VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TRÂN CHÂU
GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
:
834.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS HỒ VIỆT HẠNH
HÀ NỘI, Năm 2018
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết
định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Chất lượng này phụ thuộc vào
đào tạo nghề. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI khi đánh
giá về giáo dục và đào tạo (trong đó có đào tạo nghề) nhấn mạnh những hạn
chế yếu kém của công tác này, đó là “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn
còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Hiện
nay hầu hết các chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học cũ, chưa có
đổi mới; đào tạo không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất
lượng giáo dục giảm, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0.
Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng khẳng định trong ba
đột phá chiến lược phát triển trong những năm tới của Việt Nam là cải cách
hành chính, xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước khi nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực có ý nghĩa quan trọng, quyết định.
Đào tạo nghề cho thanh niên nói đang là vấn đề xã hội mà các quốc gia
đều quan tâm. Chính sách đào tạo nghề là chính sách lớn, có ý nghĩa là đòn
bẩy đối với mỗi nền kinh tế. Có thể nói, hiệu quả của việc đào tạo nghề gắn
liền với sự quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam,
vấn đề đào tạo nghề cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Trong chiến lược
2
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung thì nguồn lực ở độ tuổi thanh
niên có vai trò và giữ vị trí trung tâm. Bước sang thế kỷ XXI, với những cơ
hội và thách thức, trên cơ sở nhìn nhận sâu sắc những ưu điểm và những biểu
hiện phức tạp của thanh niên hiện nay, Nghị quyết Đại Hội IX của Đảng đã
xác định đối với thế hệ trẻ cần phải “chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức lối sống, văn hóa, sức
khỏe, nghề nghiệp giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo,
phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quận Ngũ Hành Sơn là một trong các quận nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm của thành phố Đà Nẵng, là miền đất đầy tiềm năng về phát triển
kinh tế. Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển của cả thành
phố, quận Ngũ Hành Sơn có những bước chuyển mạnh mẽ về nhiều mặt, đặc
biệt là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt nhiều thành tựu quan trọng thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội, chính trị ổn định. Trong những thành tựu đó có
vấn đề đào tạo cho người lao động nói chung, thanh niên nói riêng.
Tuy nhiên, hiện nay công tác đào tạo nghề cho thanh niên còn nhiều
bất cập và khó khăn, thiếu định hướng ngành nghề cụ thể, khó khăn trong tiếp
cận việc làm, quan hệ cung cầu trong thị trường lao động cho thanh niên đang
mất cân đối... luôn được xã hội quan tâm. Do thị trường việc làm tại địa
phương còn nhiều yếu kém và nếu tiếp tục ở lại địa phương thì sẽ thất nghiệp
và thiếu việc nên phần lớn thanh niên trên địa bàn đã rời quê hương đi làm ăn
xa, nguyên nhân là do quá trình thu hồi đất nông nghiệp, chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp nhằm thực hiện công tác giải tỏa mặt bằng, phục vụ
các dự án về hạ tầng, dân sinh trên địa bàn và các nhà máy, xí nghiệp hiện
nay đang đầu tư, áp dụng các công nghệ kỹ thuật, công nghệ thông tin tiên
tiến nên sử dụng ít lao động; bên cạnh đó là trình độ học vấn; kỹ năng nghề
nghiệp, và tác phong, ý thức kỷ luật còn có nhiều bất cập chưa đáp ứng các
3
điều kiện của doanh nghiệp. Mặt khác, một bộ phận thanh niên ở địa phương
này không có việc làm do trình độ học vấn và tay nghề chuyên môn còn thấp,
chưa thực sự thay đổi suy nghĩ, tập quán sống, chưa thích ứng với yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong khi đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn chưa coi
thanh niên trong xã là lực lượng lao động chủ chốt, nên chưa nhiệt tình và tin
cậy để phổ biến nghề mới, đào tạo nghề, tư vấn nghề và hỗ trợ các kỹ năng
nghề cho thanh niên còn hạn chế. Do đó, tỷ lệ thiếu việc làm và tình trạng
thất nghiệp của thanh niên có xu hướng ngày càng tăng, mức thu nhập thấp
đã dẫn tới con đường thanh niên phải tự tìm kiếm việc làm mới, không ít
trường hợp bị lừa gạt hoặc phải làm những công việc ở mức lương thấp hoặc
những việc làm trái với pháp luật, đạo đức của xã hội: mại dâm, trộm cắp,
cướp giật, lừa đảo, buôn bán ma túy mà mục đích chỉ vì cuộc sống sinh tồn
thiếu việc làm và thất nghiệp. Như vậy, căn cứ vào những cơ sở trên, rõ ràng
rằng đào tạo nghề giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng đang kéo theo hàng loạt những vấn đề xã hội cấp bách
cần được giải quyết
Xuất phát từ nhận định trên, Tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề
tài “Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” là yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính
sách công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu cho thấy những vấn đề liên quan đến đào
tạo nghề, giải quyết việc làm… đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau. ..ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau:
Tác giả Phan Chính Thức đã nghiên cứu về “Những giải pháp phát
4
triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” trong đó có đề xuất những khái niệm, cơ sở lý luận
mới của đào tạo nghề, về lịch sử đào tạo nghề và giải pháp phát triển đào tạo
nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Viết Sự trong công trình về “Giáo dục nghề nghiệp –
những vấn đề và giải pháp”, đã phân tích, làm rõ những quy định về phát
triển nghề nghiệp, hoạt động giáo dục nghề nghiệp... qua đó, tác giả đã tìm ra
được những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trên, đề đề xuất các
giải pháp hữu hiệu cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Nhóm tác giả Mạc Văn Tiến, Đỗ Minh Cương với tác phẩm: Phát
triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, đã hệ thống hóa
các vấn đề liên quan đến phát triển thị trường lao động kỹ thuật, những nội
dung được đề cập trong nghiên cứu là những vấn đề cần thiết, cấp bách về
công tác giáo dục nghề nghiệp, đồng thời tác giả cũng đánh giá đối tượng lao
động kỹ thuật cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để đảm bảo hiệu quả đầu
tư cho giáo dục và dạy nghề. Đổi mới chương trình giảng dạy, tăng cường
đầu tư thiết bị, công nghệ phù hợp với thiết bị, công nghệ của sản xuất, nâng
cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên;
Nhìn chung, những công trình và bài viết nói trên đã tiếp cận nghiên
cứu vấn đề đào tạo nghề, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến người lao
động nói chung và đến vấn đề việc làm, tạo việc làm cho thanh niên ở nhiều
góc độ, nhiều địa phương vấn đề tác động của nhiều lĩnh vực khác nhau và
gợi mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới rất bổ ích.
Hiện tại chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu nội
dung đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã học tập kết hợp và chọn
5
lọc những vấn đề được nghiên cứu của các công trình khoa học đã có, vận
dụng các hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm vốn có của bản thân đã và đang
công tác trong lĩnh vực có liên quan đến đào tạo cho thanh niên, tác giả đã
khảo sát tình hình lao động thanh niên trên địa bàn toàn quận, từ đó rút ra bài
học và kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề
cho thanh niên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam để có cơ sở khoa học đánh giá thực
trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên quận Ngũ Hành Sơn
và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho thanh niên ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ tổng hợp những vấn đề lý luận chung về chính
sách đào tạo nghề cho thanh niên.
Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
tại quận Ngũ Hành Sơn,Thành phố Đà Nẵng
Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện đào tạo nghề cho thanh niên ở Quận Ngũ Hành Sơn nói riêng và
Thành phố Đà Nẵng nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam, cụ thể là nghiên
cứu giải pháp và công cụ chính sách đào tạo nghề cho thanh niên dưới góc độ
6
khoa học chính sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến nay và đề ra
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
thanh niên ở nước ta trong thời gian tới.
Thời gian: Tháng 6 - 8.2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước... về đào tạo nghề cho thanh
niên
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,
khái quát hóa các tài liệu sẵn có từ các nguồn tài liệu chính thức, từ các công
trình nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trước đây, các bài viết, tạp chí,
sách báo, internet,.. từ các báo cáo của cơ quan chức năng Quận Ngũ Hành
Sơn về các vấn đề có liên quan đến đào tạo nghề cho thanh niên; nghiên cứu
chính sách công kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Ý nghĩa lý luận của luận văn thể hiện ở chỗ các kết quả, kết luận rút ra
từ việc nghiên cứu đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề
lý luận về thực hiện chính sách công, thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
7
thanh niên ở Việt Nam nói chung và quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thể hiện ở chỗ đã đề xuất các giải pháp thiết thực, các kinh nghiệm
góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
thanh niên tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách đào tạo nghề cho thanh
niên.
Chương 2: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên từ thực
tiễn tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách đào
tạo nghề cho thanh niên ở nước ta hiện nay.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐẠO TẠO NGHỀ
CHO THANH NIÊN
1.1. Khái niệm, đặc điểm đào tạo nghề
1.1.1. Khái niệm Nghề
Có khá nhiều diễn đạt về khái niệm nghề. Theo tác giả hiểu “Nghề là
một hình thức được thể hiện bằng những kiến thức lý thuyết đã học và thực
hành để hoàn thành những công việc nhất định.
Ngoài ra “Nghề”còn là một hoạt động lao động trong đó, khi được
đào tạo, người học có được kiến thức, kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm
đáp ứng được nhu cầu của con người.
Danh mục về diễn giải khái niệm nghề có thể rất dài, nhưng tựu trung
lại, nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc.
Nghề nghiệp như một cơ thể sống, có sinh trưởng có phát triển và chết đi.
Bên cạnh đó, rất nhiều nghề đã có thời kỳ gần như không thể thiếu trong đời
sống xã hội trước đây nay đã mất đi, từ những nghề hoàn toàn thủ công, lao
động chân tay (như nghề đóng cối xay lúa tồn tại hàng vài thế kỷ, nhưng khi
máy xay sát được đưa vào hoạt động thì nghề này không còn nữa) hoặc sử
dụng công nghệ ở trình độ thấp (như nghề trực tổng đài điện thoại tại các cơ
quan để nối đến các máy lẻ đã mất đi nhiều năm nay khi công nghệ viễn
thông phát triển).
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn khác nhau. Mỗi chuyên môn là kiến
thức, kỹ nẵng trong một lĩnh vực cụ thể và nhất định, nó được hiểu như là
một lĩnh vực lao động sản xuất nhỏ hẹp, con người bằng năng lực thể chất và
tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công
cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh
9
vẽ…)
Từ các cách hiểu trên cho thấy nghề là kết quả của sự phân công lao
động xã hội, xã hội phát triển thì ngành nghề cũng thay đổi theo.Và dưới góc
độ đào tạo, nghề là toàn bộ các kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm
nghề nghiệp và các phẩm chất khác.
Muốn trở thành một nghề thì ít nhất cũng phải trải qua đào tạo, cho dù
là đào tạo dài hạn, bài bản; hoặc hướng dẫn kèm cặp. Xuất phát từ quan niệm
như vậy, có tác giả phân loại nghề thành hai nhóm là nghề qua đào tạo và
nghề xã hội. Nghề đào tạo là nghề mà muốn nắm vững nó, con người phải có
trình độ văn hóa nhất định, được đào tạo hệ thống, bằng nhiều hình thức và
được nhận bằng hoặc chứng chỉ. Các nghề được đào tạo được phân biệt với
nhau qua các yêu cầu về nội dung chương trình, mức độ chuyên môn và thời
gian cần thiết để đào tạo. Nghề xã hội là nghề được hình thành một cách tự
phát theo nhu cầu của đời sống xã hội, thường được đào tạo với các chương
trình đào tạo ngắn hạn, cũng có thể thực hiện thông qua hướng dẫn, kèm cặp
hoặc truyền nghề.
Trong hệ thống nghề đào tạo có hai dạng: đào tạo lao động kỹ thuật hệ
thực hành và đào tạo lao động chuyên môn, hệ kiến thức hàn lâm.
Lao động chuyên môn, hệ kiến thức hàn lâm bao gồm chủ yếu là lao
động qua đào tạo ở cấp trình độ đại học, sau đại học, đào tạo thuộc hệ đào tạo
nặng hơn về kiến thức hàn lâm, kiến thức lý thuyết và làm các công việc như:
nghiên cứu khoa học, phân tích – thống kê kinh tế, giảng viên các trường đại
học (không bao gồm các giảng viên kỹ thuật hệ thực hành), nhà quản lý,
chuyên gia thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau…
Lao động kỹ thuật hệ thực hành là lao động đã được đào tạo qua các
cấp trình độ nghề kỹ thuật (dạy nghề), trung cấp kỹ thuật, cao đẳng kỹ thuật
10
thực hành, đại học kỹ thuật thực hành, sau đại học kỹ thuật thực hành. Hệ
thống đào tạo này thực hiện việc đào tạo các chuyên ngành về kỹ thuật, công
nghệ, nghiệp vụ nhưng đào tạo nặng hơn về thực hành. Lao động này làm các
công việc như: kỹ sư công nghệ, kỹ sư kinh tế, kỹ thuật viên, kỹ sư chỉ đạo
sản xuất, công nhân kỹ thuật
Như vậy có rất nhiều nghề trong xã hội, trong khuôn khổ luận văn chỉ
nghiên cứu nghề trong hệ thống nghề được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề của
địa phương bao gồm công nhân kỹ thuật được đào tạo chính quy tại các
trường, lớp dạy nghề; nhân viên nghiệp vụ và phổ cập nghề cho người lao
động.
1.1.2. Đào tạo nghề
Khái niệm đào tạo thường gắn với giáo dục, nhưng hai phạm trù vẫn có
một số sự khác nhau tương đối. Giáo dục được hiểu là các hoạt động và tác
động hướng vào sự rèn luyện và phát triển năng lực và phẩm chất ở con
người để trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội và có thể giúp con người
phát triển nhân cách đầy đủ nhất. Hay nói cách khác, giáo dục còn là quá
trình khơi gợi các tiềm năng sẵn có trong mỗi con người, góp phần nâng cao
các năng lực và phẩm chất cá nhân của cả thầy và trò theo hướng hoàn thiện
hơn, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài người đương
đại.
Thứ nhất, theo từ điển Tiếng Việt, “đào tạo” được hiểu là việc giúp
con người hình thành những năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”.
Thứ hai, “Đào tạo” người lao động để họ có thể đảm nhận được một
công việc nhất định thì họ phải trang bị những kiến thức nhất định về mặt
chuyên môn, nghiệp vụ cho mình”.
Thứ ba, từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt Nam, khái
11
niệm tương đối đầy đủ là: “Đào tạo” là quá trình hoạt động có mục đích, có
tổ chức nhằm đạt được các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và
thực tiễn, hoặc kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn bản thân để hướng người đào
tạo có năng lực, kỹ năng thực hiện chuyên môn cụ thể.
Hay nói cách khác, đào tạo đề cập đến việc dạy các kiến thức, kỹ năng
thực hành, nghề nghiệp liên quan đến một lĩnh vực cụ thể nào đó, để người
học nắm vững những tri thứ, lĩnh hội và vận dụng được các kĩ năng nghề
nghiệp một cách chính xác và có hệ thống để giúp cho người học có khả năng
đảm nhận được một công việc nhất địnhvà có thể thích nghi với cuộc sống.
Giáo dục và đào tạo cùng có điểm chung là đều hướng vào việc trang
bị kiến thức kỹ năng để phát triển năng lực của người lao động. Tuy nhiên,
trong giáo dục nhằm vào những năng lực rộng lớn còn đào tạo lại nhằm vào
những năng lực cụ thể để người lao động đảm nhận công việc xác định,
thường đào tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ
tuổi nhất định, có một trình độ nhất định. “Đào tạo” có thể có nhiều hình
thức: đào tạo lại; tự đào tạo ..
1.1.3. Khái niệm đào tạo nghề cho thanh niên
Đào tạo nghề cho thanh niên là tạo ra một môi trường hình thành nơi
làm việc và đào tạo lao động thanh niên phù hợp nơi làm việc đó, để có việc
làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của người sử dụng lao đồng thời đáp ứng
được mục đích của đơn vị sử dụng lao động.
Với quan điểm trên thì hoạt động đào tạo nghề không chỉ là chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của các cơ quan doanh nghiệp,
của xã hội và ngay đối với bản thân người lao động.
+ Là quá trình đào tạo cho lao động trẻ có kỹ năng phù hợp với nhu
cầu của thị trường lao động.
12
+ Là các biện pháp hỗ trợ thanh niên có thể tự tạo ra việc làm cho bản
thân mình nhằm nuôi sống gia đình và có ích cho xã hội.
* Đặc điểm thanh niên và đào tạo nghề cho thanh niên
Để đào tạo nghề cho thanh niên cần nghiên cứu những nét đặc trưng
của xu hướng việc làm và đặc điểm thị trường lao động.
Thứ nhất, xu hướng việc làm thanh niên:
+ Ngày nay do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới
nên có xu hướng giảm việc làm của lao động có trình độ thấp, đặc biệt là
trong nông nghiệp và những ngành, nghề truyền thống đang giảm dần ngược
lại việc làm cho các nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các khu
công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế trọng điểm ngày càng tăng…
Thứ hai, đặc điểm thị trường lao động:
+ Hiện nay thì nguồn cung lao động quá cao trong khi cầu lao động lại
thấp.
+ Hầu hết thanh niên không được học nghề hoặc không muốn học nghề
, do vậy tỷ lệ qua đào tạo thấp, đa số thanh niên không tiếp cận được các cơ
hội đào tạo nghề nghiệp trước khi xin việc làm phù hợp.
+ Ngược lại với những người được đào tạo thì cũng vẫn gặp phải vấn
đề khó khăn do nội dung đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của thị trường
lao động.
+ Hơn nữa thanh niên thời nay họ chưa đủ thời gian để tích luỹ kinh
nghiệm, vì vậy khi vào thị trường lao động họ phải thực sự yêu nghề và chăm
chỉ làm việc học hỏi, xảy ra vấn đề cạnh tranh với những lao động có nhiều
kinh nghiệm hơn trong nghề nghiệp.
* Vai trò của đào tạo nghề cho thanh niên
13
Chính sách đào tạo nghề vừa có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, vừa
có ý nghĩa về mặt kinh tế, cũng như giáo dục con người. Việc xây dựng kế
hoạch, hoạch định và thực hiện không tốt các chính sách đào tạo nghề sẽ dẫn
đến những thiệt hại, những hậu quả trực tiếp cả về chính trị và xã hội, kinh tế
cho đất nước. Đào tạo nghề là một trong những giải pháp mang tính đột phá
cho mỗi địa phương nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực “mềm“ và giữ vai
trò trọng yếu trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình.
Thứ nhất, Muốn tạo nhiều việc làm tạo điều kiện cho thanh niên dễ
dàng lựa chọn công việc phù hợp, tạo năng suất cao hơn và có cơ hội nhận
được thu nhập cao hơn thì đào tạo nghề phải đảm bảo việc làm cho thanh niên
tham gia hoạt động kinh tế, kết nối họ vào các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ,
tạo khả năng cho họ nhận được những khoản thu nhập thiết yếu để tái sản
xuất sức lao động của chính bản thân mình, cũng như nuôi sống gia đình
mình.
Thứ hai, Các doanh nghiệp người sử dụng lao động lựa chọn sức lao
động trẻ cần thiết theo khối lượng và chất lượng theo nhu cầu của mình thông
qua đào tạo nghề nhưng không phải lúc nào cũng sẵn có lực lượng thanh niên
cần thiết trong một khu vực, vì vậy việc giải quyết việc làm sẽ cung cấp đầy
đủ các thông tin về ngành nghề, nơi nào đang dư thừa lao động thanh niên và
nơi nào thì khan hiếm lao động trẻ, cũng như việc thanh niên cần phải trang
bị những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp gì để có thể kiếm được việc làm.
Thứ ba, Trong bối cảnh bùng nổ của khoa học và công nghệ thì lao
độngc ó tay nghề cao luôn có cơ hội tìm kiếm việc làm lớn và hầu như không
thiếu việc làm; tính bền vững của việc làm cũng cao, đem lại thu nhập thảo
đáng. Bên cạnh đó, thanh niên được đào tạo nghề đúng nhau cầu và đúng sự
quan tâm sẽ tạo ra môi trường đảm bảo quan hệ qua lại trong tập thể lao động
cũng như giữa chủ doanh nghiệp với lao động trẻ, thúc đẩy làm việc thuận
14
lợi, đào tạo nghề cho thanh niên có kế hoạch, quy hoạch sẽ giúp cho cả bản
thân thanh niên cung như cho người sử dụng lao động có những kế hoạch khả
thi.
Thứ tư, đào tạo nghề cho thanh niên là giải pháp tích cực trong việc
chuyển dịch cơ cấu lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng phù hợp với nhu cầu thị trường và gắn với nhu cầu doanh nghiệp, xu
thế chung của nền kinh tế phát triển.
1.1.4 Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
Khái niệm chính sách công: Chính sách công là một tập hợp các quyết
định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề của xã
hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định.
Theo khái niệm nêu trên thì chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
chính là mục tiêu và giải pháp Nhà nước đưa ra trong đó tạo sự đảm bảo
quyền lợi đối với thanh niên nhằm mục đích chính là nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, góp phần rất lớn vào việc chuyển đổi cơ cấu việc làm trong
phát triển kinh tế - xã hội. Việc khẳng định Nhà nước là cơ quan duy nhất
được ban hành chính sách, vì vậy mục đích của chính sách công là vừa đảm
bảo quyền lợi của đa số cá nhân trong xã hội và thể hiện được quyền lực của
nhà nước
Đào tạo nghề cho thanh niên là một trong những chính sách quan trọng
của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng nghuồn nhân lực cho xã hội nói
chung và nâng cao chất lượng lao động thanh niên nói riêng. Trong bối cảnh
của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế - quốc tế, chất lượng nguồn nhân lực phải
đáp ứng đòi hỏi của môi trường cạnh tranh quốc tế và khu vực; mỗi công dân
phải đáp ứng điều kiện sống, học tập và làm việc trong môi trường quốc tế.
15
Đồng thời, thanh niên là nhóm người trẻ tuổi, dễ thích nghi với cái mới, dám
làm và chủ động nắm bắt xu thế mới của xã hội song cũng có những thanh
niên chưa dám chấp nhận sự thay đổi liên tục, sự xuất hiện của những giá trị
mới, do vậy, nên việc Đào tạo nghề cho thanh niên cần phải có những cách
thức tổ chức phù hợp với từng nhóm đối tượng. Việc xây dựng các mô hình
hay chính sách đào tạo nghề cho thanh niên đồi hỏi các nhà hoạch định, xây
dựng chính sách cần xem xét các nội dung sau đây:
* Xác định nhu cầu sử dụng thanh niên qua đào tạo nghề và nhu cầu
học nghề của thanh niên
Thứ nhất, Muốn nắm bắt được nhu cầu sử dụng thanh niên qua đào tạo
nghề cần phải triển khai các hoạt động điều tra, khảo sát nhu cầu sử dụng
nhân lực qua đào tạo nghề trong các ngành kinh tế, vùng kinh tế và từng địa
phương. Việc xác định nhu cầu sử dụng lao động thanh niên chính là “đầu
ra” của đào tạo, thông qua việc nắm bắt nhu cầu chính xác có thể đưa ra được
nội dung học nghề gì và đào tạo những nghề gì với những trình độ khác nhau.
Việc nắm bắt nhu cầu phải triển khai trước khi thực hiện các chương
trình, xây dựng các mô hình cần phải thường xuyên với quy mô và mức độ
khác nhau, để kịp thời bổ sung những thông tin nhu cầu về những nghề mới
với quy mô và trình độ phù hợp.
Thứ hai, Song song với việc nắm bắt thông tin và xác định được nhu
cầu sử dụng lao động thanh niên thì cần phải khảo sát nhu cầu học nghề của
thanh niên, vì vậy cần tách và phân nhóm các đối tượng học khác nhau để mở
các lớp, khóa học đào tạo phù hợp, lứa tuổi nào? thời gian đào tạo có thể là
ngắn hạn, dài hạn. Ngoài ra, để có thể có các hình thức đào tạo phù hợp với
cơ sở thì phải khảo sát thói quen và đặc điểm canh tác của thanh niên ở các
vùng miền khác nhau. Hoặc cần thiết phải phân và chia trên cơ sở trưng cầu ý
kiến va khảo sát các nhóm đối tượng có trình độ học vấn khác nhau, người có
16
trình độ học vấn thấp thì có thể theo học các khoá dạy nghề ngắn hạn, người
có học vấn cao hơn có đủ điều kiện có thể theo các khoá học nghề ở trình độ
như là trung cấp nghề hoặc cao đẳng nghề.
* Xác định ngành nghề đào tạo cho thanh niên
Sau khi khảo sát dựa trên kết quả điều tra nhu cầu sử dụng lao động
thanh niên qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp. Việc phân tích nhu cầu
đào tạo phải gắn liền với việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương gắn với quy hoạch ngành (ngày nay, công tác quy hoạch không
hướng theo địa phương mà hướng theo ngành, hướng theo quy hoạch của các
bộ chủ quản chuyên môn) để tạo lập việc liên kết vùng gắn với liên kết ngành
giữa các địa phương có những nét tương đồng trong phát triển kinh tế - xã
hội.Qua đó, từng thời điểm khác nhau để xác định ngành nghề đào tạo của
thanh niên, nhằm tạo cơ hội tìm được việc làm bao gồm cả việc làm tự tạo
việc làm.
Cũng do nguyên nhân hầu hết thanh niên còn hạn chế về kiến thức, kĩ
năng và hiểu biết của mình về lĩnh vực nghề phi nông nghiệp, nên cần có
hình thức tổ chức đào tạo đặc thù, đào tào gắn với sản xuất nhất là gắn liền
với các ngành nghề sản xuát kinh doanh, dịch vụ tại cơ sở ví dụ dụ nghề may
thì học nghề và làm việc luôn tại Công ty may…
* Lựa chọn phương thức đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn
Việc tổ chức các khoá học với các phương thức và hình thức khác nhau
đối với thanh niên để nâng cao hiệu quả đào tạo là rất quan trọng. Đào tạo
nghề tại doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ; đào tạo
nghề lưu động (tại các xã, thôn); đào tạo nghề gắn với các làng nghề, vùng
chuyên canh.... đào tạo nghề cho thanh niên có thể được thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như dạy tại các cơ sở dạy nghề; đào tạo nghề theo đơn
17
đặt hàng của các tập đoàn, Tổng công ty; Phương thức đào tạo cũng cần phải
đa dạng hoá, phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện của từng vùng,
miền..., như đào tạo tập trung tại CSDN đối với những thanh niên chuyển đổi
nghề nghiệp (trung tâm dạy nghề, trường trung cấp, cao đẳng nghề, các
trường khác có tham gia dạy nghề...); đào tạo nghề lưu động cho thanh niên
làm nông dân hiện đại tại các làng, xã, thôn; đào tạo nghề tại nơi sản xuất, tại
hiện trường
Mặt khác, do tính đa dạng của vật nuôi, cây trồng nông nghiệp, khoá
học nên được tổ chức gắn với thời kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng.
Đào tạo phải gắn với việc vừa học, vừa làm, hoặc thời gian nông nhàn để đảm
bảo việc học được thuận lợi, không gián đoạn…
* Đánh giá kết quả đào tạo nghề: Để đánh giá được kết quả đào tạo
nghề cần đánh giá qua hai tiêu chí:
Chất lượng đào tạo nghề: Đây thực sự là tiêu chí khó khăn, vì không
đánh giá được trực tiếp qua cân đong đo đếm được. Vì vậy, cần đánh giá
thông qua một hệ thống các chỉ tiêu và các yếu tố ảnh hưởng để đánh giá
được chất lượng đào tạo nghề. Chất lượng các thanh niên được đào tạo trong
hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo chương trình đào tạo và mục tiêu xác
định trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau là tiêu chí chất lượng đào tạo
nghề, được biểu hiện một cách tổng hợp nhất của xã hội đối với kết quả đào
tạo nghề và ở mức độ chấp nhận của thị trường lao động.
Việc làm sau đào tạo nghề: như vậy kết quả của đào tạo nghề cho
thanh niên là tìm được việc làm phi nông nghiệp (ở nông thôn hoặc ngoài
nông thôn) hoặc tạo cho lao động có một nghề để có thể tự tạo việc làm trong
nông nghiệp (tăng năng suất lao động); kết quả của việc đào tạo nghề cho
thanh niên là giải quyết việc làm cho thanh niên gắn với hoạt động đào tạo.
Việc tuyển dụng lao động của doanh nghiệp là câu trả lời cho chất lượng và
18
ngành nghề đào tạo có phù hợp, hiệu quả hay không? Nếu thanh niên có việc
làm ngày và làm những việc do đào tạo đem lại thì thực sự đó là đào tạo có
hiệu quả còn nếu không thì ngược lại.
1.1.5. Sự cần thiết khách quan của chính sách đào tạo nghề cho
thanh niên
Nhà nước là chủ thể quản lý xã hội, quản lý chung mọi hoạt động kinh
tế - xã hội, trong đó có hoạch định chính sách về đào tạo nghề cho thanh niên.
Thông qua các chính sách Nhà nước tạo cơ chế và tận dụng mọi nguồn lực để
chức đào tạo nghề, tạo việc làm cho người lao động. Bởi lẽ, nhà nước là chủ
thể quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước, là chủ thể quy định các
các quy trình, thủ tục trong quá trình quản lý đào tạo nghề cho người lao
động. Nhà nước ban hành chính sách, tạo cơ chế, bố trí nguồn lực tài chính,
xã hội hóa nguồn lực; huy động sự tham gia của doanh nghiệp; các nghệ
nhân; các tổ chức trong xã hội .. cùng tham gia thực hiện chính sách đào tạo
nghề. Trong mỗi một giai đoạn nhất định, nhà nước lựa chọn vấn đề ưu tiên
để có chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy việc thực hiện chính sách để đạt mục
tiêu quản lý của mình. Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên cũng vậy, Nhà
nước đã đặt chính sách Thanh niên vào vị trí trung tâm, trong mối quan hệ
với nhiều chính sách khác có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế -xã
hội của đất nước; do đó, chính sách đào tạo nghề cho thanh niên được quy
định cụ thể, rõ ràng trong các Nghị định, thông tư, và các văn bản hướng dẫn
thi hành …
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của thanh niên khi họ là lực lượng đông
đảo của xã hội, với sức trẻ và sự năng động của mình họ là một trong những
nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc.
Thứ hai, do người lao động có áp lực rất lớn về việc làm trong khi
thiếu vẫn thiếu mà thừa vẫn thừa. Việc đầu tư phát triển các khu công nghiệp
19
khu chế xuất … thì nhu cầu sửu dụng lao động tại chỗ phải tăng lên song thực
tế là nhu cầu lao động, việc làm tăng thì tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng. Lý do cốt
lõi là lao động chưa đáp ứng yêu cầu việc làm hiện có trong khi đất sản xuất
nông nghiệp thu hẹp; việc làm khu vực nông thôn giảm xuống; việc chuyển
dịch cơ cấu lao động chưa kịp thời khiến tỷ lệ thất nghiệp của người trong độ
tuổi lao động ngày một tăng.
Vì vậy quan tâm đến chính sách về đào tạo nghề cho thanh niên là một
việc nên làm, nó góp phần giải quyết lao động là thanh niên, góp phần nâng
cao mức thu nhập cho người dân, giảm thiểu tệ nạn xã hội… đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.6. Vai trò thực tế trong việc thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho thanh niên
Thực trạng tình hình thiếu việc làm, thất nghiệp, việc làm không ổn
định còn diễn ra hàng ngày trong thanh niên, nhất là đối với thanh niên nông
thôn hiện nay thì càng phải yêu cầu Nhà nước phải có chính sách cụ thể, kịp
thời phù hợp với thực tiễn để góp phần giải quyết việc làm cho thanh niên.
Trong công tác thanh niên, bên cạnh việc rèn luyện bản lĩnh, lập trường, giáo
dục chính trị, tư tưởng thì vấn đề bồi dưỡng, đào tạo về tri thức, nghiệp vụ,
chuyên môn, tay nghề, tạo việc làm cho thanh niên là nhiệm vụ rất quan
trọng. Việc định hướng nghề, đào tạo nghề cho thanh niên còn có ý nghĩa
quan trọng để định ra đặc điểm và nội dung của hoạt động đào tạo. Nếu đào
tạo nghề cho thanh niên mà không đáp ứng được nhu cầu thị trường, nhu cầu
của doanh nghiệp, không phù hợp với đặc điểm kinh tế- xã hội mỗi địa
phương thì việc đào tạo cũng không có ý nghĩa bởi lẽ việc đào tọa chưa gắn
với giải quyết việc làm. Việc xác định được cơ cấu đào tạo nghề phù hợp sẽ
góp phần giảm sự mất cân bằng cung – cầu lao động trên thị trường, không
gây lãng phí nguồn lực của xã hội. Đồng thời, qua các hình thức đào tạo nghề
20
tập trung cho đối tượng lao động trẻ có thể đáp ứng được yêu cầu của sản
xuất - kinh doanh và làm việc tại địa phương; đồng thời giúp cho thanh niên
định hướng được nghề nghiệp và tự tạo việc làm và chủ động tìm kiếm việc
làm. Hơn nữa, để đáp ứng tốt nguồn nhân lực cho thực tế xã hội, Nhà nước
quản lý chương trình và nội dung đào tạo khuyến khích các cơ sở đào tạo
chuẩn hoá chương trình và đẩy lên ngang tiêu chuẩn quốc tế, có tác dụng giúp
cho việc hội nhập khu vực và thế giới được thuận lợi hơn, đáp ứng được nhu
cầu việc làm tại các nước.
Bên cạnh đó, việc ban hành quá nhiều chính sách dẫn tới việc chồng
chéo, trùng lắp, tạo nên ma trận chính sách; khó đánh giá chính sách nào hiệu
qảu, chính sách nào không hiệu quả. Do đó, nhà nước phải đóng vai trò là cơ
quan điều phối mọi chính sách, vấn đề ưu tiên để tạo nên hiệu qủa mang tính
tổng thể; tránh tình trạng đầu tư tập trung vào một nơi, một địa phương, một
lĩnh vực, gây ra sự mất cân bằng trong phát triển và thực hiện chính sách.
1.2. Nội dung Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên
Trong quá trình tìm tòi nghiên cứu, lý luận và thực tiễn cũng như tính
hiệu lực, hiệu quả của quá trình thực hiện chính sách về đào tạo nghề cho
thanh niên, tác giả nghiên cứu nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, ban hành và tổ chức thực hiện các chiến lược, chính sách,
chương trình đào tạo nghề cho thanh niên.
Nghiên cứu, dự báo và lập kế hoạch về tình hình đào tạo nghề và đào
tạo làm cho thanh niên; rà soát các văn bản pháp luật có liên quan đến chính
sách về đào tạo nghề cho thanh niên để điều chỉnh, bổ sung, đồng thời tiếp
tục ban hành cơ chế, chính sách về đào tạo nghề, định hướng nghề nghiệp cho
thanh niên.
Nhà nước ban hành các chương trình, dự án về đào tạo nghề như: Đào
21
tạo nghề cho lao động nông thôn; đào tạo nghề cho lao động hưởng trợ cấp
thất nghiệp; chuyển đổi ngành nghề cho khu vực thu hồi đất nông nghiệp; ưu
đãi đối với doanh nghiệp sử dụng lao động tại chỗ… Các chính sách, dự án
này đều được gắn với việc giải quyết việc làm cho lao động gắn với đào tạo
nghề ở các địa phương triển khai dự án, trong đó, lực lượng lao động chủ yếu
là thanh niên.
Ban hành chính sách, cơ chế cụ thể để tạo điều kiện cho thanh niên,
hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác .. do thanh niên làm chủ các dự án,
công trình có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước với những điều kiện ưu đãi
nhất định. Có thể nói đến các chính sách cụ thể như sau:
Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 nhấn mạnh “Thực hiện tốt
chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất là lao động nghèo; ưu
tiên nguồn lực đầu tư cơ sở trường, lớp học, thiết bị, đào tạo giáo viên dạy
nghề ... ”. Như vậy, có thể xác định vấn đề của chính sách đào tạo nghề cho
thanh niên là tạo cơ hội để thanh niên tham gia các hình thức đào tạo nghề
ngắn hạn, dài hạn phù hợp thông qua các cơ sở đào tạo nghề, truyền nghề
truyền thống. Sau khi thanh niên có nghề thì cơ hội tìm kiếm việc làm trở nên
dễ dàng hơn và từng bước vươn lên ổn định cuộc sống.
Bên cạnh các chính sách của Nhà nước, thành phố Đà nẵng ban hành
nhiều các chính sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (trong đó có
đào tạo nghề) như: Quyết định 5882/QĐ-UBND ngày 23/7/2012 về việc Phê
duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực thành phố Đà nẵng giai đoạn
2011-2020; Quyết định 31/2016/QĐ-UBND ngày 10/10/2016 quy định chính
sách hỗ trợ học nghề đối với lao động thuộc diện chính sách, xã hội trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng. Các chính sách có mức hỗ trợ cụ thể như: Đối với
chính sách hỗ trợ học nghề ngắn hạn (sơ cấp nghề), chuyển đổi ngành nghề,
giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, lao động nông
22
nghiệp, nông thôn thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công
với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, người
khuyết tật sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 03 triệu
đồng/người/khóa học; hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày thực
học/người (mức tối đa không quá 450.000 đồng/người/tháng); hỗ trợ tiền đi
lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000
đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên.
Đối với lao động nông nghiệp, nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học nghề
ngắn hạn với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khóa học. Đối với học nghề dài
hạn (trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề), lao động nông nghiệp, nông
thôn được vay để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh,
sinh viên. Ngoài ra, lao động nông nghiệp, nông thôn là người dân tộc thiểu
số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng,
hộ nghèo và hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo tham
gia học trung cấp nghề, cao đẳng nghề được hưởng chính sách dạy nghề đối
với học sinh dân tộc thiểu số nội trú.
Đối với đối tượng thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất (bao
gồm: lao động trong các hộ thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất;
học sinh trong các hộ thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất; hộ gia
đình thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất) sẽ được hỗ trợ chi phí
học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề). Bên cạnh đó, thành phố sẽ hỗ trợ
học phí cho con của các hộ nông dân (nông, lâm, ngư nghiệp) thuộc diện thu
hồi đất sản xuất, di dời, giải tỏa phải chuyển đổi ngành nghề đang học văn
hoá tại các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, các trung tâm giáo
dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, bao gồm các
loại hình công lập và ngoài công lập trên địa bàn thành phố: Hỗ trợ 100% học
phí trong thời hạn 03 năm cho các hộ thuộc diện thu hồi từ 50% diện tích đất
23
sản xuất trở lên; Hỗ trợ 50% học phí trong thời hạn 03 năm cho các hộ thuộc
diện thu hồi dưới 50% diện tích đất sản xuất. Mức học phí hỗ trợ cho học sinh
đang học tại các trường ngoài công lập bằng mức học phí các trường công lập
cùng địa bàn.
Đối với doanh nghiệp tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và giải
quyết việc làm, thành phố sẽ hỗ trợ theo phương thức: doanh nghiệp tiếp
nhận lao động là đối tượng của chính sách (lao động thuộc diện được hưởng
chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; lao động thuộc hộ nghèo;
thuộc các hộ trong diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất; là người dân tộc
thiểu số; là bộ đội xuất ngũ; là người khuyết tật; lao động khác) vào làm việc
tại doanh nghiệp sau thời gian đào tạo theo hình thức hợp đồng lao động.
Đối với việc hỗ trợ học nghề trình độ sơ cấp đối với lao động thuộc
diện chính sách, xã hội trên địa bàn thành phố, chính sách mới sẽ hỗ trợ chi
phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề) với mức tối đa 03 triệu
đồng/người/khóa học. Để tạo điều kiện hỗ trợ cho lao động thuộc diện hộ
nghèo, thì thành phố Đà Nẵng còn có chính sách hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé
giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khóa
học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên; hỗ trợ tiền ăn và
tiền đi lại với mức 15.000 đồng/ngày thực học/người (mức tối đa không quá
450.000 đồng/người/tháng)...
Thứ hai, thông tin về lao động và việc làm cho thanh niên
Tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính
sách và giáo dục pháp luật về việc làm đến với thanh niên. Bởi lẽ đào tạo
nghề và giải quyết việc làm có mối quan hệ mật thiết với nhau, việc thực hiện
tốt chính sách này sẽ là điều kiện để thực hiện chính sách kia. Nếu như đào
tạo nghề tốt thì sẽ tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho thanh niên. Trong bối
cảnh hiện nay, vấn đề giải quyết việc làm nói chung, giải quyết việc làm cho
24
thanh niên nói riêng là vấn đề nóng bỏng được Chính phủ các nước quan tâm,
thúc đẩy thực hiện. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, lực lượng lao động
trong độ tuổi thanh niên chiếm tỷ lệ cao. Các chính sách kinh tế - xã hội cũng
như những mục tiêu tạo việc làm cho thanh niên, bộ đôi, công an xuất ngũ.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đặc biệt quan tâm việc giải quyết việc
làm cho bộ đội xuất ngũ; trong năm 2011-2016 có trên 285 nghìn bộ đội xuất
ngũ tham gia học nghề tại các cơ sở đào tạo nghề trong quân đội (chiếm
khoảng 40% bộ đội xuất ngũ hàng năm), 70-80% bộ đội xuất ngũ sau học
nghề có việc làm ổn định Nhiều mô hình, cách làm hiệu quả trong việc giải
quyết việc làm cho bộ đội, công an xuất ngũ, như: Tổ chức các phiên giao
dịch việc làm dành riêng cho bộ đội xuất ngũ; phối hợp giữa các đơn vị quân
đội với chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo. Tạo việc làm mới thông
qua việc vay vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm như phát triển kinh tế
hộ gia đình, vay vốn để xuất khẩu lao động ... tiếp tục phát huy vai trò hỗ trợ
tạo việc làm cho thanh niên một cách hiệu quả song song với phát triển kinh
tế tạo việc làm. Hiện nay, tổng nguồn vốn của Quỹ quốc gia về việc làm
khoảng 5.050 tỷ đồng, doanh số cho vay hằng năm từ 2.200 - 2.500 tỷ đồng
góp phần hỗ trợ giải quyết việc làm cho khoảng 100 nghìn lao động chủ yếu
ở khu vực nông thôn.
Nâng cao nhận thức cho thanh niên về việc làm, nghề nghiệp nhằm làm
thay đổi định hướng nghề nghiệp, định hướng giá trị xã hội cho lao động trẻ.
Kết nối cung cầu lao động; cập nhật thông tin tìm kiếm việc làm thông
qua truyền thông trực tiếp hoặc giới thiệu trên các trang Web thông tin về lao
động, việc làm. Một mặt, giúp người lao động tìm kiềm việc làm phù hợp;
qua đó, từng bước góp phần đảm bảo sự cân bằng giữa cung - cầu lao động
trên thị trường.
Thứ ba, đào tạo nghề gắn với phát triển kinh tế - xã hội tại địa
25