hiện
chính sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các phân tích đánh giá về thực hiện chính sách hỗ trợ tại địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã cho thấy những kết quả, tồn tại và từ
đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục tồn tại thực hiện các mục tiêu của
chính sách, khẳng định tính đúng đắn của chính sách.
7. Kết cấu luận văn
Gồm có phần mở đầu và kết luận, nội dung Luận văn được chia thành
các chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ đối với
hộ dân diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ đối với hộ dân diện
di dời, giải tỏa, thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất ở quận Ngũ Hành Sơn –
8
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện chính sách hỗ
trợ đối với hộ dân diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất trên địa bàn quận Ngũ
Hành Sơn.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
ĐỐI VỚI HỘ DÂN DIỆN DI DỜI, GIẢI TỎA, THU HỒI ĐẤT KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách hỗ trợ đối
với hộ dân thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất
1.1.1. Mục tiêu, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ
trợ
- Khái niệm: Chính sách hỗ trợ đối với hộ dân thuộc diện di dời, giải
tỏa, thu hồi đất là tổng thể các quan niệm, chủ trương, phương tiện và hành
động của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực hỗ trợ đối với người dân có đất bị
thu hồi nhằm đạt tới sự hài hòa, hợp lý về lợi ích, hiệu quả và phát triển bền
vững.
9
Chính sách hỗ trợ đối với hộ dân thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất
là căn cứ quan trọng mà dựa vào đó để xác dịnh nội dung, mức độ hỗ trợ,
chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ sản xuất, ổn định đời sống cho người dân bị
thu hồi đất.
- Mục tiêu của chính sách hỗ trợ đối với hộ dân thuộc diện di dời, giải
tỏa, thu hồi đất:
Thứ nhất: Đảm bảo quyền và lợi ích của người sử dụng đất, người sở
hữu nhà ở.
Thứ hai: Khuyến khích người dân giao đất.
Thứ ba: Ổn định việc làm góp phần nâng cao đời sống cho người dân
mất đất.
- Nội dung của chính sách hỗ trợ
Quy định mức và phương thức hỗ trợ
Quy định hỗ trợ người bị thu hồi đất
Quy định phương thức và mức hỗ trợ
- Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ :
Cơ sở pháp lý liên quan đến việc thu hồi đất
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Hoạt động giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở
Chính sách định giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam về tổ chức thực hiện
chính sách hỗ trợ.
1.1.2. Các tính chất của việc hỗ trợ khi thu hồi
- Tính phức tạp: Ở nước ta đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất không
thể thiếu được trong sản xuất nông nghiệp; cư dân sống chủ yếu vào hoạt
động sản xuất nông nghiệp, trình độ sản xuất chưa cao, khả năng chuyển đổi
nghề khó khăn, do đó việc định giá hỗ trợ, tuyên truyền, vận động người dân
10
giao đất rất khó khăn; chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và sinh kế là điều
cần thiết cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi. Đất ở, khu vực đô thị
có giá trị cá, thuận lợi trong kinh doanh và sinh sống có giá trị, gây khó khăn
cho việc thu hồi đất. Tình trạng lấn chiếm xây nhà trái phép vẫn diễn ra. Bên
cạnh đó việc tạo công ăn việc làm hậu giải tỏa chưa đáp ứng được yêu cầu ổn
định cuộc sống ở nơi mới. Đến nay vẫn rất khó khăn khi Nhà nước thu hồi
đất.
- Tính đa dạng: Tùy theo đặc điểm của từng vùng mà việc HT thực hiện
tại các dự án khác nhau và mục đích sử dụng HT khác nhau.
* Vai trò của chính sách hỗ trợ đối với hộ dân thuộc diện di dời, giải
tỏa, thu hồi đất khi Nhà nước thu hồi đất
Liên quan đến vấn đề hỗ trợ,vai trò việc thực hiện chính sách được thể
hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của
đất nước.
Luật đất đai quy định: Nhà nước thu hồi đất đai đang sử dụng để phục
vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
có phương án hỗ trợ cho người dân khi bị thu hồi đất. Quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước sẽ tăng nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật,
cơ sở hạ tầng xã hội do đó quỹ đất Nhà nước cần phải thu hồi là rất lớn.
Thứ hai, góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai nói
chung và chính sách pháp luật về hỗ trợ nói riêng.
Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đất đai nói chung, và chính
sách hỗ trợ nói riêng giúp cho chúng ta có cơ sở để tổng kết, đánh giá hiệu
quả của hệ thống pháp luật
Thứ ba, góp phần khắc phục những hạn chế, yếu kém trong hoạt động
của cơ quan nhà nước trong công tác giải phóng mặt bằng.
Việc thực hiện chính sách về hỗ trợ của cơ quan nhà nước phải được
11
thanh tra, kiểm tra cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự giám sát của các cơ
quan dân cử các phương tiện triền thông và quan trọng hơn là sự giám sát của
nhân dân, sẽ giúp kịp thời phát hiện những sai phạm, yếu kém trong quá trình
tổ chức thực hiện việc hỗ trợ.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước.Theo đó mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuyệt
đối tuân thủ các quy định pháp luật của Nhà nước.Nói cách khác pháp chế là
tính “linh thiêng” của pháp luật.Thực hiện đúng pháp luật trên thực tế sẽ làm
cho pháp chế được đảm bảo.
1.1.3. Các nguyên tắc và yêu cầu đối với công tác hỗ trợ đối với hộ
dân thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất
- Chính sách hỗ trợ được thực hiện thông qua một hoặc kết hợp các
hình thức bằng tiền, bằng đất, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và đảm
bảo công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
- Hiệu quả tiết kiệm ngân sách Nhà nước cả trong trước mắt cũng như
lâu dài. Phải tiết kiệm, không được lãng phí nhưng vẫn đảm bảo được lợi ích
và điều kiện sống của người bị thu hồi đất.
- Giải quyết hợp lý của các bên liên quan
1.2. Nội dung thực hiện chính sách hỗ trợ đối với hộ dân thuộc diện
di dời, giải tỏa, thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất
* Các bước tổ chức thực hiện chính sách
- Phân công, phối hợp thực hiện chính sách: các cơ quan, các ngành,
các cấp cần có sự phối hợp chặt chẽ để tổ chức thực hiện chính sách đạt hiệu
quả.
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách được đảm bảo
các nguyên tắc, yêu cầu, điều kiện hay không, có đạt được các mục tiêu, sử
dụng tốt các giải pháp và công cụ đã lựa chọn hay không, có tuân thủ đúng
12
quy trình, các quy định về mặt pháp lý hay không; có thu hút được sự quan
tâm, đồng tình, ủng hộ và hưởng ứng tham gia của đối tượng chính sách hay
không; có thực sự tạo ra những tác động lành mạnh, tích cực đối với đời sống
xã hội hay không… vẫn là sự quan tâm của các nhà làm chính sách.
Qua theo dõi, kiểm tra, đôn đốc nhằm kịp thời bổ sung, hoàn thiện
chính sách để nâng cao hiệu lực,hiệu quả thực hiện chính sách.
- Đây là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo điều hành và chấp hành
chính sách của các chủ thể và các đối tượng thực thi chính sách HT khi nhà
nước thu hồi đất.
* Các yếu tố đảm bảo thực hiện chính sách hỗ trợ đối với hộ dân thuộc
diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất
- Yêu cầu thực hiện mục tiêu: Thực hiện chính sách là những hoạt động
chủ thể của các cơ quan quản lý nhà nước và các đối tượng chính sách nhằm
đạt những mục tiêu trực tiếp. Muốn thực hiện thành công các chính sách, Nhà
nước phải xác định mục tiêu chính sách thành những kết hoạch và chương
trình cụ thể.
- Bảo đảm về chính trị, tư tưởng: Chấp hành sự lãnh đạo của đảng bằng
những đường lối chủ trương chính sách đúng đắn về công tác giải phóng mặt
bằng. Một số chủ trương liên quan trực tiếp đến những vấn đề nêu trên đã
được Đảng lãnh đạo và ban hành.
- Bảo đảm về pháp lý: Nhận thức được tầm quan trọng của việc giải
quyết các kiến nghị, khiếu nại, phản ánh của người dân, năm 2008, UBND
quận đã thành lập Tổ công tác giải tỏa đền bù để vừa theo dõi, tham mưu lãnh
đạo giải quyết các vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các dự án vừa tham mưu
trong công tác giải quyết trả lời đơn thư công dân. Sau này, để đảm bảo triển
khai công tác tiếp công dân theo Luật tiếp công dân 2013 và các văn bản
hướng dẫn dưới luật, UBND quận đã ban hành: Quyết định số 2121/QĐ-
13
UBND ngày 28/7/2014 thành lập Ban tiếp công dân quận; Quyết định số
2131/QĐ-UBND ngày 29/7/2014 về việc ban hành Nội quy tiếp công dân tại
trụ sở tiếp công dân quận. Do có sự thay đổi về nhân sự và kiện toàn lại Ban
tiếp công dân đúng theo tiêu chuẩn, UBND quận đã ban hành Quyết định số
1106/QĐ-UBND ngày 07/4/2017 về việc tổ chức lại Ban tiếp công dân quận
và Quyết định 1181/QĐ-UBND ngày 13/4/2017 quy định về tổ chức và hoat
động của Ban tiếp công dân (quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức, biên chế, công tác phối hợp trong hoạt động tiếp công dân, điều kiện
bảo đảm hoạt động tiếp công dân).
- Bảo đảm về đời sống cho người bị thu hồi đất: Thực hiện chính sách,
pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất GPMB cần phải có nguồn kinh phí,
vật chất khá lớn và cả về cơ chế chính sách và trình độ, năng lực, phẩm chất của
cán bộ, công chức.
Đồng thời phải có trình độ chuyên môn sâu, hiểu rõ, đúng những thay
đổi của văn bản pháp quy trong từng thời điểm, phải có trung thực thì cần
phải xây dựng được hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ từ quy hoạch, đến
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả về phẩm chất chính trị, cả về chuyên
môn và khả năng thực thi công việc và chế độ đãi ngộ phù hợp trong lĩnh vực
này
* Tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ đối với hộ dân
thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất
- Số lượng dự án triển khai đúng tiến độ
- Số lượng vụ kiện về HT hàng năm
- Chính sách hỗ trợ, an sinh xã hội đối với người dân bị thu hồi đất
- Lợi ích của các đối tượng chính sách có được đảm bảo hài hòa không
- Chi phí cho công tác HT so với kế hoạch dự kiến.
1.3. Kinh nghiệm thực hiện chính sách hỗ trợ người dân khi nhà
14
nước thu hồi đất một số địa phương
* Kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là đại phương có diện tích chuyển sang đất sủ
dụng cho mục đính phi nông nghiệp lớn nhất so với các địa phương khác
trong cả nước.
Cơ chế định giá phù hợp với thị trường trước khi Ủy ban nhân dân
thành phố quyết định giá để tính hỗ trợ là cách triển khai rất khách quan, đảm
bảo đước tính đồng thuận giữa cơ quan nhà nước và người bị thu hồi đất.
* Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng đã và đang thực hiện tốt trong vấn đề thu hồi đất
đai, giải phóng mặt bằng và tái định cư có đến 92% người dân Thành phố Đà
Nẵng đồng ý chấp hành. Để được kết quả như trên cần làm tốt những công
việc sau:
- Trong quá trình kiểm đếm đất đai, vật kiến trúc, cây cối hoa màu làm
cơ sở để lập phương án hỗ trợ, đại đa số các hộ gia đình trong diện hỗ trợ giải
phóng mặt bằng được tham gia.
- Hội đồng giải phóng mặt bằng đều được thành lập ở mỗi dự án. Dự án
được triển khai ở quận, huyện nào thì Chủ tịch UBND quận, huyện đó làm chủ
tịch Hội đồng GPMB.
- Định kỳ hằng tháng chủ tich Ủy ban nhân dân Thành phố đều xếp
lịch tiếp dân để nghe nguyện vọng, giải quyết những vấn đề bức xúc của
người dân.
* Kinh nghiệm của quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Cùng với quá trình đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng, quận Cẩm Lệ
được TP quy hoạch mở rộng để trở thành trung tâm kinh tế- văn hóa ở cửa
ngõ phía Tây, Tây nam của TP. Do đó, trong thời gian qua, đi đôi với quy
hoạch đầu tư phát triển, Cẩm Lệ đã tập trung làm tốt công tác giải quyết việc
15
làm cho người lao động trong khu vực giải tỏa đền bù. Nhờ vậy đã góp phần
ổn định tình hình và tác động tích cực, tạo sự đồng thuận của người dân trên
địa bàn trong việc xây dựng, phát triển địa phương.... một lượng khá lớn các
hộ dân nằm trong khu vực giải tỏa đền bù để lấy đất xây dựng, chỉnh trang đô
thị và phát triển TP theo hướng đô thị hóa ngày càng mạnh.
Với việc ban hành và triển khai thực hiện Đề án này, đến nay đã góp
phần rất quan trọng để Cẩm Lệ nói riêng và Đà Nẵng nói chung thực hiện khá
tốt công tác vận động di dời, giải tỏa đền bù, tái định cư và giải quyết việc
làm, ổn định cuộc sống của người dân vùng di dời.
Để đảm bảo việc làm cho người dân, Quận đã tập trung cả hệ thống
chính trị từ quận xuống phường tuyên truyền các chủ trương quy hoạch;
tương lai của dự án và các vấn đề an sinh cho người dân sau khi giải tỏa như:
chính sách đền bù, giải quyết việc làm và đào tạo nghề, điều kiện sống khi
chuyển đến nơi ở mới...; tạo tâm lý yên tâm cho người dân và sự đồng thuận
thông qua các phiên chợ việc làm giúp cho người lao động và doanh nghiệp
tìm được nhau.
Với sự nỗ lực và thông qua cách làm trên của Cẩm Lệ, thời gian qua
quận luôn làm tốt công tác vận động người dân tích cực tham gia di dời,
nhường đất cho các dự án đầu tư phát triển trên địa bàn. Số liệu báo cáo tại
Hội nghị tổng kết Đề án giải quyết việc làm cho người lao động trong độ tuổi
lao động của TP Đà Nẵng giai đoạn 2005-2020 do UBND thành phố Đà Nẵng
tổ chức đầu tháng 6 vừa qua, UBND quận Cẩm Lệ cho biết: Trong 5 năm qua,
Quận đã giải quyết việc làm cho 7.959 lao động và đào tạo 1.717 người trong
độ tuổi. Thông qua Đề án chuyển đổi ngành nghề và giải quyết việc làm cho
nông dân tại khu đô thị sinh thái Hòa Xuân, Quận đã tổ chức đối thoại trực
tiếp với người dân tại 6 điểm. đào tạo nghề cho 699 người dân để giúp cho
người dân có việc làm ổn định. Quận đã làm cầu nối giữa người dân với
16
doanh nghiệp trên địa bàn quận như: Công ty Dệt may Hòa Thọ, Công ty
Phước Tường, Công ty Nhật Linh và Khu công nghiệp Hòa Cầm..., giới thiệu
cho hơn 1.170 lao động vào làm việc. Ngoài ra, quận phối hợp với Sở Lao
động- Thương binh và Xã hội, Trung tâm Giới thiệu việc làm Đà Nẵng tổ
chức 2 phiên chợ việc làm thu hút hơn 1.200 người tham gia, giải quyết 210
lao động. Đặc biệt tổ chức 1 phiên tại phường Hòa Xuân - nơi có 3.210 hộ
dân di dời thu hút hơn 1.000 người tham gia, giải quyết 298 lao động.
Có thể nói, từ khi triển khai Đề án đào tạo nghề và giải quyết việc làm
cho nông dân Khu đô thị Hòa Xuân, số lao động được giải quyết việc làm và
đào tạo nghề tăng lên từng năm và cơ bản đã giải quyết được bài toán khó trên
của quận.
Tiểu kết luận chương 1
Trong quá trình thực hiện các dự án việc di dời giải tỏa, quy hoạch phát
triển đô thị sẽ nảy sinh không ít vấn đề xã hội bức xúc về việc làm, thu nhập
và cuộc sống mới của người dân, đòi hỏi chúng ta cần phải tập trung nguồn
lực, huy động sức mạnh của các ngành, các cấp để cùng giải quyết những khó
khăn, đặc biệt là sự nỗ lực và đồng thuận của người dân trong vùng quy
hoạch. Quận Ngũ Hành Sơn là địa phương có những chủ trương, giải pháp cụ
thể giúp người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp tìm việc làm, chuyển đổi
ngành nghề sớm ổn định cuộc sống; đồng thời nhanh chóng chuyển lực lượng
lao động nông nghiệp sang các ngành nghề thương mại, dịch vụ, công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp… góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển công nghiệp
hoá-hiện đại hoá của thành phố;
Qua thực tế điều tra thực trạng lao động hộ di dời giải toả, thu hồi đất
sản xuất trên địa bàn quận, UBND quận Ngũ Hành Sơn xây dựng “Đề án hỗ
trợ chuyển đổi ngành nghề và giải quyết việc làm cho hộ nông dân thuộc diện
17
di dời giải toả, thu hồi đất sản xuất trên địa bàn quận giai đoạn 2015 - 2020”
nhằm định hướng, giúp cho cho người lao động tìm kiếm được việc làm mới
và ngành nghề phù hợp có thu nhập, đồng thời tạo niềm tin cho người nông
dân vào chủ trương, chính sách giải tỏa, đền bù của Đảng và Nhà nước, góp
phần chăm lo an sinh xã hội và phát triển quận Ngũ Hành Sơn ngày càng văn
minh, hiện đại phù hợp với quy hoạch phát triển của Thành phố và Quận
trong tương lai./.
18
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
ĐỐI VỚI HỘ DÂN DIỆN DI DỜI, GIẢI TỎA, THU HỒI ĐẤT KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở QUẬN NGŨ HÀNH SƠN
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Ngũ Hành Sơn
ảnh hưởng đến thực hiện chính sách hỗ trợ đối với hộ dân thuộc diện
di dời, giải tỏa, thu hồi đất, khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
Ngũ Hành Sơn là đơn vị hành chính 01 trong 08 quận, huyện (kể cả
huyện đảo Hoàng Sa) của thành phố Đà Nẵng, được thành lập khi Thành phố
được chia tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) để trở thành đơn vị hành
chính trực thuộc Trung ương vào năm 1997. Quận có diện tích tự nhiên là
3.653ha, dân số 80 ngàn người, nằm về phía Đông Nam (giáp Biển Đông) và
cách trung tâm Thành phố khoảng 10km. Với vị trí địa lý như trên, quận Ngũ
Hành Sơn đóng vai trò quan trọng chiến lược trong quá trình phát triển về
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của thành phố Đà Nẵng và có
nhiều lợi thế để phát triển, có bờ biển bãi cát dài nối với các di sản văn hóa
thế giới: Đô thị cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn, cố đô Huế…để phát triển mạnh
mẽ về ngành du lịch và dịch vụ. Sau 17 năm thành lập xây dựng và phát triển,
dưới sự lãnh đạo sâu sát của Thành phố và sự nỗ lực của cả hệ thống chính
trị địa phương, nhất là sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ quận, kinh tế - xã
hội Quận phát triển nhanh chóng, tình hình quốc phòng, an ninh được đảm
bảo, đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân được nâng lên đáng kể, dần
dần vươn lên, ngang bằng với các địa phương bạn và từng bước trở thành
Khu đô thị du lịch phía Đông Nam thành phố Đà Nẵng. Đó chính là thành
quả của sự cố gắng không ngừng của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt
19
trận và nhân dân quận Ngũ Hành Sơn trong suốt thời gian qua.
Về dân số có(theo số liệu thống kê ngày 01 tháng 4 năm 2010) toàn
quận có 43.084 người với mật độ dân số: 1.171 người/km2. Hiện nay, dân số
tăng lên 61.441 với 16.470 hộ, trong đó số luợng người trong độ tuổi lao động
là 40.765 người, chiếm 67,7% so với tổng dân số của quận. Tốc độ tăng dân
số bình quân hằng năm là 1,20%. Số lao động đang có việc làm 26.385 người;
lao động thiếu việc làm và việc làm không ổn định 14.380 người;
Về đời sống : Tuy là quận nội thành nhưng thực trạng đời sống nhân
dân còn thấp so với các quận trong thành phố. Năm 2011 toàn quận có 12.019
hộ trong đó 2.695 hộ nghèo với 10.971 khẩu chiếm tỷ lệ 22,4 % so với tổng
số hộ, trong đó có 197 hộ đặc biệt nghèo nhóm I với 597 nhân khẩu trong đó
đối tượng xã hội neo đơn gồm 92 hộ với 170 khẩu đang hưởng trợ cấp xã hội;
hộ đặc biệt nghèo Nhóm II và III có 216 hộ với 995 khẩu.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Ngũ Hành Sơn
ảnh hưởng đến thực hiện chính sách về hỗ trợ, khi Nhà nước thu hồi đất.
- Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế thuộc quận quản lý tăng bình
quân hằng năm (2016 - 2020) là 15,92%.
- Tổng giá trị sản xuất ngành du lịch – dịch vụ - thương mại do quận
quản lý tăng bình quân hằng năm là 20,75%. tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế
năm 2016 là 66% đến năm 2020 tăng lên 77,7%.
- Số lượng và quy mô sản xuất kinh doanh không ngừng tăng lên, năm
2015 có 1.273 doanh nghiệp đến năm 2017 có 2.075 doanh nghiệp, hộ cá thể
tăng từng năm từ 20 – 30%.
- Giá trị sản xuất Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – xây dựng cơ
bản: giá trị sản xuất tăng bình quân hằng năm là 4,26%; tỷ trọng cơ cấu kinh
tế năm 2016 là 29,8% đến 2020 giảm xuống còn 19,5%.
- Ngành nông nghiệp – thủy sản: tăng bình quân hằng năm 4,96%;
20
trong đó nông nghiệp giảm 15,25%, ngành thủy sản tăng 12,49%, tỷ trọng cơ
cấu kinh tế năm 2016 là 4,2% đến năm 2020 giảm xuống còn 2,8%.
Quá trình đô thị hóa trên diện rộng đã thu hẹp diện tích đất và quy mô
sản xuất nông nghiệp, song quận đã có những cố gắng trong công tác chỉ đạo
tiếp tục sản xuất trên các diện tích còn lại theo hướng thâm canh, chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, con vật nuôi.
Công tác đầu tư hạ tầng cơ sở, đã được lãnh đạo quận chú trọng đầu tư
số phường có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Hệ thống nước thủy cục của
quận được xây cung cấp nước sạch sinh hoạt cho 98% hộ dân trên địa bàn.
- Hệ thống thông tin liên lạc: Ngành bưu chính viễn thông đã có sự tiến
bộ vượt bậc, từng bước phát triển nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của quận.
- Về chăm sóc y tế, ở mức trung bình so với các quận huyện khác trong
thành phố, toàn quận có 4/4 trạm y tế được xây dựng kiên cố, có 01 Bệnh viện
đa khoa trung tâm quận.
- Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, truyền thanh luôn bám sát nhiệm vụ
chính trị của quận, làm tốt công tác tuyên truyền, cổ động trực quan nhân dịp
lễ, Tết và các sự kiện chính trị của đất nước, của thành phố và quận, đặc biệt
tập trung tuyên truyền Đại hội Đảng các cấp.
- Điều kiện xã hội của Quận ngày càng được hoàn thiện nhờ sự quan
tâm của các cấp chính quyền là một trong những điều kiện thuận lợi cho mục
tiêu phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn. Điều dễ nhận thấy về sự đổi thay
đó là kinh tế của quận đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với
xu thế chung của thành phố, tạo nên những biến đổi rõ rệt. Trên cơ sở phát
huy tiềm năng và lợi thế của quận, hàng năm Ban Chấp hành Đảng bộ quận
đều ban hành Nghị quyết tập trung lãnh đạo bằng các chuyên đề, đề án và
khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ dân doanh vượt qua khó khăn,
21
thách thức, tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các ngành kinh tế của quận dịch
chuyển theo đúng định hướng, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, công nghiệp
và tăng tỷ trọng ngành dịch vụ. Tổng giá trị sản xuất các ngành thuộc quận
quản lý tăng qua các năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 13,70%. Trong đó,
lĩnh vực dịch vụ, du lịch và thương mại được xác định là mũi nhọn trong cơ
cấu kinh tế của quận đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với việc đầu tư
tôn tạo và phát huy tiềm năng của Khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn,
Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước đến nay đã có thương hiệu và sản phẩm
làm ra ngày càng tinh xảo bởi những bàn tay tài hoa của các nghệ nhân qua
các thế hệ đã thu hút được khách hàng trong, ngoài nước.
Thực hiện chủ trương giải tỏa đền bù, chỉnh trang đô thị, trong những
năm qua quận Ngũ Hành Sơn như một đại công trình, 4/4 phường đều nằm
trong diện giải tỏa. Gắn bó gần cả đời với nhà cửa, ruộng đồng vốn đã quen
nay phải rời xa di dời đến nơi ở mới là điều không dễ, tuy nhiên điều đáng
trân trọng là người dân đã ý thức được trách nhiệm của mình trong việc góp
phần xây dựng thành phố, xây dựng quận phát triển, nên mỗi người dân đã
đồng thuận, ủng hộ chủ trương giải tỏa đền bù, quy hoạch phát triển hạ tầng
đô thị của quận những năm qua. Bên cạnh việc đồng thuận của nhân dân, thì
các cấp ủy đảng, chính quyền, cả hệ thống chính trị từ quận đến cơ sở đã cùng
vào cuộc, đến tận từng nhà dân, nghe dân nói và nói cho dân hiểu, kiên trì vận
động, thuyết phục trên cơ sở đảm bảo dân chủ, tuân thủ các quy trình, thủ tục
về chính sách giải toả, đền bù và chú trọng giải quyết đảm bảo các lợi ích
chính đáng của người dân, nhất là sự gương mẫu chấp hành bàn giao mặt
bằng của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức quận nên người dân đã sớm
bàn giao hơn 13.000 hồ sơ nhà và đất nông nghiệp, tiến hành di dời, sắp xếp,
bố trí ổn định hơn 60 nhà thờ tộc, họ và di chuyển hơn 19.000 ngôi mộ lên
nghĩa trang Hòa Sơn để bàn giao mặt bằng cho hàng trăm dự án được triển
khai suốt những năm qua. Từng người dân đều đã chấp nhận cuộc đổi thay, hi
22
sinh một phần lợi ích riêng vì sự phát triển đi lên của thành phố nói chung và
quận Ngũ Hành Sơn nói riêng. Không chỉ có vậy, tại nhiều công trình hạ tầng,
công trình dân sinh thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm”, người dân đều đồng tình hưởng ứng với hành động cụ thể như hiến đất,
phá bỏ tường rào...để thực hiện công trình.
Từ sự đồng thuận của nhân dân và sự quan tâm của thành phố, cơ sở hạ
tầng trên địa bàn quận đã được đầu tư rất mạnh mẽ và đồng bộ, bộ mặt đô thị
gần như lột xác hoàn toàn và được định hình ngày càng rõ nét, những con
đường đất chật hẹp, “nắng bụi, mưa bùn” đã lùi vào quá khứ, thay vào đó là
những cung đường đẹp và hiện đại như: đường Lê Văn Hiến, Trần Đại Nghĩa,
Mai Đăng Chơn, Nguyễn Duy Trinh….được nâng cấp, mở rộng hay các tuyến
đường mới Võ Chí Công, đặc biệt là đường Vành đai phía Nam thành phố đã
tạo sự kết nối đánh thức một vùng đất giàu tiềm năng phía Đông Nam thành
phố. Nhiều khu dân cư mới mọc lên với những ngôi nhà cao tầng kiên cố đem
lại cho quận một diện mạo mới. Vị thế và tiềm năng rất lớn của tuyến đường
ven biển Sơn Trà - Điện Ngọc cũ, nay là đường Võ Nguyên Giáp - Trường Sa
đã trở thành điểm thu hút hấp dẫn hàng chục dự án du lịch có quy mô. Hàng
loạt khu nghỉ dưỡng cao cấp ven biển đã đi vào hoạt động, nhiều điểm tham
quan, du lịch được đầu tư cải tạo, nâng cấp. Để đảm bảo mục tiêu xây dựng
và phát triển quận Ngũ Hành Sơn trở thành khu đô thị văn minh, hiện đại phía
Đông Nam thành phố, gần đây nhất, từ năm 2011 đến năm 2015 quận đã được
đầu tư nguồn vốn rất lớn xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị trên địa bàn
quận với tổng vốn đầu tư gần 36.000 tỷ đồng đã góp phần làm thay đổi căn
bản diện mạo đô thị theo hướng hiện đại. Song song với hạ tầng giao thông,
20 năm qua là khoảng thời gian đặc biệt ghi dấu sự hình thành của hàng loạt
khu dân cư mới trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn. Nếu như các khu dân cư Bá
Tùng cùng Khu phố chợ Hòa Hải được xem là mở đầu cho sự hình thành đô
thị phía Nam thành phố thì sau đó, hàng loạt khu đô thị mới như: Phú Mỹ An,
23
Khu đô thị công nghệ FPT, Khu tái định cư phía Tây làng đá mỹ nghệ Non
Nước, Khu dân cư Tân Trà, Đông Trà...đã lần lượt được xây dựng. Bên cạnh
đó, các khu dân cư phía Nam cầu Trần Thị Lý, cầu Tiên Sơn hay Mỹ An biến
khu vực nông thôn, những tên làng, tên xóm trước đây thành những khu đô
thị sầm uất, tô điểm thêm cho vóc dáng đô thị vốn đang dần hình thành ngày
càng rõ nét.
Chính sự chuyển biến toàn diện của bức tranh kinh tế với mức tăng
trưởng bình quân hơn 13%/năm đã tạo cú hích thuận lợi cho công tác thu
ngân sách của quận Ngũ Hành Sơn suốt 20 năm qua. Những năm đầu quận
mới thành lập, từ năm 1997-2000, hằng năm, tổng thu ngân sách chỉ tăng bình
quân 15%. Trước tình hình đó, Quận ủy đã quyết liệt chỉ đạo UBND từ quận
đến phường tập trung quản lý, điều hành nghiêm túc, chặt chẽ kế hoạch thu,
chi ngân sách đảm bảo hoạt động của quận và đến giai đoạn 2006-2015, tốc
độ thu ngân sách trên địa bàn quận tăng lên với con số ấn tượng gần
123%/năm. Chính nguồn lực ấy là cơ sở để quận triển khai thực hiện đảm bảo
an sinh xã hội trên địa bàn quận.
Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, 100% trường Tiểu học
đạt chuẩn quốc gia. Ngày mới thành lập, toàn quận chỉ có 15 trường học các
cấp thì đến nay con số này đã tăng lên gấp đôi. Tỷ lệ học sinh giỏi và số
lượng học sinh đạt giải học sinh giỏi các cấp tăng dần qua các năm. Tỷ lệ học
sinh bỏ học được hạn chế đến mức thấp nhất. Công tác xóa mù chữ, phổ cập
giáo dục tiếp tục được duy trì và phát triển. Công tác khuyến học, khuyến tài
được thực hiện có hiệu quả. Trường học trên địa bàn quận được đầu tư xây
mới và nâng cấp sửa chữa ngày càng khang trang, Trường THPT Võ Chí
Công mới được thành lập, đây là ngôi trường THPT công lập thứ 2 trên địa
bàn quận được đầu tư để đáp ứng nhu cầu học tập của con em địa phương. Mô
hình “Tiếp sức học sinh đến trường” được duy trì thực hiện đã góp phần hạn
chế tình trạng học sinh bỏ học và nâng cao hiệu quả giáo dục. Đội ngũ giáo
24
viên và cán bộ quản lý giáo dục được chăm lo xây dựng và chuẩn hóa. Việc
thi tuyển chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường học được thực hiện
thường xuyên và công bằng, khách quan nên góp phần nâng cao hiệu quả
trong công tác quản lý, sử dụng cán bộ. Bên cạnh đó, mỗi năm quận Ngũ
Hành Sơn còn kêu gọi xã hội hóa, vận động các tổ chức, cá nhân hỗ trợ hàng
trăm suất học bổng, dụng cụ học tập, xe đạp cho sinh viên, học sinh để tiếp
thêm cho các em niềm tin và nghị lực, vượt qua những khó khăn tiếp tục đến
trường.
Chương trình an sinh xã hội được quan tâm tổ chức thực hiện có hiệu
quả, việc chăm lo cho người lao động nghèo đem lại thành tích đáng trân
trọng: đến cuối năm 2015 đã giảm hết số hộ nghèo theo tiêu chí mới của
thành phố. Đối với các gia đình chính sách và xã hội được quan tâm đúng
mức, Bà mẹ Việt Nam anh hùng được quan tâm phụng dưỡng chăm sóc. Thực
hiện tốt Đề án hỗ trợ nhà ở cho người có công cách mạng trên địa bàn quận,
từ năm 2014 đến năm 2016 đã có 353 gia đình chính sách được quận và thành
phố hỗ trợ xây dựng, sửa chữa. Trong 20 năm qua, từ nguồn ngân sách thành
phố, ngân sách quận và sự tài trợ của các nhà hảo tâm, các cơ quan, doanh
nghiệp, quận ta đã xây dựng được hàng ngàn ngôi nhà tình nghĩa, nhà đại
đoàn kết theo mô hình “3 trong 1” (vừa xóa nhà tạm, vừa chống bão và tránh
lụt ) và 3 “cứng” (cứng tường, cứng mái và cứng nền) góp phần làm cho bộ
mặt đô thị của quận bừng lên sức sống mới. Vấn đề giải quyết việc làm cho
nhân dân trên địa bàn quận là nhiệm vụ cấp thiết, được sự chỉ đạo của Quận
ủy, UBND quận đã xây dựng và triển khai Đề án “Hỗ trợ chuyển đổi ngành
nghề và giải quyết việc làm cho nông dân thuộc diện di dời giải tỏa, thu hồi
đất sản xuất trên địa bàn quận giai đoạn 2011-2020”. Bằng nhiều biện pháp
thiết thực, công tác giải quyết việc làm đã đạt nhiều kết quả quan trọng góp
phần bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn quận.
Chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn quận được nâng
25