Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 123 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





BÙI THỊ HƯỜNG






PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN HOÀN THIỆN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



BÙI THỊ HƯỜNG







PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN HOÀN THIỆN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Xuân Đức




HÀ NỘI - 2010

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
4
1.1. Thực hiện dân chủ cơ sở và pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
4
1.1.1. Thực hiện dân chủ cơ sở và pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
4
1.1.2. Vai trò, đặc điểm của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
10
1.2. Nội dung của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
14
1.2.1. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị
trấn

14
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở tại các cơ quan,

tổ chức, xí nghiệp

15
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
18
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

25
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
25
2.1.1. Quy định về nội dung và phương thức thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường,
thị trấn

25
2.1.2. Quy định về nội dung và phương thức thực hiện dân chủ cơ sở ở các cơ
quan, tổ chức, xí nghiệp

51
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở
77
2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn
77
2.2.2.Thực trạng thực hiện dân chủ trong các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp
84
2.3. Đánh giá thực trang về pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
86
2.3.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở
86
2.3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định về dân chủ cơ sở

88
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ

95



3.1. Yêu cầu khách quan về việc hoàn thiện pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ở
Việt Nam hiện nay

95
3.2. Quan điểm, phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật thực
hiện dân chủ cơ sở

97
3.3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
99
3.3.1. Bổ sung, hoàn thiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
99
3.3.2. Bổ sung, hoàn thiện các quy định của Pháp luật thực hiện dân chủ trong
các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp

103
3.3.3. Ban hành luật riêng về Thanh tra nhân dân hoặc Luật về hoạt động giám sát
của nhân dân để quy định về vai trò giám sát nhân dân đối với bộ máy nhà nước
khi Luật Thanh tra không còn quy định về vấn đề này


104

3.3.4. Xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật về ý kiến nhân dân và phản biện
xã hội

108
3.3.5. Xây dựng luật về chế độ tự quản
109
3.3.6. Xây dựng luật về đình công, biểu tình
110
3.3.7. Kế thừa và phát huy những giá trị cổ truyền của hương ước
110
3.3.8. Giải pháp bảo đảm thực thi pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở
111

KẾT LUẬN

113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
115

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn
Xây dựng và thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở là chủ trương quan trọng của
Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa đột phá để giải quyết nhiều vấn đề bức xúc liên quan
đến quyền làm chủ của nhân dân, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ", nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo những lời chỉ dẫn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng ta đã sớm khẳng định mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách

mạng, của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Xây dựng chế độ nhà nước dân
chủ với nguyên tắc "Toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
Các quyền dân chủ của nhân dân được ghi nhận trong các quy định của Hiến
pháp và hàng loạt các quy định về pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan,
tổ chức, xí nghiệp…Từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành chủ trương xây dựng và
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, cho đến nay, chúng ta đã triển khai thực
hiện rộng khắp trong cả nước và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả
các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Việc triển khai xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thời gian qua đã chứng tỏ đây là một
chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng được nhu cầu bức thiết và lợi ích to
lớn trực tiếp của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, được nhân dân phấn khởi
đón nhận và tích cực thực hiện, vận động thực hiện, thể hiện tính ưu việt của chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó người dân đã hiểu rõ hơn về quyền lợi, trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình. Cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở có
ý thức hơn về dân chủ và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, sau
nhiều năm thực hiện, vẫn còn một số địa phương, đơn vị chưa có chuyển biến nhiều
do nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về Quy chế dân chủ ở cơ sở trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực tiễn cho thấy ở những nơi phong trào yếu kém,
cán bộ có khuyết điểm, thiếu trách nhiệm đều không muốn triển khai thực hiện hoặc

2
triển khai hình thức, qua loa, chiếu lệ, kiểu làm cho xong việc. Tuy nhiên, cũng có
những cán bộ nhiệt tình thực hiện nhưng do trình độ hạn chế, không nhận thức đúng
việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nên quá trình triển khai, thực
hiện còn nhiều khuyết điểm, yếu kém, chưa đạt yêu cầu và nội dung của quy chế. Vì
thế, chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở bị hạn chế. Mặt khác còn một bộ
phận nhân dân thường chỉ quan tâm đến quyền lợi nhiều hơn nghĩa vụ, chưa làm tốt
nghĩa vụ công dân. Thậm chí có hiện tượng lợi dụng dân chủ và dân chủ cực đoan.
Trước tình hình đó, vấn đề nghiên cứu pháp luật về dân chủ cơ sở, thực tiễn thực

hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đề xuất những giải pháp thích hợp, nhằm nâng cao
chất lượng thực hiện Quy chế này trở thành yêu cầu khách quan, cấp bách.
Từ những cơ sở lý luận thực tiễn nêu trên tôi chọn đề tài: “Pháp luật về thực
hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và những vấn đề cần hoàn
thiện” với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng thực hiện các quy định về dân
chủ cơ sở ở Việt Nam.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã, phường, thị trấn theo
tinh thần của Pháp lệnh 34/2007/PL - UBTVQH và pháp luật thực hiện dân chủ cơ
sở trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, xí nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ từ năm 1998 đến nay, tức là
từ khi ra đời Chỉ thị 30/CT - TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định về dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các cơ
quan, tổ chức, xí nghiệp, doanh nghiệp, mục đích nghiên cứu của luận văn là đề
xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:

3
Để đạt mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở.
+ Đánh giá pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.
+ Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cũng
như những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về vấn đề này và
về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, các phương pháp cụ thể khác như phương pháp: lịch sử cụ thể, phân tích,
tổng hợp; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: thống kê, so sánh.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
Chương 2: Thực trạng pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp
luật thực hiện dân chủ cơ sở
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo






4
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THỰC HIỆN
DÂN CHỦ CƠ SỞ

1.1. Thực hiện dân chủ cơ sở và pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
1.1.1. Thực hiện dân chủ cơ sở và pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
1.1.1.1 . Khái niệm dân chủ

Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời cổ đại. Người đầu tiên đưa ra khái niệm
dân chủ là nhà sử học, nhà chính trị học người Hy Lạp Hêrôđốt (484 - 425 trước
Công nguyên) khi ông xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử. Theo ông, lịch sử
đã xuất hiện ba kiểu thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ, trong đó dân
chủ là thể chế chính trị do nhân dân nắm quyền lực thông qua con đường bầu cử. Để
chỉ một hiện thực dân chủ đã được thiết lập trên thực tế, trong ngôn ngữ đã xuất
hiện thuật ngữ democratia, nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân (democratia là từ
ghép của hai từ demos là nhân dân, cratos là quyền lực).
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ, do cách thức tiếp cận, mục đích
tiếp cận khác nhau. Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân, là một trong
những hình thức tổ chức chính trị nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên
bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do bình
đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Khi bàn về khái
niệm dân chủ là gì, các nhà khoa học đề xuất khá nhiều ý kiến:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng, dân chủ là sản phẩm của quan hệ giai cấp, là tổ
chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội.
- Ý kiến thứ hai hiểu khái niệm dân chủ bao hàm ba nội dung cơ bản là nội
dung chính trị (dân chủ chính trị), nội dung văn minh nhân đạo (dân chủ xã hội là
thành quả quan trọng nhất của văn minh và nhân đạo của loài người) và nội dung xã
hội của dân chủ (dân chủ xã hội là hình thức tồn tại của xã hội hiện đại).
- Ý kiến thứ ba cho rằng, dân chủ cần được xem xét theo nhiều khía cạnh,
nhưng với nghĩa chung nhất, phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.

5
- Ý kiến thứ tư của một số nhà khoa học, tôn vinh dân chủ là một công trình bi
tráng trong hàng chục vạn năm của loài người. Đó là khát vọng, lý tưởng chung mà
hàng triệu con tim và khối óc cùng hướng tới, đấu tranh không mệt mỏi để giành lấy
dù phải hy sinh xương máu. Dân chủ là khát vọng mà chính chúng ta đang vươn tới.
- Ý kiến thứ năm cho rằng, dân chủ không chỉ là một vấn đề chính trị hay xã hội,
mà xét theo bề sâu chính là một vấn đề văn hóa. Bởi thế, xử lý vấn đề dân chủ không

thể tách rời khỏi mối quan hệ truyền thống - hiện đại trong văn hóa. Dân chủ còn là
một yếu tố của văn hóa, một thành tựu của văn hóa đã có từ lâu đời trong truyền thống
văn hóa của dân tộc. Theo các nhà kinh điển: dân chủ là sản phẩm tự quyết của nhân
dân, phản ánh sự tồn tại của con người với tất cả ý trí, tài năng và lợi ích của họ; dân
chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp; quyền dân chủ bị chế định bởi tương quan
giai cấp, trạng thái phát triển của sản xuất và trình độ văn hóa chung, trước hết là
văn hóa chính trị của nhân dân; dân chủ là một hình thức Nhà nước mà ở đó thừa
nhận quyền ngang nhau của dân cư trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý
xã hội.
Như vậy, dân chủ là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có nội dung rộng lớn và luôn
luôn mới, gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người. Để hiểu rõ
bản chất, nội dung và tính chất của dân chủ, phải xem xét nó dưới nhiều góc độ,
khía cạnh: là phương thức của phong trào chính trị xã hội của quần chúng; là hình
thức nhà nước, hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực xã hội; là một hệ thống
quyền hành, tự do và trách nhiệm của công dân được quy định bởi hiến pháp và
pháp luật; là nguyên tắc tổ chức toàn thể xã hội và với tư cách là một chế độ chính trị.
Tuy tiếp cận vấn đề dân chủ dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng chung quy
lại các ý kiến đều thống nhất ở luận điểm: Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Như vậy, dù xem xét dân chủ dưới góc độ nào thì thực chất bản chất, nội dung, tính
chất và khuynh hướng phát triển của dân chủ là hoàn toàn phụ thuộc vào chỗ quyền
lực chính trị thuộc về tầng lớp nào, giai cấp nào và phục vụ cho tầng lớp nào, giai
cấp nào trong xã hội đó. Và điều đó lại lần nữa chứng minh thêm cho tính đúng đắn
của luận điểm: sự khác nhau về chất giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản.

6
Dân chủ được bảo đảm và phát huy bằng nhiều biện pháp. Tuy nhiên, việc
thực thi dân chủ phải luôn gắn liền với mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được
thiết lập. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê đã trở thành người chủ của đất nước.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội,
nhân dân Miền Bắc đã trở thành người chủ của mọi quyền lực trong đó có quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được thiết
lập trên phạm vi cả nước. Từ đó đến nay nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã và đang
được xây dựng phát huy vai trò ngày càng to lớn, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức
thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng
vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [64, tr. 653].
1.1.1.2. Thực hiện dân chủ cơ sở, pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được khẳng định trong đường lối,
chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Quyền dân chủ của công
dân được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá. Hiệu quả của
dân chủ thể hiện trực tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan,
doanh nghiệp v.v là nơi trực tiếp thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước; là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác; là nơi
diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các cấp ủy Đảng
và chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức điều hành và xử lý công việc hàng
ngày. Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn
đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của
cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân dân có quyền làm
chủ và được hưởng lợi từ cơ sở và ở cơ sở.
Nhận thức rõ bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, ngay từ khi chính quyền
nhân dân mới được thành lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lực nhà nước là

7
của nhân dân. Theo đó, “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt
chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho
mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia công việc quản lý của nhà

nước”[37, tr56]. Người nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng địa phương, từng cơ
sở, từng cán bộ, từng người dân, và từng công việc phải cụ thể, rõ ràng. Vận động
tất cả lực lượng, mỗi cán bộ, đảng viên thậm chí những người dân có nhận thức
đều phải có trách nhiệm làm cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình
trong vị thế của người làm chủ. Người yêu cầu “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với
dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực
với hoàn cảnh địa phương”[40, tr.32].
Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa
phương, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm cụ
thể để cống hiến cho sự phát triển chung một cách tự giác.
Ngày nay phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" là thể hiện
tư tưởng của Người. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương thực hiện có nề nếp
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và chủ trương đó ngày
càng được thực tế kiểm nghiệm tính cần thiết khách quan, và để quá trình dân chủ
hoá thực sự đi vào cuộc sống, chúng ta cần cụ thể hoá phương châm này. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (tháng 6/1997)
khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của
nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách
trực tiếp và rộng rãi nhất. Theo tinh thần của Nghị quyết đó, Bộ Chính trị đã ra Chỉ
thị 30/CT - TW tháng 2/1998 và Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đó là những văn bản có
tính chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây dựng và
thực hành thực hiện dân chủ - làm chủ.
Vậy, thực hiện dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của người dân, (mặc
dù có cả dân chủ đại diện) được tiến hành từ cấp xã, phường trở xuống (đến cấp
thôn, xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp) theo phương châm dân biết, dân

8
bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chủ ở cơ sở trước hết là dân chủ trực tiếp, là hình

thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí
(qua ý kiến) nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính
quyền ở cơ sở.
Có nhiều hình thức để thực hiện dân chủ ở cơ sở như: trưng cầu ý dân; bầu và
bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử; bàn bạc, thảo luận, tham gia quyết định, giám sát,
kiểm tra việc thực hiện các vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, trật tự an ninh ở cơ
sở; tố cáo, khiếu nại; xây dựng quy định, quy ước tự quản.
Như vậy, thực hiện dân chủ ở cơ sở đề cập đến cả dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước cũng như các loại hình công ty
khác và đơn vị, xí nghiệp, các mô hình kinh tế tư nhân trong hệ thống kinh tế Việt Nam.
Để dân chủ cơ sở được phát huy và đi vào cuộc sống phải được cụ thể và quy
định trong các quy định của pháp luật. Chính pháp luật là điều kiện, là đảm bảo để
có dân chủ. Muốn có dân chủ thực sự thì dân chủ phải đặt trong mối liên hệ với
pháp luật. Pháp luật là đại lượng và phương tiện của dân chủ. Nhưng pháp luật cũng
có tính độc lập tương đối đối với dân chủ: pháp luật không sinh ra dân chủ bởi dân
chủ không tự trên trời rơi xuống mà là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao
động, là kết quả của quá trình nhận thức, là tất yếu của tiến bộ xã hội.
Ngoài sự quyết định và chi phối của các nhân tố kinh tế và phi kinh tế, sự phát
triển của pháp luật nhìn chung phụ thuộc vào trình độ nền dân chủ hiện thời hoặc
ảnh hưởng từ bên ngoài của các nền dân chủ khác. Đến lượt mình, dân chủ lại phụ
thuộc vào các điều kiện khách quan về kinh tế - chính trị - xã hội. Pháp luật với ưu
thế và nhược thế riêng của mình lại tác động trở lại đối với dân chủ. Pháp luật có
thể thúc đẩy, hỗ trợ cho dân chủ phát triển và ngược lại, có thể kìm hãm dân chủ
dưới nhiều hình thức.
Muốn cho pháp luật thực sự là động lực cho dân chủ thì pháp luật phải gần dân,
pháp luật phải được minh bạch hóa, phải được góp ý, tranh luận thẳng thắn công
khai để pháp luật tự hoàn thiện. Một quy định pháp luật không rõ ràng, không minh
bạch, không đúng đắn sẽ là cơ hội cho người ta vi phạm, lợi dụng dân chủ. Nếu

9

pháp luật xây dựng trên nền tảng khép kín, chủ quan, khi thực hiện thì bưng bít,
không minh bạch vô hình chung nó sẽ trở thành công cụ của thiểu số áp đặt lên đa số.
Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là sự chi tiết các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về thực thiện dân chủ cơ sở đưa các chủ trương đó vào áp dụng
trong thực tiễn, pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở quy đinh các nội dung như: thực
hiện quyền dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, các cách thức và phương pháp
để đảm bảo quyền làm chủ của người dân. Những việc mà người dân được quyền
tham gia ý kiến và phải có sự tham gia của người dân; quy định về trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức, xí nghiệp… trong việc thực hiện đúng các nội dung về dân chủ cơ
sở trong cơ quan, đơn vị mình.
điều đó được thể hiện ở các văn kiện đại hội của Đảng và các văn bản do Nhà
nước ban hành: Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã
ra chỉ thị số 30 về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Thể chế hoá
chỉ thị của Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) ban hành các Nghị
quyết số 45/1998, số 55/1998, số 60/1998 giao cho Chính phủ ban hành các Nghị
định về thực hiện qui chế dân chủ ở ba loại hình cơ sở. Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 29/1998, số 71/1998 và số 07/1999, trong đó NĐ 29/1998/NĐ – CP quy
định về Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, NĐ 71/1998//NĐ – CP quy định về
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính và NĐ 07/1999/NĐ – CP quy
định về Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước và được bổ sung thêm
Nghị định số 87/2007/NĐ – CP ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở Công ty cổ
phần, công ty Trách nhiệm hữu hạn. Đối với quy chế thực hiện dân chủ cấp xã,
phường, thị trấn sau đó được được sửa đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐ – CP,
gần đây ngày 20 tháng 4 năm 2007 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xây dựng thành
Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Đảm bảo dân chủ cơ sở là đảm bảo thực hiện các nội dung, các yêu cầu dân
chủ trong đời sống xã hội, cụ thể là: đảm bảo cho các cơ quan, tổ chức nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo các cơ chế, các nguyên tắc dân chủ, quyền hạn,
nhiệm vụ được giao của các cơ quan, tổ chức này phải phù hợp với các qui định của
pháp luật phù hợp với ý chí nguyện vọng của nhân dân, phục vụ cho lợi ích của


10
nhân dân. Đảm bảo dân chủ cơ sở còn là đảm bảo lợi ích của toàn dân trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đồng thời phải kịp thời phát hiện xử lý
các vi phạm pháp luật, các hành vi vi phạm dân chủ.
Với tư cách là đại diện ủy quyền thực hiện quyền lực của nhân dân, yêu cầu
đặt ra đối với Nhà nước là phải thể chế hóa kịp thời và đầy đủ các nội dung dân chủ
cơ sở thành các qui phạm pháp luật, làm cho cơ sở pháp lý cho hoạt động của chính
chủ thể nhà nước và các chủ thể khác tham gia vào quá trình thực hiện dân chủ cơ
sở. Các quy phạm pháp luật được ban hành nó có giá trị bắt buộc chính chủ thể nhà
nước và các chủ thể khác phải tôn trọng, bảo vệ, thực hiện các nội dung dân chủ,
các giá trị dân chủ trên thực tế. Nó trở thành đại lượng xác định mức độ dân chủ, trở
thành phương tiện, công cụ đảm bảo dân chủ cơ sở. Hệ thống các quy phạm pháp
luật đó được gọi là pháp luật đảm bảo dân chủ cơ sở.
Như vậy, pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thực hiện các nội dung về dân chủ cơ sở.
1.1.2. Vai trò, đặc điểm của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
1.1.2.1.Vai trò của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp
luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được quy định thành các chế định pháp luật,
các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định.
Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là văn bản pháp luật quy định cụ thể những
việc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã, cơ quan tổ chức, ban lãnh đạo cơ
quan, tổ chức, xí nghiệp phải thông tin kịp thời và công khai để người dân, người
lao động biết; những việc cần bàn và quyết định trực tiếp; những việc cần tham gia
ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc cần giám sát, kiểm tra và
các hình thức thực hiện dân chủ cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo
của người dân, người lao động. Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở thực chất là một

chế định pháp lý bảo đảm quyền làm chủ của người dân, người lao động ở xã,
phường, thị trấn, trong cơ quan, đơn vị, tổ chức, xí nghiệp.

11
Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội:
Một là: Sự ra đời của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là một bước đột phá
quan trọng trong việc thực hiện hóa bản chất dân chủ của Nhà nước ta sự ra đời của
pháp luật thực hiện dân chủ đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp
với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới.
Bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN là những quan hệ xã hội quan trọng phải được
điều chỉnh bằng pháp luật.
Hai là: Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đã tạo bầu không khí dân chủ, cởi
mở trong xã hội, củng cố thêm niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội, góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Trong một thời gian dài trước đây dân chủ cơ sở đã không được quan tâm
đúng mức, nhiều nơi, nhiều lúc dân chủ cơ sở bị vi phạm nghiêm trọng, người dân,
người lao động không có cơ chế để bảo vệ và thực hiện quyền làm chủ của mình.
Do vậy, khi pháp luật thực hiện dân chủ ra đời và được triển khai đã làm cho người
dân, người lao động rất phấn khởi và nhiệt tình hưởng ứng. Thông qua quá trình học
tập và thực hiện dân chủ cơ sở người dân, người lao động, cán bộ, công nhân viên
chức đã thấy rõ hơn quyền cũng như trách nhiệm của mình trong việc xây dựng đời
sống dân chủ ở cơ sở, ý thức làm chủ, ý thức công dân đã có sự chuyển biến rõ rệt.
Ba là: Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đã làm cho nhận thức của các đoàn
thể trong toàn hệ thống chính trị, các cơ quan đơn vị, công ty và toàn xã hội về dân
chủ và dân chủ trực tiếp ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực.
Thực hiện dân chủ cơ sở ở xã đã tạo ra cơ sở pháp lý để MTTQ các cấp và các
tổ chức chính trị - xã hội thực hiện được vai trò cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân
trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. MTTQ và các tổ chức thành viên thông
qua hoạt động phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân, chỉ đạo triển trai xây
dựng, thực hiện, giám sát việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, góp phần

tạo ra môi trường dân chủ lành mạnh ở cơ sở, góp phần củng cố, kiện toàn tổ chức
đảng, chính quyền các cấp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Pháp luật về dân chủ trong cơ quan, tổ chức, xí nghiệp cũng là vấn đề ít được
quan tâm, nhưng từ khi có các quy định của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở trong

12
cơ quan, tổ chức, công ty thì quyền lợi của người lao động được đảm bảo hơn, nhất
là trong quá trình thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước việc đảm bảo
dân chủ là vô cùng quan trọng. Các quy định của pháp luật đã tạo điều kiện cho cán
cộ, công nhân viên, người lao động tích cực tham gia vào các hoạt động của cơ
quan, đơn vị mình hơn vì có cơ chế triển khai, kiểm tra, giám sát và xử lý các sai
phạm về vi phạm dân chủ cơ sở một cách rõ ràng.
Bốn là: Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương, các cơ quan, đơn vị, xí
nghiệp.
Thực hiện dân chủ cơ sở đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của nhân dân lao
động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng
Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn về quốc kế, dân sinh. Thông qua
hình thức hoạt động dân chủ trực tiếp tại cơ sở người dân, người lao động có điều
kiện tham gia ý kiến, có điều kiện tập dượt, trưởng thành trong vai trò của người
chủ đích thực.
Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan tổ chức đã gắn việc thực hiện dân
chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, xã hội,
xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống của người dân,
người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn kết việc thực hiện dân
chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của người dân,
người lao động.
Năm là: Góp phần củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, nâng cao
chất lượng cán bộ, đảng viên, đổi mới phong cách làm việc của cán bộ cấp cơ sở.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của họ trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở. Góp

phần vào công cuộc đổi mới hoàn thiện bộ máy Nhà nước và công cuộc cải cách
hành chính hiện nay ở Việt Nam.
Sáu là: Pháp luật thực hiện dân chủ nhất là pháp luật thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn đã góp phần nâng cao hiệu quả tác động tới các ngành luật khác
như: "Luật tổ chức HĐND - UBND, luật giải quyết khiếu nại, tố cáo; luật bầu cử:
Quốc hội, Luật bầu cử HĐND các cấp".

13
Thực hiện dân chủ cơ sở là một giải pháp để hạn chế sự tha hóa của quyền lực
Nhà nước, hạn chế những hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn để lạm quyền và
lộng quyền, hạn chế những hành vi sai trai: tham nhũng, nhận hối lộ…bộ máy cơ
quan công quyền cũng như các Ban quản trị công ty, đơn vị, xí nghiệp hoạt động
hiệu quả hơn.
Chính nhờ những quy định rõ ràng về dân chủ cơ sở mà người dân biết sử
dụng quyền của mình để đấu tranh, loại trừ những hành vi tiêu cực đang xảy ra
xung quanh. Nhờ những quy định về việc cần thông báo, cần dân bàn, cần dân kiểm
tra đã làm hạn chế rất nhiều các hành vi tha hóa của cán bộ, đảng viên trong bộ máy
quyền lực Nhà nước cũng như trong các công ty, đơn vị, xí nghiệp.
Việc thực hiện pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đã thúc đẩy và phát huy
quyền làm chủ của người dân, người lao động, khơi dậy tiềm năng, trí sáng tạo
trong họ, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần xây dựng niềm tin và mối liên hệ
chặt chẽ giữa dân với Đảng và chính quyền, giữa người lao động với công ty, đơn vị,
xí nghiệp.
Như vậy, pháp luật thực hiện dân chủ đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam "nó" không chỉ là công cụ thể chế hoá một số chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước mà còn đóng
góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác.
1.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở
Pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, khác với quy định thông thường, Quy định về thực hiện dân chủ là

một văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể hóa và luật hóa phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” bằng một số nghị định của Chính phủ và Pháp lệnh
của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Thứ hai, pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
- Thứ ba, pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở phát huy chế độ dân chủ đại diện,
nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương, cơ sở, quy

14
định những nghĩa vụ cụ thể của chính quyền trong việc đảm bảo quyền làm chủ của
người dân ở cơ sở, cơ quan, tổ chức, xí nghiệp.
- Thứ tư, pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở thực hiện chế độ dân chủ trực
tiếp ở cơ sở để người dân, cán bộ, công nhân viên, người lao động bàn bạc và trực
tiếp quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa
vụ của họ.
- Thứ năm, có sự tham gia của Mặt trận các cấp và các đoàn thể nhân dân ở
mọi khâu trong thực hiện quy chế ở cơ sở để thấm nhuần và phát huy mạnh mẽ vai
trò làm chủ của nhân dân trong việc thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Thứ sáu, mục đích của việc ban hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở là
nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên khơi dậy
sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội,
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây
dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn
và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng
viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ bảy, pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở thể hiện yêu cầu dân chủ phải
trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; đi đôi với trật tự kỷ cương; quyền đi
đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm Hiến

pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền tự do
dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân.
Như vậy, Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là các quy định có tính pháp lý để
đảm bảo việc thực hiện và triển khai các nội dung của dân chủ cơ sở trong đời sống
xã hội.
1.2. Nội dung của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở
1.2.1. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ở xã,
phường, thị trấn
Nội dung điều chỉnh của pháp luật ở đây là nói đến phạm vi điều chỉnh của nó
tới những đối tượng nào, theo quy định chung thì phạm vi điều chỉnh là giới hạn

15
điều chỉnh của pháp luật đối với xã hội. Pháp luật không điều chỉnh tất cả các quan
hệ trong xã hội, mà chỉ điều chỉnh một số diện nhất định, một phạm vi nhất định mà
nhà nước thấy cần thiết. Các quan hệ xã hội khác có thể do quy phạm đạo đức điều
chỉnh hoặc có thể sử dụng các phương tiện điều chỉnh khác như thông qua thông tin,
tuyên truyền, thông qua văn học, nghệ thuật.
Về mặt nội dung điều chỉnh, dân chủ rất toàn diện bao quát các lĩnh vực đời
sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng; từ các mối quan hệ giữa
con người với con người; đến quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng; giữa công dân
với nhà nước, các tổ chức và thể chế hiện hành. Tác động trực tiếp nhất đến dân chủ
là dân chủ kinh tế và dân chủ chính trị. Cốt lõi của dân chủ kinh tế là lợi ích; cốt lõi
nhất của dân chủ chính trị là quyền lực thuộc về nhân dân, được thực hiện thông
qua chế độ bầu cử dân chủ, chế độ kiểm soát quyền lực nhà nước sau khi được thiết
lập một cách dân chủ, và chế độ bãi miễn nghiêm khắc đối với những nhân viên nhà
nước thoái hóa, biến chất.
Pháp luật về thực hiện dân chủ cũng có nội dung điều chỉnh riêng. Tại Điều 1
Pháp lệnh số 34/2007/PL – UBTVQH ngày 20 tháng 4 năm 2007 về thực hiện dân
chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn có ghi:“Pháp lệnh này quy định những nội dung
phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định;

những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng,
ấp, bản, phun, sóc (sau đây gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (sau
đây gọi chung là tổ dân phố), của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và
của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ cấp xã”.
Như vậy, căn cứ vào quy định đó ta có thể thấy nội dung điều chỉnh của pháp
luật thực hiện dân chủ cơ sở cấp xã rất rộng nhưng tất cả là để nhằm đảm bảo mục
tiêu: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đảm bảo nguyên tắc “dân làm gốc”,
đảm bảo dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở tại các cơ
quan, tổ chức, xí nghiệp

16
Nếu như phát luật thực hiện dân chủ cơ sở cấp xã, phường, thị trấn được quy
định thống nhất ở văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành đó là Pháp lệnh
số 34/2007/PL – UBTVQH thì các quy định liên quan đến pháp luật thực hiện dân
chủ cơ sở tại các cơ quan, công ty, tổ chức, xí nghiệp còn được quy định một cách
rải rác. Bao gồm các văn bản quy định riêng rẽ về các loại hình: NĐ 71/1998/NĐ –
CP quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính, NĐ 07/1999/NĐ
– CP quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước và Nghị
định số 87/2007/NĐ – CP ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở Công ty cổ phần,
công ty Trách nhiệm hữu hạn.
Không giống như cấp xã, phường, thị trấn là cấp cơ sở tập trung dân cư nhiều
nhất, nhưng mô hình dân chủ trong các cơ quan, công ty, đơn vị, xí nghiệp cũng rất
quan trọng, việc đảm bảo dân chủ ở cấp đơn vị này sẽ góp phần tích cực vào quá
trình phát triển của nền hành chính, cũng như kinh tế Việt Nam, đảm bảo các quy
định về dân chủ sẽ thúc đẩy tinh thần sáng tạo và tích cực của cán bộ công chức,
nhân viên, người lao động đối với việc xây dựng và phát triển cơ quan, công ty, đơn
vị, xí nghiệp.

Cũng như pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở cấp xã, phường, thị trấn, pháp luật
thực hiện dân chủ cơ sở ở cơ quan, công ty, đơn vị, xí nghiệp cũng có phạm vi Điều
chỉnh riêng.
Theo như quy định trong Nghị định số 71/1998/NĐ - CP quy định về Quy chế
thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính, trong quy định này có giới hạn phạm vi
nghiên cứu là pháp luật dân chủ cơ sở trong các cơ quan hành chính nhà nước từ
Trung ương đến cấp huyện vì cấp xã đã được điều chỉnh bằng một văn bản pháp
luật khác.
Theo các quy định của quy chế này nhằm để đảm bảo dân chủ trong sinh hoạt
của các cơ quan, quy định trách nhiệm và những việc mà chủ trưởng cơ quan, đơn
vị phải làm, trách nhiệm của cán bộ, công chức, quy định về những việc công chức
phải được biết, được bàn, được hỏi ý kiến, cũng như việc kiểm tra, giám sát.
Tiếp đó là Nghị định số 07/1999/NĐ - CP quy định về Quy chế thực hiện dân
chủ ở doanh nghiệp nhà nước, kèm theo Nghị định này cũng là quy chế thực hiện

17
dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước là một trong những tổ
chức kinh tế sử dụng ngân sách của Nhà nước để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh
doanh góp phần vào việc phát triển nền kinh tế đất nước, vì vậy, việc đảm bảo dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước là rất quan trọng, có
đảm bảo được dân chủ thì mới nhận được lòng tin của Đảng, của nhân dân, xứng
đáng với trách nhiệm mà Đảng và nhân dân đã giao phó.
Nhiệm vụ của dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước cũng là để đảm bảo phương
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Tạo động lực mạnh mẽ để phát triển
doanh nghiệp Nhà nước bền vững, tăng mối liên hệ gắn bó giữa Giám đốc và ban
giám đốc với người lao động. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật xoay quanh doanh
nghiệp Nhà nước với những việc cần phải công khai, những việc cần người lao
động tham gia ý kiến, những việc người lao động quyết định, những việc người lao
động được quyền giám sát, kiểm tra.
Nhất là đảm bảo dân chủ trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt

Nam hiện nay là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, với các Nghị định hướng dẫn
của Chính phủ liên quan đến việc Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước như: Nghị
định số 187/2004/NĐ - CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành
công ty cổ phần (thay thế Nghị định số 64/2002/NĐ - CP ngày 19/6/2002 về việc
chuyển DNNN thành công ty cổ phần). Nội dung của nó là hệ thống quy phạm pháp
luật thể chế hóa các nội dung dân chủ, các giá trị dân chủ trong cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, pháp luật đảm bảo dân chủ trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước tác động một cách toàn diện đến hoạt động của các chủ thể tham gia vào quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quy định quyền hạn, xác lập nghĩa vụ,
bảo vệ quyền lợi của các chủ thể phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật,
đáp ứng các yêu cầu dân chủ trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Trong quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế đất nước, các loại hình
doanh nghiệp đã xuất hiện rất đa dạng và phong phú, để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
cần có một hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp
này nhất là khi tham gia tổ chức kinh tế thế giới WTO, Quốc hội đã ban hành Luật
doanh nghiệp 2005, Luật đầu tư năm 2005 và hàng loạt văn bản hướng dẫn thi hành

18
sau này. Để phù hợp với sự phát triển đó và đồng thời bảo đảm dân chủ trong các
loại hình doanh nghiệp này Chính phủ đã sớm ban hành Nghị định số 87/2007/NĐ –
CP ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn. Và kèm theo nghị định cũng là quy chế thực hiện dân chủ trong công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Phạm vi điều chỉnh của Nghị định này là dân chủ trong các công ty: Cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, quy định về trách nhiệm của ban giám đốc cũng như
vai trò của ban chấp hành công đoàn với việc đảm bảo dân chủ. Quy định về những
việc cần phải công khai, những việc người lao động được tham gia ý kiến, những
việc người lao động được quyết định, được giám sát và kiểm tra.
Như vây, pháp luật thực hiện dân chủ trong các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp là
rất quan trọng để đảm bảo các tổ chức kinh tế, các cơ quan, xí nghiệp phát triển

trong sạch, vững mạnh, chấp hành đầy đủ pháp luật Nhà nước trong điều hành và
phát triển đơn vị mình.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật thực hiện dân chủ
cơ sở
Như đã đề cập ở trên dân chủ cơ sở không phải là vấn đề mới, nó đã được xuất
hiện và phát triển rất sớm trên thế giới, do đó, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài
xu hướng chung đó. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 Miền Bắc hoàn toàn độc lập,
miền Nam tiếp tục với công cuộc chiến tranh thống nhất nước nhà. Ngày 2 tháng 9
năm 1945 Bác Hồ đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, khẳng định dân Việt Nam có quyền được tự do, có quyền được độc
lập, có quyền được làm chủ đất nước mình.
Thể hiện đúng tư tưởng của người về phương trâm „„dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra‟‟ người đã chỉ đạo và cho ban hành Hiếp pháp 1946, Hiến pháp đầu
tiên của nước ta, trong bản Hiến pháp 1946 đó cũng đã có những quy định để đảm
bảo dân chủ thời chiến, dân chủ mang tích chất quân sự, trong chiến tranh chính mô
hình này lại tỏ ra có tác dụng trên phạm vi cả nước.
Sau khi đất nước thống nhất, Đảng đã xác định một nhiệm vụ có tích chất
cương lĩnh là xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, sao cho nhân

19
dân xứng đáng là người chủ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội Tuy nhiên nền dân chủ được xây dựng trong thời gian đó còn chứa nhiều
khuyết tật, cần phải được nhận thức lại đầy đủ để áp dụng có hiệu quả vào Việt Nam.
Chúng ta quan tâm rất nhiều đến vấn đề dân chủ, và cụm từ "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" lần đầu tiên được nêu ra từ năm 1984 do nhân dân
phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng và nhân dân xã Đông Sơn,
huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Chỉ thị số 53 - CT/TW về tăng cường công tác
quần chúng của Đảng (ngày 28/11/1984) lần đầu tiên tổng kết sáng kiến này và
nâng lên thành phương châm chung để áp dụng phổ biến. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định rất rõ: "Dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao
động tự quản lý nhà nước của mình" [25, tr.112].
Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu đổi mới chúng ta cũng chưa quan tâm nhiều đến
vấn đề dân chủ cơ sở, dẫn dến dân chủ cơ sở không được coi trọng, đã có rất nhiều
nơi, nhiều lúc tình trạng vi phạm dân chủ cơ sở diễn ra phổ biến, quyền của người
dân bị vi phạm nghiêm trọng và xuất hiện một số điểm nóng như ở Thái Bình năm
1996 – 1997 có 208/285 dân tổ chức kiện tập thể, ở nhiều nơi nhiều lúc dân đấu
tranh chống tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, đòi quyền tự do dân chủ, đòi đảm bảo
công bằng thì kết quả giải quyết không thỏa đáng gây bức xúc trong dân. Nội bộ
nhân dân bị chia rẽ, mất đoàn kết tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội mất ổn định.
Trước tình hình đó, tháng 2 năm 1998, Bộ chính trị đã ra chỉ thị số 30/CT –
TW ngày 18 tháng 02 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục
tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới.
Chỉ thị nhấn mạnh: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân
một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”.
Muốn vậy, nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý,
yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy chế

20
dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh
viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính… phù hợp với đặc điểm của
từng loại cơ sở.
Thực hiện chỉ thị số 30/CT – TW, Ủy ban thường vụ Quốc hội (khóa X) đã
ban hành Nghị quyết số 45/1998/NQ – UBTVQH ngày 26 tháng 02 năm 1998 về
việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết giao
Chính phủ ban hành quy chế dân chủ với các định hướng, nội dung cụ thể.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc

hội ngày 11/5/1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ – CP về việc
ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, đây là nghị định đầu tiên quy định về thực
hiện dân chủ ở xã. Quy chế xác định rõ: “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm
phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật
chất và tinh thần to lớn của nông dân và nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí,
xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; ngăn
chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng, góp phần vào sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”.
Sau khi có Nghị định số 29/1998/NĐ – CP Chính phủ đã ban hành một số
văn bản hướng dẫn về dân chủ cơ sở:
Chỉ thị số 22/1998/ CT - TTg ngày 15/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
việc triển khai Quy chế dân chủ ở xã;
Thông tư số 03/1998/TT - TCCP về hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã, phường và thị trấn;
Kế hoạch số 145/TCCP - ĐP ngày 6/7/1998 của Ban tổ chức - Cán bộ Chính
phủ về kế hoạch triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
Chỉ thị số 24/1998/CT – TTg về việc xây dựng hương ước, quy ước của làng,
thôn, ấp, cụm dân cư ngày 19/6/1998.
Để cụ thể hóa các quy định vệ hương ước, Nhà nước đã ban hành thông tư
liên tịch số: 03/2000/TTLT – BVHTT – BTTUBTWMTTQVN – UBQGDS –

21
KHHGĐ ngày 31/3/2000 đã hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy
ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư.
Thông tư liên tịch số 04/2001/TTLT – BVHTT – BTTUBTWMTTQVN –
UBQGDS – KHHGĐ hướng dẫn bổ sung thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT –
BVHTT – BTTUBTWMTTQVN – UBQGDS – KHHGĐ, bổ sung nội dung thực
hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình vào trong hương ước.

Một số văn bản pháp luật liên quan để đảm bảo dân chủ như: Về các quy
định công khai tài chính - chống tham nhũng - thực hành tiết kiệm có các văn bản
pháp luật như Thông tư số 29/1999/TT - BTC ngày 19/3/1999 hướng dẫn thực hiện
công khai tài chính đối với các quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp của nhân
dân; Nghị định số 24/1999/NĐ - CP ngày 16/4/1999 của Chính phủ về việc ban
hành Quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện
của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của xã, thị trấn. Năm 1998, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội cũng ban hành hai pháp lệnh quan trọng có liên quan là Pháp lệnh thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí và Pháp lệnh chống tham nhũng. Các quy định về
hòa giải, giải quyết tranh chấp ở cơ sở gồm có: Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động
hòa giải ở cơ sở năm 1998; Nghị định số 160/1999/NĐ - CP ngày 18/10/1999 qui
định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở;
Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Nghị định số 67/1999/NĐ - CP ngày 7/8/1999
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo.
Các quy định về cán bộ công chức như: Quyết định số 11/1998/QĐ – TCCP
- CCVC ngày 05/12/1998 ban hành quy chế đánh giá công chức hàng năm.
Các văn bản pháp luật đó ra đời đã đáp ứng được lòng mong mỏi của xã hội
lúc bấy giờ, về cơ bản đã thể chế hóa, cụ thể hóa phương châm "dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" được nhân dân đồng tình, ủng hộ, bước đầu vào cuộc sống
và đã đạt những kết quả quan trọng, đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống
sinh hoạt chính trị, xã hội ở địa phương trong cả nước.
Thực hiện quy chế dân chủ, chính quyền cấp xã bước đầu đã được kiện toàn,
lề lối, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cơ sở, pháp luật đã góp phần mang
lại hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng nông

×