Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Đạo đức môi trường ở sinh viên trường đại học hải dương hiện nay thực trạng và những vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.94 KB, 89 trang )


THỊ

C
NG
ÀN
H
TRI
ẾT
HỌ
C
KH
ÓA:
201
6201
8

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ CÚC

ĐẠO ĐỨC MÔI TRƯỜNG Ở SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC HẢI DƯƠNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

1



VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ CÚC

ĐẠO ĐỨC MÔI TRƯỜNG Ở SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC HẢI DƯƠNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ

Ngành: Triết học
Mã số: 82 29 001

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS Hồ Sĩ Quý

...., năm

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của xã hội với các cuộc cách mạng khoa học
công nghệ cùng sự ra đời của máy móc, các thiết bị hiện đại và các khu công
nghiệp, đô thị cũng đã để lại mặt trái của nó là khói bụi, là rác thải, là ô nhiễm
môi trường. Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề báo động ở Việt Nam nói
riêng và trên toàn cầu nói chung. Vậy phải làm sao để ngăn chặn vấn nạn đó?
Câu hỏi đặt ra đang cần sự chung tay góp sức của rất nhiều người.
Thế hệ trẻ của chúng ta chiếm tỉ lệ dân số khá đông và họ cũng chính là
những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sau này sẽ góp phần

thúc đẩy đất nước phát triển theo hướng hiện đại hóa, toàn cầu hóa. Và để
thúc đẩy được đất nước phát triển thì một điều không thể thiếu là cần giải
quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường. Điều đó còn phụ thuộc vào ý thức của
từng bạn trẻ thông qua hành động của họ với việc ô nhiễm môi trường.
Thế hệ trẻ đang nói tới ở đây tập trung chủ yếu là những bạn trẻ còn
đang ngồi trên ghế nhà trường, là những bạn sinh viên đang mang trong mình
những ước mơ, những hoài bão lớn. Chính đây cũng là lực lượng lớn sẽ góp
phần giải quyết việc ô nhiễm môi trường hiện nay. Để làm được điều đó cần
hướng tới xây dựng đạo đức môi trường cho từng em sinh viên, biến ý thức
thành hành động để cùng bảo vệ môi trường xung quanh chúng ta. Vai trò của
giáo dục trong mọi hoàn cảnh đều quan trọng như nhau, nhưng mỗi bối cảnh
khác nhau thì cách thức thực hiện của giáo dục sẽ thay đổi để phù hợp. Trong
điều kiện xã hội hiện nay, để đào tạo một đội ngũ nhân lực cao, có trình độ
cho xã hội không đơn giản chỉ là trau dồi về kiến thức chuyên môn mà còn
trau dồi về nhân cách, đạo đức, cách xử lý tình huống, cách tránh xa các cám
dỗ của cuộc sống nhiều cạm bẫy. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy: “Có

3


tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”. Chính vì vậy mỗi người thầy, người cô đứng trên bục giảng không
chỉ vì trách nhiệm với nghề mà còn vì tình yêu thương dành cho các em, niềm
khao khát được đào tạo các em trở thành những người có ích cho xã hội.
Hiện nay Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố ở mỗi tỉnh thành đều có một
vài trường đại học để thu hút các em sinh viên tại tỉnh thành đó đến học tập,
đây là những nơi tập trung đông đúc sinh viên học tập và sinh hoạt. Và chính
những nơi đó cũng là một trong những nơi xả ra nhiều rác thải góp phần gây ô
nhiễm môi trường ở đó. Bên cạnh những em có ý thức bảo vệ môi trường thì
vẫn còn không ít những em chưa có ý thức bảo vệ môi trường. Sau khi các em

học tập xong về gia đình, địa phương sinh sống lại mang theo ý thức đó về và
lại tiếp tục gây ô nhiễm môi trường ở địa phương. Chính vì vậy việc xây dựng
đạo đức môi trường cho các em là việc làm hết sức cấp thiết.
Hải Dương là một tỉnh có mật độ dân số khá đông và bên cạnh các
trường cao đẳng và trung cấp có từ trước, tỉnh hiện có 3 trường đại học: Đại
học Sao Đỏ, Đại học Thành Đông và Đại học Hải Dương. Trong đó Trường
Đại học Hải Dương là trường đại học công lập duy nhất của tỉnh Hải Dương.
Hàng năm trường thu hút nhiều thí sinh đăng ký tham gia học tập và rèn luyện
tại trường. Chủ yếu là học sinh trong các huyện thuộc tỉnh Hải Dương. Ngoài
ra trường cũng thu hút được một số học sinh thuộc các tỉnh lân cận như Thái
Bình, Quảng Ninh, Bắc Giang và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Để bảo vệ
môi trường, giảm thiểu việc ô nhiễm môi trường ở tỉnh Hải Dương nói chung
và Đại học Hải Dương nói riêng thì việc nghiên cứu về thực trạng đạo đức
môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương và đưa ra các giải pháp
phát huy đạo đức môi trường ở mỗi em là việc làm vô cùng cấp bách.

4


Với những lý do nêu trên tôi quyết định chọn đề tài: “Đạo đức môi
trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương hiện nay: Thực trạng và
những vấn đề” là đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Môi trường xung quanh chúng ta là một vấn đề được khá nhiều tác giả
nghiên cứu, tìm hiểu và đề cập tới bởi tính cần thiết và cấp bách. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu đi vào cả chiều sâu và chiều rộng của vấn đề, đi từ một
ngành đến đa ngành và liên ngành với nhau. Trong đó, từ góc độ khoa học xã
hội nhân văn, chuyên ngành triết học có một số công trình cơ bản sau đây:
Khi đề cập đến vấn đề môi trường, trước tiên cần phải nhắc đến: “Báo
cáo môi trường quốc gia”. Đây là những báo cáo hàng năm về vấn đề môi

trường do Bộ tài nguyên và Môi trường thực hiện. Căn cứ vào báo cáo môi
trường quốc gia năm 2016 với chủ đề là môi trường đô thị cho biết tình trạng
ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị của Việt Nam đang diễn ra rất phức tạp
với sự ô nhiễm tiêu biểu hàng đầu là hoạt động của ngành giao thông vận tải,
ngành xây dựng, ngành công nghiệp... gây ra. Ô nhiễm môi trường không khí,
chủ yếu là bụi gây ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khỏe của
người dân sinh sống tại chính khu đô thị đó. Đặc biệt là trẻ nhỏ với sức đề
kháng còn yếu. Bên cạnh ô nhiễm không khí là ô nhiễm môi trường nước do
việc xử lý nước thải chưa đúng quy định và do việc vứt rác thải xuống sông,
hồ ven khu đô thị gây nên tình trạng bốc mùi hôi thối, nước sông hồ chuyển
màu đen làm ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của người dân và làm xấu đi
hình ảnh đẹp của khu đô thị. Ngoài ra còn ô nhiễm do chất thải rắn gây ra, đó
là hiện tượng thu gom và vận chuyển rác thải chưa nhanh chóng và kịp thời
làm bốc mùi hôi thối và mất mỹ quan đô thị. Cuối cùng là ô nhiễm môi
trường đất do nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đúng theo quy định,
các bãi chôn lấp rác thải gây ra...

5


Báo cáo môi trường quốc gia năm 2017 với nội dung chính đề cập tới
là quản lý rác thải, với những con số thống kê mà báo cáo nêu ra cho chúng ta
thấy môi trường đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng do tình trạng nhiều nơi đưa
rác thải chưa qua xử lý hoặc mới chỉ xử lý ở mức độ đơn giản ra môi trường.
Việc làm đó đã góp phần làm cho nguồn nước, nguồn đất, không khí ngày
càng ô nhiễm hơn. Cùng với đó là hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra
phức tạp, hiện tượng nước biển dâng và xâm nhập mặn đang đe dọa những
khu đô thị, những tỉnh và thành phố ven biển...
Tiếp đến là các tác giả với các bài viết đề cập rất chi tiết đến vấn đề môi
trường, đạo đức môi trường, bảo vệ môi trường, giáo dục bảo vệ môi trường

như: Nguyễn Thị Lan Hương, “Đạo đức môi trường và truyền thống mục đích
luận”, Tạp chí Triết học số 12. Nguyễn Văn Phúc, “Bảo vệ môi trường nhìn
từ góc độ đạo đức”, Tạp chí triết học số 4. Phạm Thị Ngọc Trầm, “Vấn đề
xây dựng đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường”, Triết học, số
3/ 2002; Phạm Thị Ngọc Trầm (Chủ biên), Quản lý nhà nước đối với tài
nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội – nhân
văn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Hồ Sỹ Quý, “Về đạo đức môi
trường”, Triết học, số 9/2005; Hồ Sỹ Quý (Chủ biên) (2000), Mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội; Môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường, Lê Văn Khoa (chủ biên),
Nxb Giáo dục Việt Nam, 2008; Hội thảo quốc gia“Giáo dục môi trường trong
các trường học”, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường cùng Đại
học quốc gia Hà Nội phối hợp thực hiện...
Từ những công trình nêu trên cho chúng ta thấy môi trường có vai trò
quan trọng như thế nào với cuộc sống thường ngày của mỗi người dân, chính
vì vậy mà nhiệm vụ bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường
đang vô cùng cấp bách. Để bảo vệ môi trường đạt kết quả tốt thì chúng ta phải

6


đi từ việc giáo dục ý thức, trách nhiệm và đạo đức môi trường đến từng thành
viên trong xã hội từ trẻ đến già, không phân biệt tuổi tác, trình độ. Vì đạo đức
môi trường được thể hiện ở tất cả các phương diện của xã hội từ sản xuất, du
lịch, giải trí, học tập đến sinh hoạt hàng ngày của con người. Hiện nay ô
nhiễm môi trường không chỉ tập trung ở thành phố, các khu đô thị, công
nghiệp mà đã len lỏi về tận thôn quê và trường học. Điều đó đòi hỏi càng phải
đẩy nhanh giáo dục đạo đức môi trường cho từng người dân. Các công trình
nghiên cứu trên đã nhấn mạnh đến thực trạng môi trường hiện nay, các vấn đề
cần giải quyết và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường để

bảo vệ môi trường đang bị suy thoái. Các giải pháp đó thể hiện ở tầm quốc gia
và đang được thực hiện trên phạm vi cả nước với tất cả các lĩnh vực.
Một số công trình nghiên cứu sâu hơn, hệ thống hơn về đạo đức môi
trường như: Vũ Dũng, “Đạo đức môi trường ở nước ta: lí luận và thực tiễn”,
Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội 2010; Dự án điều tra cơ bản “Đánh giá đạo
đức môi trường ở nước ta hiện nay”, do Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực
hiện (2009 – 2010); Nguyễn Văn Phúc, “Đạo đức môi trường”, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội 2013; “Xây dựng đạo đức môi trường ở Việt Nam hiện
nay”, Luận án tiến sĩ Triết học của Hoàng Thị Thanh chuyên ngành Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Hà Nội, 2017. Đây là
những công trình đề cập đến cả mặt lý luận và nhận thức về đạo đức môi
trường với những khái niệm cụ thể và chi tiết bao gồm: khái niệm môi trường,
đạo đức, đạo đức môi trường và các tiêu chí để đánh giá đạo đức môi trường...
Ví dụ: Các tiêu chí để đánh giá đạo đức môi trường thể hiện như sau: Đạo đức
môi trường là những hành vi mang tính chuẩn mực (thông qua các văn bản
pháp luật, các quy định, nghị định hiện hành về môi trường); Ý thức về nghĩa
vụ của con người đối với việc bảo vệ môi trường; Ý thức tự giác, tự nguyện
của chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Sự tác động của lương tâm chủ

7


thể đối với việc bảo vệ môi trường; Việc bảo vệ môi trường gắn với sự hài
hòa về lợi ích giữa con người và tự nhiên; Chia sẻ trách nhiệm để duy trì sự
toàn vẹn của môi trường toàn cầu...
Các tác giả cũng đã tập trung phân tích thực trạng đạo đức môi trường
đang diễn ra hiện nay và những vấn đề cần giải quyết để từ đó đưa ra các giải
pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Tuy nhiên các giải
pháp đó mang tầm quốc gia, xã hội. Tính đến thời điểm hiện tại chưa có công
trình nào nghiên cứu về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải

Dương: thực trạng và những vẫn đề. Tuy vậy, các công trình trên chính là
những tiền đề, căn cứ và cơ sở để chúng tôi vận dụng trong nghiên cứu nội
dung đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương: thực trạng
và những vẫn đề. Chúng tôi sẽ tập trung đi sâu và làm rõ về đạo đức môi
trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương đã và đang diễn ra như thế
nào? Thực trạng của đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải
Dương đang bộc lộ ra sao? Những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh viên
Trường Đại học Hải Dương cần được giải quyết là gì? Trên cơ sở đó sẽ đưa ra
những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế để phát huy những ưu
điểm về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương từ đó sẽ
góp phần làm cho Trường Đại học Hải Dương và quê hương Hải Dương có
môi trường làm việc, học tập và sinh hoạt xanh - sạch và đẹp hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và các vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên
trường đại học hiện nay nhằm đưa ra các biện pháp để giải quyết những vấn
đề đang tồn tại và nâng cao nhận thức, thái độ đúng đắn ở sinh viên về đạo
đức môi trường trong trường học cũng như trong gia đình và ngoài xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

8


a. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về đạo đức, đạo đức môi trường,
đạo đức môi trường ở sinh viên làm cơ sở dữ liệu của đề tài.
b. Trình bày và phân tích thực trạng, những vấn đề hiện tại của đạo đức
môi trường và nguyên nhân của những hạn chế về đạo đức môi trường ở sinh
viên đại học.
c. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh
viên đại hoc đối với việc học tập và trong cuộc sống.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức môi trường ở sinh viên đại học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và những
vấn đề đạo đức môi trường ở sinh viên đại học đang học tập tại Trường Đại
học Hải Dương.
- Phạm vi về địa bàn nghiên cứu
Địa bàn tập trung nghiên cứu và lấy số liệu khảo sát chủ yếu tập trung
tại Trường Đại học Hải Dương, địa chỉ: Phía Nam cầu Lộ Cương, Liên Hồng,
Gia Lộc, TP Hải Dương.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Lấy các nguyên lý cơ bản và phương pháp luận của triết học Mác –
Lênin làm phương pháp luận nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích – tổng hợp; logic –
lịch sử; hệ thống – cấu trúc, văn bản học, liên ngành khoa học xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

9


Luận văn góp phần làm rõ vấn đề đạo đức môi trường ở sinh viên đại
học hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, trong giảng dạy về đạo đức môi
trường cho sinh viên đại học; luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị đối với
công tác xây dựng đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải

Dương hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về đạo đức môi trường ở sinh viên đại học
Chương 2: Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh
viên Trường Đại học Hải Dương
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh
viên Trường Đại học Hải Dương

10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƯỜNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức dùng để chỉ một thành tố trong tính cách và giá trị của một con
người. Những tư tưởng về đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây
trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại . Theo nghĩa Hán Việt có thể

hiểu: đạo là con đường, đức là tính tốt. Khi nói một người có đạo đức tức là
nói người đó đã có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống có
chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Hiện nay, đạo đức là một
vấn đề được nhiều tác giả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy đạo đức là một
hiện tượng xã hội được hình thành trong quá trình lao động sản xuất tạo ra
của cải vật chất, trong mối quan hệ giữa con người với con người nhằm điều
chỉnh hành vi của mình để đảm bảo sự hoạt động của cộng đồng nói chung.
Đạo đức được hình thành dựa trên cơ sở tự giác, tự nguyện không mang tính
cưỡng ép, bắt buộc. Chỉ có những hành vi được thực hiện trên cơ sở tự giác,
tự nguyện và phù hợp với lợi ích xã hội mới được coi là hành vi đạo đức.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “đạo đức” là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được dư luận xà hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối
với nhau và đối với xã hội phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo
những tiêu chuẩn nhất định mà có” [từ điển tiếng việt 3, tr.464].
Qua đây có thể hiểu đạo đức theo các khía cạnh sau:
 Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, trong đó tập hợp những qui
tắc, chuẩn mực xã hội và từ những quy tắc, chuẩn mực đó con người sẽ tự
giác điều chỉnh hành vi của bản thân mình để phù hợp với lợi ích và hạnh
phúc của con người, với tiến bộ xã hội.

11


 Đạo đức là hệ thống những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực thể hiện
sự tự giác của con người trong mối quan hệ giữa con người với con người,
con người với cộng đồng xã hội, con người với tự nhiên và con người với
chính bản thân mình.
1.1.1.2. Cấu trúc của đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của triết học, đạo đức là một hiện tượng xã
hội có cấu trúc phức tạp, gồm các thành phần sau: ý thức đạo đức, hành vi đạo
đức và quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức: Là hệ thống những quan niệm, nguyên tắc, tri thức và
những cảm xúc, tình cảm chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện,
ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc và công bằng… Mặt khác nó còn bao
gồm cả những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với
xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Hành vi đạo đức: Là một hành động được thực hiện một cách tự giác,
tự nguyện và được xuất phát bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức. Hay
có thể hiểu hành vi đạo đức là những cử chỉ, hành động và việc làm của con
người trong các mối quan hệ xã hội mà phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.

Quan hệ đạo đức: Là tổng hợp những quan hệ xã hội, tác động qua lại
với nhau, đó là quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội xét về
mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức có tính tự giác và tự nguyện, nó vận động, biến
đổi theo quá trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế xã hội hay hệ giá trị đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động, phát triển.
Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố
tạo nên cấu trúc của đạo đức, chúng không tồn tại độc lập, mà có quan hệ biện
chứng tác động qua lại với nhau. Cấu trúc đạo đức không thể thiếu một tỏng
ba yếu tố này. Ý thức đạo đức được hình thành trong quan hệ đạo đức và là

12


điều kiện để hình thành hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là quá trình hiện
thực hóa ý thức đạo đức và không thể tách rời quan hệ đạo đức.
1.1.1.3. Chức năng của đạo đức
Tương tự như cấu trúc của đạo đức, chức năng của đạo đức cũng có ba
chức năng bao gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và
chức năng nhận thức.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Đây được coi là chức năng quan trọng
nhất của đạo đức, mặc dù là chức năng quan trọng nhất nhưng đó không phải
là cái đặc quyền của đạo đức, bởi vì trong xã hội, con người tạo ra rất nhiều
phương thức điều chỉnh hành vi của mình như: pháp luật, tôn giáo, chính trị,
nghệ thuật, nhận thức khoa học... Chức năng này nhằm bảo đảm hài hòa quan
hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng
chế, bắt buộc phải thực hiện thì sức mạnh của đạo đức chính là niềm tin cá
nhân, là truyền thống và dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện bằng hai
phương thức chủ yếu như sau: Thứ nhất là xã hội tạo ra sức mạnh dư luận để
khen ngợi,động viên những người có đạo đức và có những hành vi tốt đẹp.
Đồng thời cũng lên án, phê phán những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến mọi

người xung quanh và đến cộng đồng xã hội. Thứ hai là bản thân mỗi người
phải tự giác, xuất phát từ chính ý thức của mình để điều chỉnh hành vi thông
qua những chuẩn mực đạo đức xã hội và bản thân cũng phải tham gia các hoạt
động thực tiễn để bổ sung nhận thức, rèn luyện ý chí.
Chức năng giáo dục: Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản
của đạo đức, chức năng này có tác dụng hình thành những nguyên tắc, quy tắc
và chuẩn mực đạo đức trong từng con người cụ thể và phát triển nhân cách
của họ. Đây cũng là con đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát
triển. Có thể hiểu, chức năng giáo dục của đạo đức chính là làm cho “tính

13


người” ở mỗi người được nhiều lên để ngày càng có nhiều hành động đẹp cho
những người khác học tập và noi theo.
Về thực chất chức năng này là đạo đức hóa con người và xã hội loài
người. Hiệu quả của chức năng này phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã
hội, vào mức độ tự giác của mỗi người trong quá trình giáo dục đạo đức để
hướng tới nhân cách và phẩm chất cần có.
Chức năng nhận thức: Ngoài hai chức năng nêu trên, đạo đức còn có
chức năng nhận thức. Chức năng này bao gồm: nhận thức và tự nhận thức.
Nhận thức của đạo đức là một quá trình vừa có hướng nội, vừa có hướng
ngoại. Nhận thức hướng nội lấy bản thân chủ thể đạo đức làm đối tượng để
nhận thức. Đây là quá trình chủ thể đạo đức tự đánh giá bản thân, tự đối chiếu
nhận thức cũng như những hành vi của mình với chuẩn mực đạo đức xem đã
phù hợp chưa? Nhận thức hướng ngoại là lấy chuẩn mực đạo đức làm đối
tượng để nhận thức. Trên cơ sở đó, chủ thể nhận thức làm gia tăng thêm tính
hướng nội của mình. Còn tự nhận thức là quá trình bản thân tự thẩm định, tự
đánh giá những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với chuẩn mực giá trị
chung của cộng đồng, xã hội. Từ hai quá trình nhận thức trên con người sẽ đi

đến phân biệt những giá trị như: đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác... và hướng tới
giá trị bao quátmà con người muốn vươn tới là chân, thiện, mỹ.
C.Mác từng nói: Người hạnh phúc nhất là người mang lại hạnh phúc
cho nhiều người nhất…
Các chức năng của đạo đức đều có một vai trò nhất định, nhưng không
phải vì thế mà chúng tách rời nhau, không có ràng buộc với nhau mà ngược
lại chúng đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự vận hành của chức năng này là
tiền đề, điều kiện của sự vận hành chức năng đạo đức khác. Hơn nữa chúng
đều hướng tới một mục đích chung của xã hội đó là nhân đạo hóa con người
và xã hội loài người.

14


1.1.2. Môi trường
1.1.2.1. Khái niệm môi trường
Môi trường là khái niệm rộng, bao quát nhiều nội dung và được sử
dụng trong rất nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, giáo dục.... theo định
nghĩa thông thường thì môi trường được hiểu: “là toàn bộ nói chung những
điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát
triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy. [Từ điển tiếng
Việt, Nxb. Đà Nẵng 1997, tr. 618].
Về mặt pháp lý, theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kì họp thứ 7 thông qua
ngày 23/6/2014 thì môi trường được định nghĩa là: "hệ thống các yếu tố vật
chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con
người và sinh vật”. Từ cách định nghĩa này của Luật bảo vệ môi trường có thể
hiểu môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo bao quanh
con người và nó có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động sống của con người như:
sinh hoạt, sản xuất, học tập... Qua đây, chúng ta cũng thấy được con người

chính là trung tâm của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thành phần
của môi trường theo Điều 1 của Luật này bao gồm: "yếu tố vật chất tạo thành
môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các
hình thái vật chất khác".
Hiện nay có hai cách hiểu đơn giản về môi trường, đó là hiểu theo
nghĩa rộng và hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, môi trường bao gồm tất
cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho hoạt động sinh hoạt, lao động,
sản xuất của con người như: nước, không khí, đất, ánh sáng... Theo nghĩa hẹp,
môi trường chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội tác động trực tiếp tới
chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của giảng viên bao gồm
nhà trường với sinh viên, đồng nghiệp, nội quy của trường, lớp học, phòng

15


làm việc, tổ chức xã hội như Đảng, Đoàn với các điều lệ hay gia đình, họ tộc
với những quy định chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi hành và
các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư...
Nếu chia theo chức năng có thể chia môi trường sống của con người
như sau:
Một là môi trường tự nhiên bao gồm ánh sáng mặt trời, núi sông, biển
cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... chúng tồn tại bên ngoài ý muốn của
con người, nhưng không phải như vậy mà không chịu sự tác động của con
người mà ngược lại chúng vẫn chịu ít nhiều tác động.
Hai là môi trường xã hội đó là tổng thể các quan hệ giữa người với
người bao gồm: luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác
nhau như: quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ chức
đoàn thể... Môi trường xã hội giúp cho hoạt động của con người được đi theo
một khuôn khổ nhất định, từ đó dần dần hình thành sức mạnh tập thể to lớn
tạo thuận lợi cho sự phát triển, và đây cũng là điểm khác biệt giữa cuộc sống

của con người và các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, đó là
tất cả các nhân tố do con người tạo ra, làm thành những tiện nghi trong cuộc
sống, như: xe máy, ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu đô thị, khu công
nghiệp, các khu công viên nhân tạo phục vụ cho vui chơi giải trí...
Từ những trình bày ở trên có thể hiểu môi trường là tất cả những gì có
xung quanh chúng ta, cho chúng ta cơ sở để tồn tại, để sống và phát triển.
1.1.2.2. Chức năng của môi trường
Môi trường chính là không gian sống của con người và sinh vật. Vậy
môi trường có chức năng gì? Môi trường cho chúng ta không khí để thở và
duy trì sự sống, cho đất đai để trồng trọt chăn nuôi và xây dựng nhà cửa,
ngoài ra môi trường còn có rất nhiều loại khoáng sản ở cả trên mặt đất và

16


trong lòng đất, đó là nguồn tài nguyên rất quý phục vụ cho nhu cầu sản xuất.
Không chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất mà môi trường còn có rất
nhiều danh lam thắng cảnh đẹp là nơi du lịch, nghỉ mát cho con người sau
những ngày làm việc vất vả, cho cuộc sống của con người tươi đẹp và sinh
động hơn. Tuy nhiên khả năng cung cấp của môi trường tự nhiên phục vụ các
nhu cầu đó của con người là có giới hạn và nó phụ thuộc vào trình độ phát
triển của mỗi quốc gia và ở mỗi giai đoạn khác nhau.
Ngoài ra môi trường còn là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của
con người trong quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất và sử dụng các tài
nguyên thiên nhiên thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Chất thải có
loại ở dạng rắn, có loại ở dạng lỏng và một số loại qua thời gian được phân
hủy thành các chất vô cơ, vi sinh có thể phục vụ lại nhu cầu cầu của con
người. Ví dụ chất thải của lợn có thể ủ thành khí sinh học biogas phục vụ cho
nhu cầu đun nấu của con người hay chất thải của các loại gia súc, gia cầm có

thể ủ mục thành phân bón cho các loại cây trồng được xanh tốt và hạn chế
được việc sử dụng phân bón hóa học. Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng,
chúng bị thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Tuy nhiên với chức
năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường không phải là vô hạn mà là có
giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ gây ra tình trạng mất cân
bằng sinh thái và dẫn đến hiện tượng ô nhiễm môi trường. Lúc này lại cần sự
chung tay góp sức của con người để chống lại hiện tượng ô nhiễm môi
trường, để bảo vệ môi trường.
1.1.2. Đạo đức môi trường
1.1.2.1. Khái niệm đạo đức môi trường
Thuật ngữ đạo đức môi trường không phải xuất hiện ngay từ thời cổ
đại, thời cổ đại đạo đức môi trường mới chỉ thể hiện ở tình yêu thương của
con người với thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá và vạn vật xung quanh nơi họ

17


sinh sống. Cho đến khi nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển cùng
với các cuộc cách mạng khoa học công nghệ đem theo sự ra đời ngày càng
nhiều các loại máy móc hiện đại từ đó làm cho đời sống của con người ngày
càng đòi hỏi cao hơn, họ không bằng lòng với những gì sẵn có hiện tại của tự
nhiên. Họ bắt đầu khai thác sâu hơn vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của
môi trường để tìm ra những nguồn nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho công
việc của mình, lâu dần làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt dẫn
đến việc môi trường tự nhiên không thể tự điều chỉnh, tự cân bằng được và
gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường. Với tình trạng ô nhiễm môi trường
như hiện nay việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của từng quốc
gia riêng lẻ mà nó mang tính toàn cầu, mang tính quốc tế với mọi quốc gia
trên thế giới. Để thực hiện được trách nhiệm của mình, chúng ta nhận thấy
rằng mỗi quốc gia nên có thay đổi về chiến lược, chính sách, cách thức và mô

hình phát triển về kinh tế để từ đó đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa
con người với xã hội và tự nhiên.
Để đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con người với tự nhiên thì
bên cạnh việc khai thác tự nhiên con người cũng cần phải bảo vệ tự nhiên,
bảo vệ môi trường. Muốn bảo vệ môi trường thì phải có những hành động,
việc làm về bảo vệ môi trường ví dụ như: vứt rác đúng nơi quy định kể cả ở
nhà hay ở trường học, bệnh viện, nơi công cộng; không bẻ cành cây, hái hoa
hay dẫm lên cỏ ở những khuôn viên trường học, công viên, khu đô thị làm
xấu cảnh quan môi trường; hay rộng hơn là không chặt phá rừng bừa bãi, săn
bắn trái phép những loài vật quý đang trong danh sách cần được bảo tồn....
Những hành động và việc làm đó phải xuất phát từ trong suy nghĩ, nhận thức,
thái độ của mỗi người và phải mang tính tự nguyện, tự giác không bắt buộc
phải thực hiện. Đây chính là cơ sở để hình thành và cho ra đời một cách ứng

18


xử mới đối với môi trường thuộc về phạm trù đạo đức được mang tên là đạo
đức môi trường.
Khái niệm về đạo đức môi trường được rất nhiều tác giả trong và ngoài
nước nhắc tới. Đầu tiên không thể không nhắc tới một luận điểm nổi tiếng và
đó cũng là quan niệm đầu tiên về đạo đức môi trường đưa ra năm 1949 của
triết gia người Mỹ mang tên Aldo Leopold trong 5 tập tiểu luận The Land
Ethic đã đăng trên A Sand County Almanac (Niên giám một vùng đất): “Một
hành động chỉ được coi là đúng nếu nó nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, ổn định và
vẻ đẹp của cộng đồng sinh vật; ngược lại thì là sai lầm”.
Theo tác giả Ernest Partridge trong tác phẩm Giới thiệu về đạo đức môi
trường, Trường Đại học tổng hợp California, Mỹ (2008), có nhấn mạnh: “đạo
đức môi trường được hiểu là, sự thể hiện trách nhiệm của con người đối với
việc tôn trọng đất đai, thực vật, tài nguyên, sinh vật không phải là con người”.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu ở ngoài nước thì trong nước cũng có
rất nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức môi trường, trong đó tiêu biểu có:
Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Phúc với tác
phẩm “Đạo đức môi trường”, tác giả đã đưa ra định nghĩa về đạo đức môi
trường như sau: “Đạo đức môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức
điều chỉnh quan hệ giữa con người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền
vững”[11 , tr.73]
Tác giả Hồ Sỹ Quý trong bài viết về môi trường ở tạp trí Triết học số 9
với nội dung “Về đạo đức môi trường” tác giả cũng khẳng định: “Đạo đức
môi trường là một khái niệm rộng, phong phú, nhưng không quá đa nghĩa.
Trên những nét lớn, có thể hiểu và sử dụng khái niệm này như sau:
- Đạo đức môi trường là những chuẩn mực tự nhiên, bình thường ngấm
sâu trong hành vi và trong phong cách sinh hoạt, ứng xử của mỗi người và mỗi
cộng đồng - Con người bảo vệ môi trường, tôn trọng giới tự nhiên và cẩn trọng

19


trước hệ sinh thái một cách tự nhiên, không cần ai ra lệnh, không vì mục đích
vụ lợi nào khác.
- Đạo đức môi trường biểu hiện thiết thực trong hành vi của mỗi người,
mỗi cộng đồng. Trình độ cao của đạo đức môi trường biểu hiện ở ý thức và kỹ
năng xử lý những vấn đề môi trường.
- Có thể trong tư tưởng, trong suy nghĩ của mình, những người dân
bình thường không hề biết các lý thuyết cao siêu nào đó về hệ sinh thái và bảo
vệ môi trường; song, không hẳn vì thế mà họ kém ý thức về mặt đạo đức môi
trường. Đạo đức môi trường, trước hết, được biểu hiện ở tình cảm tự nhiên
của con người - con người biết ửng xử thân thiện và biết tôn trọng môi trường
sống quanh họ.
- Đạo đức môi trường độc lập nhất định với học vấn. Người có học vấn

cao chưa chắc đã có đạo đức môi trường ở trình độ cao. Người có học vấn
thấp vẫn có thể có đạo đức môi trường đáng tôn trọng.”[13]
Từ những định nghĩa về đạo đức môi trường của các tác giả trong và
ngoài nước, ta có thể hiểu khái niệm đạo đức môi trường như sau: Đạo đức
môi trường là một hệ thống tổng hợp các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức để trên cơ sở đó con người sẽ tự điều chỉnh những hành vi của bản
thân một cách tự giác, tự nguyện, không cần ai chỉ đạo với môi trường nhằm
hướng đến sự phát triển hài hòa, ổn định và bền vững giữa con người với môi
trường tự nhiên.
Từ khái niệm về đạo đức môi trường, ta thấy một số nội dung cơ bản
đáng chú ý như sau:
1) Đạo đức môi trường là một hệ thống các quan điểm, quy tắc, chuẩn
mực đạo đức để hướng dẫn con người và điều chỉnh hành vi của con người
đối với môi trường nhằm thực hiện những mục đích của mình với môi trường

20


nhưng cũng vẫn bảo vệ môi trường để tạo ra sự phát triển hài hòa và bền vững
giữa con người với môi trường.
2) Trên cơ sở các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức con người đã tự giác
và chủ động điều chỉnh hành vi của mình với môi trường sa cho phù hợp với
chuẩn mực đạo đức môi trường.
3) Đạo đức môi trường thể hiện trách nhiệm của mỗi con người với môi
trường, đó là trách nhiệm vừa khai thác vừa kiến tạo và bảo vệ môi trường.
Cũng là thể hiện mối quan hệ đề cao môi trường của con người trong xã hội
hiện đại.
Qua đây, có thể coi đạo đức môi trường là một sự đánh giá mang tính
hệ thống các mối quan hệ đạo đức giữa con người và môi trường tự nhiên
xung quanh con người. Từ đó xác lập lên các chuẩn mực nhằm điều chỉnh

mối quan hệ giữa con người với tự nhiên theo hướng hài hòa lợi ích giữa con
người và tự nhiên. Nói cách khác là đảm bảo lợi ích của con người mà không
làm tổn hại giới tự nhiên. Và đạo đức môi trường là sự thể hiện hành vi của
con người thông qua ý thức của họ đối với môi trường, nó vừa mang tính tất
yếu lại vừa mang tính tự giác.
Tại sao đạo đức môi trường mang tính tất yếu? Vì nó là những chuẩn
mực dành cho tất cả mọi người không phân biệt tầng lớp trí thức hay nông
dân, là người giàu hay người nghèo, là người già hay người trẻ, là ngưoif theo
tôn giáo hay không theo tôn giáo. Những chuẩn mực đó mang tính cộng đồng
và xã hội vì môi trường là của tất cả mọi người chứ không phải là của riêng
ai. Như vậy thực hiện các hành vi với môi trường theo những chuẩn mực đó
được coi là trách nhiệm, là nghĩa vụ của mỗi người đối với môi trường, xuất
phát từ ý thức, suy nghĩ và lương tâm của mọi người với môi trường.
Bên cạnh tính tất yếu đạo đức môi trường còn mang tính tự giác. Tính
tự giác ở đây là thể hiện sự tự bản thân mỗi người tự có những hành động đối

21


với môi trường chứ không do tổ chức xã hội hay người nào khác ép buộc họ
thực hiện các hành vi với môi trường. Hành động của mỗi người đối với môi
trường ở đây xuất phát từ trong suy nghĩ, trong lương tâm của họ. Nếu những
người yêu môi trường, muốn bảo vệ môi trường họ sẽ có những hành động để
bảo vệ môi trường như: không vứt rác bừa bãi, không bẻ cành, hái hoa hay
dẫm lên cỏ ở những nơi công cộng... và ngược lại là những người không
muốn bảo vệ môi trường. Để nhận biết được một người có đạo đức môi
trường hay không chỉ cần thông qua hành động và việc làm của họ đối với
môi trường.
Như vậy để thực hiện được đạo đức môi trường đòi hỏi mỗi người cần
trang bị cho mình những tri thức khoa học không chỉ về lĩnh vực môi trường

mà còn bao gồm các lĩnh vực khác, từ đó phát huy sức sáng tạo của mình để
khai thác và bảo vệ tự nhiên sao cho hợp lý và mỗi con người cũng cần đạo
đức và tinh thần trách nhiệm với hành động của mình.
1.1.2.2. Những chuẩn mực cơ bản của đạo đức môi trường
Nói đến đạo đức không thể không nói đến chuẩn mực đạo đức. Chuẩn
mực đạo đức có tư cách là sự thể hiện những yêu cầu, những đòi hỏi của xã
hội đối với hành vi cá nhân và chuẩn mực đạo đức thể hiện một cách tập trung
chức năng điều chỉnh của đạo đức. Vai trò điều chỉnh của các chuẩn mực đạo
đức biểu hiện như sau: những đòi hỏi, những yêu cầu của xã hội (ngăn cấm
hoặc khuyến khích) thể hiện trong chúng tạo nên giới hạn cho hành vi, xác
định điều gì cần làm và điều gì không được làm trong những hoàn cảnh,
những tình huống cụ thể nhất định. Chuẩn mực đạo đức, do vậy, là yếu tố
trung tâm của ý thức đạo đức. Đồng thời nó cũng phản ánh những yêu cầu về
mặt đạo đức của xã hội đối với con người. Bởi vậy, một hệ chuẩn mực đạo
đức nhất định sẽ xác định đặc trưng của một nền đạo đức nói chung hay một
lĩnh vực đạo đức cụ thể.

22


Ở đây, có thể thấy đạo đức môi trường là một lĩnh vực đạo đức đặc thù,
vì vậy đi kèm với nó là một hệ thống chuẩn mực đạo đức đặc thì phản ánh
những đặc thù của việc bảo vệ môi trường. Mặc dù mang tính đặc thù nhưng
chuẩn mực đạo đức môi trường không biệt lập với các chuẩn mực đạo đức
khác mà vẫn có mối liên hệ với các chuẩn mực đạo đức đó. Như đã biết mọi
quan hệ trong xã hội đều là quan hệ động, chính vì vậy quan hệ giữa con
người và môi trường, xã hội và tự nhiên cũng là quan hệ động. Vì thế, các
chuẩn mực đạo đức môi trường cũng biến đổi theo chiều hướng mở rộng về
nội dung và gia tăng về số lượng do tính phức tạp của quan hệ này ngày càng
gia tăng. Vị trí, vai trò, chức năng của mỗi chuẩn mực đạo đức môi trường

trong hệ thống các chuẩn mực đạo đức môi trường không phải lúc nào cũng
cố định mà có sự biến đổi theo từng thời kỳ, từng địa vực nhất định khác
nhau. Có những chuẩn mực sẽ tồn tại rất lâu nhưng có những chuẩn mực sẽ
nhanh bị thay đổi do tồn tại xã hội thay đổi, chính trị, văn hóa thay đổi. Ở mỗi
thời kỳ, mỗi địa vực nhất định vấn đề môi trường nào nổi lên cấp bách thì
những chuẩn mực đạo đức điều chỉnh việc giải quyết vấn đề môi trường đó
trở thành chuẩn mực chủ yếu và cấp bách nhất. Mặc dù vậy, cũng như những
lĩnh vực đạo đức khác, đạo đức môi trường có những chuẩn mực chung chi
phối các phương diện cụ thể của quan hệ giữa con người và môi trường.
Nhưng quan hệ đạo đức trong đạo đức môi trường có tính chất đặc biệt, đó là
nó phải vượt lên trên mối quan hệ giữa người với người để vươn tới quan hệ
đối với giới tự nhiên. Trong điều kiện môi trường hiện nay, những chuẩn mực
sau đây có thể coi là những chuẩn mực chung căn bản nhất:
* Tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người - xã hội
- tự nhiên.
Chuẩn mực này có thể coi là chuẩn mực chung nhất, chi phối, định
hướng các chuẩn mực đạo đức môi trường khác, tạo cơ sở, nền tảng cho quan

23


hệ đạo đức của con người đối với tự nhiên. Những chuẩn mực khác trong hệ
thống chuẩn mực đạo đức môi trường đều là sự cụ thể hoá, chi tiết hóa chuẩn
mực này với mới những mức độ khác nhau. Chuẩn mực này có cơ sở khách
quan là quá trình hình thành, quá trình tiến hóa một cách tự nhiên của hệ
thống con người – xã hội – tự nhiên.
Trước khi có con người, tự nhiên là một hệ thống thuần túy, có cơ chế
tự điều chỉnh. Nhưng từ khi con người xuất hiện hệ thống đó không còn là hệ
thống tự nhiên thuần túy nữa mà đã thay vào đó là hệ thống con người - xã
hội - tự nhiên. Con người khác với các thành tố khác của tự nhiên là họ có ý

thức, có lí trí và có năng lực để cải biến tự nhiên. Tuy nhiên với sự tác động
của con người tới tự nhiên trong suốt thời gian dài đã và đang gây ra những
hậu quả nghiêm trọng. Cùng với nhận thức của mình, con người phải có
những hành động thực tiễn nhằm bảo đảm sự hài hoà, cân bằng của hệ thống
con người- xã hội- tự nhiên. Bằng lí trí, ý thức và bằng thực tiễn, con người
sẽ nhận ra tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người- xã hội- tự
nhiên là một yêu cầu, một chuẩn mực đạo đức.
Thái độ và tình cảm tôn trọng, bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con
người- xã hội- tự nhiên sẽ định hướng cho con người có sự tự giác và tự
nguyện bảo vệ sự đa dạng sinh học, bởi chính sự đa dạng sinh học là một
trong những nhân tố, điều kiện đảm bảo cho sự hài hòa của hệ thống con
người – xã hội – tự nhiên luôn luôn được bền vững. Và cũng chính thái độ và
tình cảm đó sẽ định hướng cho chúng ta tự giác và tự nguyện giải quyết một
cách tối ưu những vấn đề đang tồn tại của con người, của xã hội. Bởi vì,
những vấn đề của môi trường không thể độc lập giải quyết mà không giải
quyết những vấn đề của con người, xã hội và những vấn đề của xã hội, con
người cũng chỉ có thể giải quyết được triệt để khi giải quyết được các vấn đề
của môi trường, của tự nhiên. Chính vì vậy, tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của

24


hệ thống con người-xã hội- tự nhiên là chuẩn mực đạo đức phổ quát, đồng
thời cũng là sự phản ánh về mặt đạo đức của bản thân quá trình phát triển bền
vững lấy kinh tế, xã hội và môi trường cùng làm mục tiêu để hướng tới.
Như vậy, đạo đức môi trường không những đòi hỏi bản thân mỗi người
phải biết tôn trọng môi trường tự nhiên mà còn phải biết đấu tranh chống lại
các quan niệm lạc hậu cho rằng con người là tất cả, “trời sinh voi, trời sinh
cỏ” và môi trường tự nhiên chỉ là vô tri vô giác, từ đó, con người phải biết đấu
tranh với các biểu hiện xâm hại đến môi trường, từ đó cùng chung tay bảo vệ

môi trường.
* Sử dụng tài nguyên tiết kiệm và có hiệu quả
Đây là chuẩn mực chủ yếu liên quan chính đến lĩnh vực sản xuất. Vì
lĩnh vực này tập trung khai thác các nguồn nguyên nhiên liệu sẵn có của tự
nhiên. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ cho ra
đời nhiều máy móc hiện đại làm cho quy mô sản xuất ngày càng được mở
rộng và nhu cầu khai thác tài nguyên ngày càng cao. Đến nay, nhân loại đã
khai thác hết hơn 40% nguồn tài nguyên không tái tạo được. Và với sự phát
triển của xã hội, sự gia tăng về dân số đòi hỏi vẫn phải đẩy mạnh việc khai
thác hơn nữa. Trước thực trạng này thì việc sử dụng tài nguyên tiết kiệm và có
hiệu quả trở thành yêu cầu của sự phát triển kinh tế bền vững và do đó trở
thành chuẩn mực về mặt đạo đức. Tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn tài
nguyên không chỉ dừng lại ở việc không lãnh phí tài nguyên trong sản xuất
mà còn phải tiến hành áp dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ để sao
cho mỗi đơn vị sản phẩm làm ra tiêu hao ít nhất nguyên liệu và nhiên liệu.
Trong điều kiện xã hội ngày nay, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả là
yêu cầu không chỉ với nguồn tài nguyên không tái tạo được mà còn là yêu cầu
với cả những nguồn tài nguyên tái tạo được. Và cần phải coi chuẩn mực này
là một trong những chuẩn mực căn bản của đạo đức môi trường. Người có

25


×