Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Tìm hiểu về TPP hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.4 KB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN HỌC: Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu về TPP-Hiệp Định đối tác kinh tế chiến lược xuyên
Thái Bình Dương

GVHD: GS.TS Võ Thanh Thu
DANH SÁCH NHÓM
STT
1
2
3
4
5

HỌ VÀ TÊN
Hồ Thị Thúy Nga
Đoàn Quỳnh Dương
Vũ Thị Thanh Tâm
Nguyễn Bảo Đức Khoa
Đặng Thị Bé Hằng

LỚP
NT3
NT3
NT2
NT3
NT3

MSSV


31111020263
31111020334
31111022685
31111022648
31111021013


MỤC LỤC

Phụ lục mục lục:
Mục lục phần bảng:

Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược xuyên Thái Bình Dương
Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement
I. GIỚI THIỆU VỀ TPP:
I.1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH:
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương(Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp định thương
mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại
tự do chung cho các nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Trước đây, TPP được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer
Economic Partnership (P3-CEP) và được tổng thống Chile, thủ tướng Singapore
và thủ tướng New Zealand đưa ra thảo luận tại một cuộc họp các nhà lãnh đạo của
2


APEC diễn ra tại Los Cabos, Mexico. Brunei nhanh chóng tham gia đàm phán ở
vòng 5 vào tháng 04 năm 2005. Sau vòng đàm phán này, hiệp định lấy tên là
Pacific-4 (P4).


Các nhà lãnh đạo của các nước thành viên và các nước đang đàm
phán gặp nhau tại một hội nghị thượng đỉnh của TPP vào năm 2010.
Loại hiệp ước
Ngày thảo

Hiệp định thương mại tự do
3 tháng 6 năm 2005

18 tháng 7 năm 2005
Ngày ký
Địa điểm Wellington, New Zealand
28 tháng 5 năm 2006 (New Zealand and
Có hiệu lực
Điều kiện Singapore); 12 tháng 7 năm 2006 (Brunei); 8
tháng 11 năm 2006 (Chile)
2 phê chuẩn
Bên tham dự
Nơi lưu giữ
Các ngôn ngữ

4 nước sáng lập (Brunei, Chile, Singapore
and New Zealand)
Chính phủ New Zealand
Tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha

I.2.DIỄN TIẾN SƠ LƯỢC:
Lần đầu tiên, 4 nước Singapore, Chile, Newzealand, Brunei ký Hiệp định
này vào ngày 3/6/2005 và TPP có hiệu lực ngày 28/5/2006.
Tháng 9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn tham gia đàm phán TPP, sau đó

tháng 11/2008 các nước Australia, Peru cũng tuyên bố tham gia, tiếp đến là
Canada tham gia vào tháng 10/2012 và mới đây nhất, Nhật Bản tham gia đàm phán
vào tháng 3/2013.

3


Việt Nam đã tuyên bố tham gia TPP với tư cách là thành viên đầy đủ từ ngày
13/11/2010.
Như vậy, đến thời điểm này, TPP gồm 12 nước thành viên: Australia, Brunei,
Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Newzealand, Peru, Singapore, Hoa
Kỳ và Việt Nam.
Với sự tham gia của các nền kinh tế lớn trên thế giới (như Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Australia...), TPP trở thành khu vực kinh tế hơn 790 triệu dân, đóng góp
40% GDP và chiếm 1/3 thương mại toàn cầu.
Hiện 12 nước thành viên TPP đang tiếp tục bàn thảo nhằm đạt sự thống nhất
rộng rãi vào tháng 10 và sẽ ký Hiệp định vào cuối năm nay.

  Các nước thành viên hiện tại
  Các nước đang Đang đàm phán
Quốc gia
Australia
Brunei

Trạng thái

Ngày

Đang đàm phán


tháng 11 năm 2008

Sáng lập

tháng 6 năm 2005

4


Canada

Đang đàm phán

tháng 10 năm 2012

Chile

Sáng lập

tháng 6 năm 2005

Japan

Đang đàm phán

tháng 3 năm 2013

Malaysia

Đang đàm phán


tháng 10 năm 2010

Mexico

Đang đàm phán

tháng 10 năm 2012

Sáng lập

tháng 6 năm 2005

Đang đàm phán

tháng 11 năm 2008

Sáng lập

tháng 6 năm 2005

United States

Đang đàm phán

tháng 2 năm 2008

Vietnam

Đang đàm phán


tháng 11 năm 2008

New Zealand
Peru
Singapore

3 MỤC TIÊU:
• Cắt giảm thuế quan theo lộ trình từ 2006 đến 2015
• Thông qua các vấn đề thương mại phi thuế quan như xuất xứ hàng hóa, các
biện pháp phòng vệ thương mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ
thuật đối với thương mại, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, chính sách cạnh
tranh
• Thông qua các vấn đề phi thương mại như hợp tác trong lĩnh vực môi
trường, lao động
Hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương thông qua
việc giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên trước ngày
01 tháng 01, 2006 và cắt giảm bằng không tới năm 2015. Đây là một thỏa thuận
toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của một hiệp định thương mại tự do,

5


bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp, rào cản kỹ thuật,
trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của chính quyền...

I.3.PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH:
So với các hiệp định BTA, AFTA và trong WTO, TPP mở rộng hơn cả về
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn
bao gồm các vấn đề phi thương mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động,

công đoàn, hỗ trợ cho các DN vừa và nhỏ...
• Thuế quan: tiến hành cắt giảm hầu hết các loại thuế (giảm 90% các loại thuế
xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên trước ngày 1-1-2006 và cắt giảm
bằng không tới năm 2015).


Các vấn đề về vệ sinh dịch tễ (SPS) và hàng rào kỹ thuật trong thương mại
(TBT): liên quan đến quan ngại của Hoa Kỳ về vấn đề thịt bò (nguy cơ bò
điên) và các quy định hạn chế nhập khẩu thịt gà, thịt lợn và một số loại trái
cây.

• Lao động và môi trường : Cải thiện tình trạng môi trường và lao động ở các
nước thông qua việc thiết lập, thực thi tốt các quy định liên quan, đặc biệt là
các vấn đề về quyền lập hội (nghiệp đoàn), quyền tập hợp và đàm phán
chung của người lao động, quy định cấm sử dụng mọi hình thức lao động
cưỡng bức, quy định cấm khai thác lao động trẻ em, quy định không phân
biệt đối xử trong lực lượng lao động.; không sử dụng các quy định về lao
động và môi trường để hạn chế bất hợp lý thương mại và đầu tư.

6




Giải quyết tranh chấp: Chủ yếu xoay quanh vấn đề nhà đầu tư nước ngoài
có thể kiện Chính phủ nước nhận đầu tư ra một thiết chế trọng tài thương
mại quốc tế không.

• Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và mua sắm công: tăng mức độ bảo hộ các
quyền sở hữu trí tuệ cao hơn so với mức đã kí kết trong WTO.


I.4.CÁC VÒNG ĐÀM PHÁN:
I.4.1. SƠ LƯỢC CÁC VÒNG ĐÀM PHÁN:
Trong suốt 3 năm, từ năm 2010 tính đến ngày 30/8/2013, TPP đã trải qua 19
vòng đám phán, từng vòng đàm phán từng bước hoàn thiện những mục tiêu mà các
bên đưa ra:
Vòng đàm
phán

Thời gian

Địa điểm

Các bên tham gia

Vòng 1

15-19 tháng
3/2010

Melbourne,
Úc

Australia, Hoa Kỳ, New
Zealand, Chile, Singapore,
Brunei, Peru và Việt Nam

Vòng 2

14-18 tháng

6/2010

San
Francisco,
Hoa Kỳ

Với sự tham gia của 9 nước
trên

Vòng 3

5-8 tháng
10/2010

Brunei

Vòng 4

6-10 tháng
12/2010

Auckland,
New Zealand

14-18 tháng
2/ 2011
24/3 –
1/4/2011

Santiago,

Chile

9 nước từ vòng 4

Singapore

9 nước

Vòng 5
Vòng 6

Vẫn là sự tham gia của 9 nước
trên và thêm sự tham gia của
Malaisia
Australia, Brunei, Chile,
Malaysia, New Zealand, Peru,
Singapore, Mỹ và Việt Nam

7


Vòng 7
Vòng 8
Vòng 9
Vòng 10
Vòng 11
Vòng 12
Vòng 13
Vòng 14
Vòng 15

Vòng 16

15-24 tháng
6/2011
6-15 tháng
9/2011
22-29 tháng
10/2011
5-9 tháng
12/2011
2-9 tháng
3/2012
8-18 tháng
5/2012
2-10 tháng
7/2012
6-15 Tháng
9/2012
3-12 tháng
12/ 2012
4-13 tháng
3/ 2013

Vòng 17

15-24 tháng
5/2013

Vòng 18


15-24
T7/2013

Vòng 19

23-30
T8/2013

TP. Hồ Chí
Minh, Việt
Nam

9 nước

Chicago, Mỹ

9 nước

Lima, Peru

9 nước

Kuala
Lumpur,
Malaysia
Melbourne,
Úc
Dallas, Hoa
Kỳ
San Diego,

Hoa Kỳ
Leesburg,
Virginia,
Hoa Kỳ
Auckland,
New Zealand

9 nước
9 nước
9 nước
9 nước
9 nước
Có thêm sự tham gia của
Mexico và Canada

Singapore

11 nước

Lima, Peru

Ngày 23/7/2013, Nhật Bản đã
chính trở thành thành viên thứ
12 tham gia đàm phán.

Kota
Kinabalu,
Malaysia
Bandar
Seri

Begawan,
Brunei

12 nước

12 nước

8


I.4.2. MỘT SỐ ĐIỂM ĐÁNG CHÚ Ý QUA CÁC VÒNG ĐÀM
PHÁN:
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 1:
Vòng đàm phán chính thức thứ nhất của TPP được tổ chức tại Melbourne
vào ngày 15-19 tháng 3 năm 2010, với sự tham gia của hơn 200 quan chức của
Australia, Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Singapore, Brunei, Peru và Việt Nam.
Các nhà đàm phán TPP trao đổi quan điểm về hàng loạt các vấn đề: dịch vụ,
thương mại điện tử và công nghệ xanh. Các bên tập trung vào việc làm sao để công
việc kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu vực trở nên nhanh chóng, thuận
tiện và tạo ra các sản phẩm giá rẻ hơn, và làm thế nào để hiệp định này sẽ thúc đẩy
sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào thương mại. Kết quả đạt được từ
vòng đàm phán này đã đem lại cho TPP một khởi đầu mạnh mẽ.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 2:
Vòng đàm phán thứ hai của TPP được tổ chức tại San Francisco từ ngày 14
đến ngày 18 tháng 6 năm 2010, cũng đạt được sự thống nhất về hàng loạt các vấn
đề chung quan trọng của thế kỷ 21, như:
 Thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ.
 Các vấn đề liên quan đến giảm thủ tục hải quan.
 Thúc đẩy tính thống nhất pháp lý, bao gồm thông qua khuyến
khích hợp tác giữa các cơ quan quản lý

 Tập trung vào tính minh bạch trong quản lý và điều hành.
Ngoài ra, lần này cũng đạt được các tiến triển về hàng loạt các vấn đề truyền
thống của FTA bao gồm hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, sở hữu trí
tuệ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, chính sách cạnh tranh, các vấn đề
9


pháp lý và xây dựng năng lực. Các cuộc thảo luận cũng tập trung vào loại điều
khoản nào quy định về thương mại và lao động, thương mại và môi trường phù hợp
với TPP.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 3:
Vòng 3 được tổ chức tại Brunei từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 10 năm 2010 với
sự tham gia của một thành viên mới, Malaysia.
Vòng này tiếp tục thảo luận về các vấn đề như hàng hóa công nghiệp, nông
nhiệp, các tiêu chuẩn, dịch vụ, đầu tư , dịch vụ ngân hàng, sở hữu trí tuệ, mua sắm
chính phủ, cạnh tranh, lao động và môi trường và thông qua các quy tắc xuất xứ
khu vực.
Các nước TPP cũng tiếp tục đàm phán về các cam kết nền, bao gồm:
 Tăng kết nối thông qua tạo cơ hội tối đa hiệu quả của chuỗi
cung ứng trong khu vực.
 Tăng tính thống nhất về pháp lý trong khu vực.
 Tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tận dụng
được TPP.
 Hỗ trợ phát triển.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 4:
Vòng này được tổ chức tại Auckland từ ngày 6-10 tháng 12/2010, với sự
tham gia của 9 nước (Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru,
Singapore, Mỹ và Việt Nam), tiếp tục đạt được tiến bộ về tất cả các vấn đề đàm
phán. Bên cạnh đó, các đối tác TPP cũng đạt được tiến bộ về các cam kết nền về
các vấn đề của thế kỷ 21 như:


10


 Thúc đây hội nhập khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, chẳng
hạn như thông qua xem xét làm thế nào để TPP có thể hỗ trợ và
tăng cường hiệu quả của các chuỗi cung ứng trong kinh doanh.
 Tăng tính thống nhất và tương thích của các hệ thống pháp lý
trong TPP để mà các doanh nghiệp có thể hoạt động dễ dàng
hơn trong thị trường TPP.
 Tạo ra một “hiệp định sống” mà có thể thích nghi với sự thanh
đổi của môi trường kinh doanh và có thể kết nạp thêm thành
viên mới.
 Hỗ trợ phát triển, bao gồm hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực
liên tục và phù hợp.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 5
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP: được tổ chức tại Santiago
từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 2 năm 2011, với sự tham gia của 9 nước. Các bên
cũng đang xem xét các đề xuất về các cam kết nền về các vấn đề chung, tập trung
vào:
 Một đề xuất về tăng cường cạnh tranh và thúc đẩy kinh doanh
trong khu vực.
 Làm thế nào để tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vào thương mại khu vực.
 Làm thế nào để làm sâu sắc thêm mối liên kết sản xuất và chuỗi
cung ứng giữa các nước TPP.
 Làm thế nào để tăng cường sự gắn kết giữa các hệ thống pháp
luật của các nước TPP nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa
cho thương mại.
 Làm thế nào để thúc đẩy sự phát triển.


11


 VÒNG ĐÀM PHÁN 6
Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP được tổ chức tại Singapore
từ ngày 24/3 đến ngày 1/4/2011.
Đến vòng này, các quy tắc xuất xứ đối với các sản phẩm cụ thể đã đạt được
kết quả - đó là các nhân tố chính để đạt được một FTA khu vực hỗ trợ hội nhập
chuỗi cung ứng kinh doanh hiện đại. Các bên cũng thảo luận về các đề xuất nhằm
đảm bảo TPP thực sự là một “hiệp định sống” tạo điều kiện thuận lợi cho sự gia
nhập các thành viên mới và có khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường
kinh doanh.
 VÒNG ĐÀM PHÁN 7
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) được tổ chức tại TP Hồ
Chí Minh, Việt Nam từ ngày 15 đến ngày 24 tháng 6/2011.
Các bên đã làm việc nhằm củng cố các vấn đề hiện tại và xem xét các đề
xuất mới ở các nhóm làm việc, bao gồm sở hữu trí tuệ, dịch vụ, minh bạch, truyền
thông, hải quan và môi trường.
 VÒNG ĐÁM PHÁN THỨ 8
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã diễn ra tại Chicago,
Mỹ từ ngày 6 đến ngày 15 tháng 9 năm 2011.
Tại vòng đàm phán này, đã đạt được bước tiến quan trong trong các vấn đề
Hải quan, Kiểm dịch động thực vật (SPS), các Hàng rào kỹ thuật trong Thương
mại (TBT), vấn đề Viễn thông và Mua sắm Chính phủ. Những thảo luận chi tiết về
các vấn đề “ngang” như phương thức nhằm tăng cường lợi ích của Hiệp định đối

12



với các Doanh nghiệp nhỏ và vừa, tăng khả năng cạnh tranh, tính chặt chẽ pháp lý
và phát triển.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 9
Vòng thứ chin của TPP kết thúc vào ngày 28/10/2011 tại Lima, Peru sau 10
ngày đàm phán với 870 đại biểu tham dự, bao gồm các nhà đàm phán, các bên liên
quan và giới truyền thông. Một đề xuất mới về vấn đề Doanh nghiệp Nhà nước
(SOEs) cũng được đưa ra và sẽ được thảo luận trong nhóm làm việc về Chính sách
Cạnh tranh.
 VÒNG ĐÀM PHÁN 10
Vòng thứ 10 của TPP diễn ra tại Kuala Lumpur, Malaysia từ ngày 5 - 9
tháng 12 năm 2011. Chỉ có một vài nhóm đàm phán gặp mặt và làm việc trong suốt
cả tuần, bao gồm các nhóm đàm phán về nguồn gốc xuất xứ, dịch vụ, đầu tư và sở
hữu trí tuệ. Các nhóm đàm phán về tiếp cận thị trường hàng công nghiệp, nông
nghiệp và dệt may cũng có buổi gặp mặt. Tất cả đều tạo nên những tiến bộ hơn nữa
trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các vấn đề .
Nhật Bản, Canada và Mexico đã chính thức bảy tỏ mong muốn tham gia vào
TPP. Các nước trong TPP đều tán thành điều này và sẽ bắt đầu quá trình thảo luận
song phương với các nước này về mức độ sẵn sàng và khả năng của họ.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 11
Vòng thứ 11 của TPP diễn ra tại Melbourne, Australia từ ngày 1-9 tháng 3
năm 2012. Đây là vòng đàm phán đầy đủ đầu tiên bao gồm tất cả các nhóm đàm
phán kể từ hội nghị các nhà lãnh đạo TPP tại Honolulu giữa tháng 11 năm ngoái.

13


Các nhóm đàm phán đã làm việc cùng nhau nhằm phát triển và thực hiện các
kế hoạch chi tiết để chấm dứt đàm phán. Đàm phán đã đạt được tiến triển đáng kể
ở các vấn đề như thống nhất pháp lý, minh bạch, cạnh tranh và tạo điều kiện cho
kinh doanh, lợi ích của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và phát triển. Một số nhóm

đồng ý gặp mặt giữa kỳ để đẩy nhanh đàm phán.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 12
Vòng thứ 12 của TPP diễn ra tại Dallas, Texas Hoa Kỳ từ ngày 8-18 tháng 5
năm 2012.
Vòng đàm phán lần này đã đạt được những tiến triển ngoài dự kiến. Các
nước tham gia TPP đã đàm phán xong các vấn đề về các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- điểm mới trong một hiệp định thương mại tự do của Hoa Kỳ ,nhằm thúc đẩy quá
trình hội nhập vào thương mại toàn cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kết thúc
đàm phán về các vấn đề chung như vấn đề xung đột pháp luật, tăng cường chuỗi
cung ứng hàng hóa giữa các quốc gia TPP, và thúc đẩy sự phát triển chung của khu
vực. Ngoài ra, 9 quốc gia TPP cũng đã tiếp tục cố gắng đàm phán về các gói thuế
quan đầy tham vọng mà có thể giúp các quốc gia này tiếp cận thị trường của nhau
trên các lĩnh vực dệt may, nông nghiệp và công nghiệp.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 13
Vòng thứ 13 TPP diễn ra từ ngày 2-10 tháng 7/2012 tại San Diego,
California, Hoa Kỳ đã đạt được những tiến triển quan trọng. Tại vòng đàm phán
lần này, các nhà đàm phán tiếp tục tiến đến kết thúc hơn 20 chương của Hiệp định.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 14

14


Vòng thứ 14 TPP đã diễn ra tại Leesburg, Virginia từ ngày 6-15 tháng
9/2012. Sau 10 ngày đàm phán, các nhà đàm phán từ các nước đối tác TPP đã nỗ
lực làm việc trên 29 chương của Hiệp định.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 15
Vòng thứ 15 TPP diễn ra từ ngày 3-12 tháng 12/2012 tại Aukland, New
Zealand. Đây là vòng đàm phán TPP đầu tiên của Mexico và Canada.
các nước đã nỗ lực để kết thúc đàm phán về lời văn đối với 29 chương của
hiệp định bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư và hết sức

tập trung và các chương mà còn nhiều vấn đề chưa được thống nhất.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 16
Vòng này diễn ra từ ngày 4 đến ngày 13 tháng 3 năm 2013 tại Singapore với
sự tham gia của 11 nước.
Đến vòng thứ 16 nhưng đàm phán mới chỉ hoàn thành được 03 vấn đề là Hải
quan, Viễn thông, Hài hòa pháp lý và phát triển. Các vấn đề khác đều đang còn rất
nhiều tranh cãi. Các vấn đề chủ yếu được đàm phán trong vọng này là:
 SỞ HỮU TRÍ TUỆ: bao gồm yêu cầu điều chỉnh các quy định sở hữu trí
tuệ theo hướng tăng quyền của chủ sở hữu, giảm các điều kiện đăng ký bảo
hộ và tăng cường các biện pháp thực thi.
 DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC: các yêu cầu về minh bạch hóa và các
nguyên tắc nhằm đảm bảo doanh nghiệp nhà nước sẽ cạnh tranh bình đẳng
với doanh nghiệp tư nhân.

15


 ĐẦU TƯ: cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà đầu tư và Nhà nước nơi
nhận đầu tư, theo đó nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiện nước nhận đầu tư
ra một tổ chức trọng tài tư.
 LAO ĐỘNG: Chương lao động đưa ra hình phạt tiền và cả trừng phạt
thương mại dựa trên khối lượng thương mại bị ảnh hưởng bởi các vi phạm
quy định về lao động.
 MUA SẮM CÔNG: các quy định về mua sắm công ở cấp trung ương, các
gói thầu của các cấp chính quyền địa phương nhưng do trung ương cấp vốn
sẽ vẫn phải mở cửa cho các nhà cung cấp nước ngoài cạnh tranh như bình
thường.
 SẢN PHẨM DỆT MAY: đề xuất áp dụng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”
(yarn-forward) đối với hàng dệt may trong TPP.
 ĐỐI VỚI MỘT SỐ SẢN PHẨM KHÁC: DA GIÀY, SỮA VÀ ĐƯỜNG: về

da giày, đây là vấn đề tranh cãi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. New Zealand
cũng đang gặp khó khăn trong việc đàm phán với Hoa Kỳ về vấn đề tiếp cận
thị trường sữa của nước này.
 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 17:
Phiên đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) lần thứ 17
đã diễn ra tại Li-ma, Pê-ru từ ngày 15 đến ngày 24/5/2013.
Tại Phiên đàm phán, các nước đã thảo luận những nội dung còn tồn tại trong
nhiều lĩnh vực và đạt được tiến bộ đáng kể trong các chương như các biện pháp vệ
sinh và kiểm dịch động thực vật , phòng vệ thương mại, thương mại điện tử, dịch
vụ xuyên biên giới, quy tắc xuất xứ, pháp lý và thể chế.
16


 VÒNG ĐÀM PHÁN THỨ 18:
Từ ngày 15 đến 25/7/2013, Phiên đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) lần thứ 18 đã diễn ra tại Kota Kinabalu, Malaysia. Ngày
23/7/2013, Nhật Bản đã chính trở thành thành viên thứ 12 tham gia đàm phán Hiệp
định TPP. Các nước đã thống nhất một chương trình làm việc cụ thể để thúc đẩy
đàm phán, hướng tới mục tiêu tự do hóa một cách toàn diện các lĩnh vực mở cửa
thị trường đối với các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và dệt may.
 VÒNG ĐÀM PHÁN TPP LẦN THỨ 19
Vòng này bắt đầu tại Brunei từ ngày 23 đến ngày 30 tháng 8 năm 2013.
Đoàn đàm phán Việt Nam đã tích cực thúc đẩy đàm phán và đạt được nhiều tiến
bộ, đặc biệt trong các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu chủ lực như dệt
may, da giày, thủy hải sản.

II. MỘT SỐ NỘI DUNG ĐÀM PHÁN CHỦ YẾU:
II.1.

ĐỐI VỚI SẢN PHẨM DỆT MAY


Đây là một trong những vấn đề tốn nhiều thời gian và gây nhiều tranh cãi
nhất trong TPP, đặc biệt đối với các nước có lợi ích liên quan, trong đó có Việt
Nam.
Liên quan đến vấn đề xuất khẩu hàng dệt may sang các nước thuộc TPP, Hoa
kỳ đề xuất quy tắc yarn-forward. Theo đó, các sản phẩm dệt may chỉ được hưởng
thuế suất 0% nếu từ sợi trở đi được làm từ các nước TPP.Theo quy định của TPP,
nếu Việt Nam đàm phán thành công TPP điều kiện để đáp ứng ưu đãi thuế suất 0%
khi xuất hàng vào Mỹ, thì một trong những điều kiện tiên quyết là tỷ lệ nội địa hóa
17


trong từng sản phẩm dệt may phải đạt tối đa. Đồng nghĩa, mọi khâu đoạn từ kéo
sợi, dệt – nhuộm – hoàn tất và may phải được làm tại Việt Nam.
Tại vòng đàm phán 16 diễn ra từ ngày 4 đến 13 tháng 3 năm 2013 tại
Singapore, một trong những vấn đề then chốt cần được giải quyết giữa Việt nam và
Hoa Kỳ là hàng dệt may và đã có một vài dấu hiệu tích cực trong vòng đàm phán
này. Văn phòng đại diện Thương mại Hoa Kỳ( USTR) đã đưa ra định nghĩa về
“nguồn cung ngắn hạn (short – supply)” cho quy tắc xuất xứ nghiêm ngặt “từ sợi
trở đi” (yarn – forward) đối với dệt may mà Hoa Kỳ đề xuất trước đó. Việt Nam
cũng đã thể hiện rõ ràng mong muốn được tìm hiểu kỹ càng hơn về những ngoại lệ
này để xem đó có phải là một hướng đi tốt hay không.Đề xuất này của Hoa Kỳ đã
gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của tất cả các nước TPP trừ Mexico và Peru.
Đối với Việt Nam, dệt may là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực,
tuy nhiên nguồn nguyên liệu lại chủ yếu nhập từ các nước ngoài TPP như Trung
Quốc, Hàn Quốc… Vì thế, Việt Nam là nước phản đối mạnh mẽ nhất đề xuất trên
của Hoa Kỳ.Việt Nam mong muốn áp dụng quy tắc xuất xứ “cắt và may” (“cut and
sew”) trong TPP để cho phép hàng dệt may của Việt Nam có thể sử dụng các
nguyên liệu từ những nước ngoài TPP mà vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan theo
TPP.

Đồng quan điểm với Việt Nam, Úc cũng phản đối đề xuất trên của Hoa Kỳ
do nước này có một khu vực dệt may nhỏ và dựa vào sợi nhập khẩu là chủ yếu nên
muốn bảo vệ. Canada thì coi TPP là cơ hội để cải thiện quy tắc “yarn-forward”
trong NAFTA vốn được coi là cản trở sự phát triển của ngành dệt may nước này.
Peru ủng hộ “yarn-forward” vì nước này có ngành dệt kim sản xuất trong
nước hoàn toàn. Còn Mexico, trong khi Chính phủ có vẻ ủng hộ quy tắc “yarnforward” để bảo vệ ngành sản xuất đã gây dựng dựa trên NAFTA, các nhà sản xuất
trong nướcvẫn còn những quan điểm trái chiều. Bên cạnh đó với sự tham gia của
Nhật Bản trong thời gian tới, Hoa Kỳ có thể có thêm một đồng minh về vấn đề
“yarn-forward” bởi Nhật Bản cũng có một khu vực dệt may nhỏ và đã được xây
18


dựng nhằm đáp ứng các quy tắc xuất xứ trong các FTA đã ký của nước này (các
quy tắc này lỏng hơn “yarn-forward” nhưng chặt hơn “fabric-forward”).
Theo các nguồn tin, tại vòng đàm phán thứ 15, Hoa Kỳ đã đưa ra đề xuất
mới linh hoạt hơn đối với quy tắc “yarn-forward”. Theo đó, bên cạnh nguyên tắc
chung là “yarn-forward”, sẽ có các ngoại lệ nằm trong 02 danh mục bổ sung (danh
mục các loại hàng dệt may không áp dụng quy tắc này), hay còn được gọi là danh
mục nguồn cung ngắn hạn thiếu hụt (short-supply). Có hai loại danh mục nguồn
cung ngắn hạn là Danh mục thường xuyên và Danh mục tạm thời.
• Danh mục thường xuyên-permanent: Bao gồm các sản phẩm không
được sản xuất toàn bộ trong TPP và không hy vọng được sản xuất
trong TPP trong tương lai (trong các FTA trước của Hoa Kỳ đã từng
có điều khoản loại này)
• Danh mục tạm thời – temporary: Bao gồm các sản phẩm hiện không
được sản xuất toàn bộ trong TPP nhưng có thể có tương lai và vì thế
danh mục sẽ chấm dứt hiệu lực sau một thời gian (khoảng 3 năm), sau
đó thì các sản phẩm này sẽ áp dụng quy tắc yarn-forward như bình
thường.
Các sản phẩm thuộc hai danh mục này sẽ áp dụng quy tắc “cắt-vàmay”(“cut-and-sew”), có nghĩa là nhà sản xuất trong TPP có thể sử dụng vải

nguyên liệu mua từ bất kỳ nơi nào để sản xuất ra sản phẩm may mặc mà vẫn được
hưởng ưu đãi thuế quan theo TPP.
Hiện tại Hoa Kỳ vẫn đang tiếp tục lấy ý kiến nội bộ về các loại sản phẩm dệt
may sẽ đưa vào các danh mục này và hi vọng sẽ đưa ra tại vòng đàm phán tới tại
Peru. Hoa Kỳ vẫn một mực cho rằng việc đưa nhiều loại sản phẩm vào các danh
mục này hoặc thời hạn áp dụng danh mục tạm thời dài sẽ khiến hàng dệt may nhập
khẩu từ Việt Nam và các nước TPP có đủ thời gian để “triệt tiêu” ngành sản xuất
tại Hoa Kỳ.
19


II.2.

ĐỐI VỚI SẢN PHẨM DA GIÀY

Bên cạnh sản phẩm dệt may, tiếp cận thị trường đối với giày dép cũng là một
trong những ưu tiên của Việt Nam trong TPP. Đây cũng là vấn đề tranh cãi giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ. Nội dung đàm phán xoay quanh mức độ loại bỏ thuế quan
của sản phẩm này của Hoa Kỳ.
Một số công ty sản xuất giày dép trong nội địa Hoa Kỳ như New Balance
đang vận động mạnh để thuyết phục USTR duy trì thuế quan cao và quy tắc xuất
xứ nghiêm ngặt đối với giày dép nhập khẩu. Trong khi đó, các công ty sản xuất ở
nước ngoài như Nike lại muốn USTR giảm thuế và có các quy định nhập khẩu linh
hoạt hơn. Với những quan điểm trái chiều giữa hai nước và trong bản thân nội bộ
Hoa Kỳ như vậy, tiến triển đàm phán về vấn đề mở cửa thị trường hàng hóa này
trong TPP khá chậm chạp.
Đối với Việt Nam, Việt Nam muốn Hoa Kỳ loại bỏ thuế cho mặt hàng xuất
khẩu trọng điểm này. Bởi, ngành da giày Việt Nam hiện phải nhập khẩu nguyên
liệu da chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ. Đây đều là những
quốc gia không tham gia TPP. Song để được hưởng thuế suất ưu đãi 0% từ TPP, thì

yêu cầu đặt ra là phải nhập khẩu nguyên liệu từ các nước thành viên TPP, hoặc đòi
hỏi tỷ lệ nguyên phụ liệu nội địa hóa phải đạt tối thiểu 40%.

II.3.

LAO ĐỘNG

Đàm phán về lao động là vấn đề mới được đưa vào trong các FTA gần đây
và gây ra chia rẽ đáng kể trong quan điểm giữa các nước đang phát triển và các
nước phát triển. Hoa Kỳ đặc biệt nhấn mạnh và đưa ra nhiều đòi hỏi cao đối với
vấn đề này trong TPP (bao gồm cả những vấn đề nhạy cảm và có cách hiểu khác

20


nhau giữa các nước như quyền lập hội, quyền can thiệp vào các trường hợp sử
dụng lao động trẻ em, quyền can thiệp của Nhà nước vào các tranh chấp lao
động…).
Gần đây, Tổ chức Công đoàn thế giới (ITUC) đã đưa ra một bản Dự thảo
Chương lao động và cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến lao động cho đàm
phán TPP1, dựa trên Hiệp định Thương mại tự do Hoa Kỳ - Peru (hai thành viên
của TPP hiện tại). Dự thảo này được sự ủng hộ của 07 tổ chức công đoàn lớn ở các
nước thành viên TPP (trong đó có Liên minh Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ và Các
tổ chức liên đoàn các ngành công nghiệp Hoa Kỳ AFL-CIO; Hội đồng các liên
đoàn lao động Australia ACTU, Hội đồng các liên đoàn lao động New Zealand
CTU…).
Một số nội dung được đề cập như : các tiêu chuẩn lao động tối thiểu; các
biện pháp xử lý đối với hàng hóa xuất khẩu mà việc sản xuất vi phạm các tiêu
chuẩn lao động; quyền tự do lập hội và giải quyết các tranh chấp lao động.
II.3.1.VỀ TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG TỐI THIỂU.

Hoa Kỳ yêu cầu các nước phải chấp nhận và thực thi trong pháp luật
nội địa các quyền nêu tại Tuyên bố về các Quyền lao động cơ bản ILO 1998
và nhiều tiêu chuẩn khác thậm chí còn cao hơn cả các tiêu chuẩn trong FTA
Hoa Kỳ - Peru. Tuy nhiên, phần lớn các nước từ chối thi hành đầy đủ các
quyền lao động mà Hoa Kỳ đã đề xuất. Việt Nam trong vấn đề này có thể
cũng không khó để đàm phán tuy nhiên cũng vấp phải nhiều khó khăn. Việt
Nam là một thành viên của ILO từ rất sớm (năm 1980), đã thiết lập khung
khổ pháp luật về lao động của mình theo hướng phù hợp với các tiêu chí cơ
1 Phụ lục 1

21


bản về lao động của tổ chức này. Việt Nam đã phê chuẩn 18 Công ước của
ILO2. Liên quan đến các vấn đề lao động cơ bản, trong số 8 Công ước “hạt
nhân” của Tổ chức này, Việt Nam đã phê chuẩn 5 Công ước quan trọng (bao
gồm Công ước số 100 về công bằng trong tiền công/tiền lương; Công ước số
111 về Phân biệt đối xử về lao động và việc làm; Công ước 182 về các Hình
thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em; Công ước 138 về tuổi lao động tối
thiểu; Công ước 29 về Lao động cưỡng bức). Liên quan đến cơ chế giải
quyết tranh chấp liên quan đến lao động, năm 2008 Việt Nam cũng đã phê
chuẩn Công ước 144 về Cơ chế tham vấn ba bên. Với việc tham gia các
Công ước này, Việt Nam đã có các sửa đổi pháp luật cũng như điều chỉnh cơ
chế thực thi để đảm bảo tuân thủ các quy định liên quan với sự hướng dẫn và
hỗ trợ kỹ thuật của ILO.
II.3.2.CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA XUẤT
KHẨU MÀ VIỆC SẢN XUẤT VI PHẠM CÁC TIÊU CHUẨN LAO
ĐỘNG
Vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong vòng đàm phán đó là việc xử lý
đối với hàng hóa xuất khẩu mà việc sản xuất vi phạm các tiêu chuẩn lao

động. Hoa Kỳ đã đưa ra trong đề xuất Chương lao động của mình các hình
phạt tiền và cả trừng phạt thương mại/trade sanctions dựa trên khối lượng
thương mại bị ảnh hưởng bởi các vi phạm quy định về lao động theo cách
tiếp cận của FTA Hoa Kỳ - Peru.
Đối với Việt Nam, Malaysia và Brunei từ đầu đã phản đối các điều
khoản thực thi nặng nề trong Chương lao động này. Đối với Việt Nam, mặc
2 ILO : Tổ chức lao động quốc tế ( International Labour Organization)

22


dù đã tham gia nhiều công ước quốc tế về lao động, đây là lần đầu tiên vấn
đề này được đưa vào khuôn khổ một FTA mà Việt Nam tham gia. Những
yêu cầu quá cao về nội dung và thực thi trong đề xuất về lao động của Hoa
Kỳ có thể khiến cho Việt Nam gặp nhiều khó khăn và rủi ro khi thực hiện.
Một ví dụ điển hình, đề xuất này yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn tại
biên giới hàng hóa được sản xuất bởi lao động trẻ em trong khi một lượng
lớn hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam được sản xuất ở quy mô hộ gia
đình. Vì vậy nếu áp dụng quy định này, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam sẽ bị chặn ngay tại biên giới các nước TPP.
Canada, nước vốn ủng hộ các FTA có các điều khoản về lao động, tiếp
cận vấn đề này theo cách của hiệp định NAFTA, tức là chỉ giới hạn các biện
pháp xử lý vi phạm các điều khoản về lao động ở hình thức phạt tiền.
Úc và New Zealand vốn có tiêu chuẩn lao động cao nhưng cũng tham
gia vào nhóm phản đối đề xuất của Hoa Kỳ. Có nguồn tin khác nói rằng
New Zealand ủng hộ các quy định về lao động trong Hiệp định hợp tác Kinh
tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương cũ (gọi tắt là P4) mà nước này cùng
với Singapore, Chile và Brunei là thành viên – những quy định này có tiêu
chuẩn thấp hơn nhiều so với yêu cầu của Hoa Kỳ trong TPP bởi không tạo ra
các nghĩa vụ mới, bắt buộc và có thể bị khiếu kiện về các quyền lao động.

Mexico thì có vẻ không thực sự ủng hộ NAFTA nhưng chưa có ý kiến rõ
ràng.
II.3.3.NGHIỆP ĐOÀN LAO ĐỘNG
Một trong những vấn đề nhạy cảm tại Việt Nam, đó là quyền tự do lập hội
(nghiệp đoàn lao động) - Một trong những điều kiện quan trọng khi tham gia đàm
phán TPP. Đối với các nước có các tổ chức công đoàn lớn như Hoa Kỳ, Úc thì ủng
hộ việc tự do nghiệp đoàn. Ngược lại, Singapore và Việt Nam lại khó khăn trong
23


việc thự thi. Hiện nay ở VN chỉ có Công đoàn, là tổ chức hoàn toàn chịu sự lãnh
đạo của Nhà nước, hay nói cách khác là của Đảng. Chấp nhận "Quyền lập hội" cho
người lao động thì Công đoàn Việt Nam sẽ phải đổi mới cả về chức năng nhiệm
vụ, cả về phương thức hoạt động, và sau đó có thể là các đoàn thể quần chúng khác
cũng sẽ noi gương.

II.4.

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC- SOE

Hoa Kỳ là nước đầu tiên đưa ra đề xuất về SOE trong TPP vào tháng
10/2011, trong đó có các yêu cầu về minh bạch hóa và các nguyên tắc nhằm đảm
bảo doanh nghiệp nhà nước sẽ cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân. Tuy
nhiên, các nước TPP lại có các phản ứng trái chiều.
Theo Trợ lý Đai diện Thương mại Hoa Kỳ Daniel Watson, hiện tại các nước
TPP đã “thống nhất về mặt nguyên tắc” rằng nên có một sân chơi bình đẳng giữa
các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, làm thế nào để
đạt được điều này thì vẫn còn nhiều tranh cãi.
Australia yêu cầu rằng nếu Hoa Kỳ muốn áp dụng các nguyên tắc nhằm đảm
bảo hoạt động của các SOE không gây bóp méo thương mại thì cũng phải áp dụng

các nguyên tắc đối với cạnh tranh trong xuất khẩu hàng nông sản, điều khó có thể
chấp nhận bởi Chính phủ Hoa Kỳ. Ngoài ra, Australia cũng đề nghị các nguyên tắc
này phải được mở rộng ra cả các SOE ở cấp vùng chứ không chỉ ở cấp quốc gia
như đề xuất của Hoa Kỳ.
Singapore thì chỉ có một cấp độ quốc gia nên không có lợi ích gì từ việc áp
dụng các nguyên tắc ở cả cấp vùng. Tuy nhiên, nước này cho rằng TPP nên áp đặt
các quy định với các công ty dựa trên hành vi (tức là có cạnh tranh bình đẳng hay

24


không) chứ không nên dựa vào quyền sở hữu của chúng (thuộc sở hữu nhà nước
hay tư nhân).
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, việc áp dụng các quy định dựa trên hành
vi cũng có nhiều vấn đề bởi nếu quy định này đồng nghĩa với việc yêu cầu các
SOE hành động như các doanh nghiệp tư nhân thì điều này sẽ ảnh hưởng đến chức
năng đầu tiên của các doanh nghiệp nàylà can thiệp vào các mảng thị trường mà
nếu để tự nó vận hành sẽ không thể cung cấp các hàng hóa và dịch vụ phục vụ
người dân theo cách thức/mức độ phù hợp. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng việc
phải cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp tư nhân sẽ khiến các SOE hoạt
động hiệu quả hơn, cung cấp những hàng hóa và dịch vụ tốt hơn cho người dân và
xã hội.
Hiện chưa có thông tin tin cậy về quan điểm của Việt Nam trong vấn đề SOE
trong TPP. Mặc dù vậy, theo một số chuyên gia, những nguyên tắc minh bạch, cạnh
tranh liên quan tới SOE có thể là điều kiện tốt cho quá trình cải cách SOE và tái
cấu trúc khu vực doanh nghiệp này ở Việt Nam. SOE trong TPP, vì vậy, có thể là
một động lực tốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình này, mang lại một khung khổ
kinh doanh bình đẳng và cạnh tranh hơn giữa các SOE và khu vực doanh nghiệp
dân doanh.


II.5.

SỞ HỮU TRÍ TUỆ – IP

Là một nội dung quan trọng trong Hiệp định, ban đầu được ký kết giữa bốn
quốc gia, bao gồm Brunei, Chile, New Zealand và Singapore (sau đây gọi tắt là
Hiệp định P4), ngoài một số quy định nằm rải rác ở phần đầu, các quy định về

25


×