Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Luận văn chế định tài sản riêng của vợ, chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.1 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO THỊ TUYẾT

CHẾ ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


ĐÀO THỊ TUYẾT

CHẾ ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN CỪ


HÀ NỘI - NĂM 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ trong Luận văn là hoàn toàn trung thực. Những


kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS :

Bộ luật dân sự


HN&GĐ:

Hôn nhân và gia đình

TAND:

Tòa án nhân dân


TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2


3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

4

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

5

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

6


6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

6

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

8

8. Bố cục (các chương) của luận văn

8

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TÀI SẢN
RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG

9

1.1.

9

Một số khái niệm chung

1.1.1.

Khái niệm tài sản và quyền sở hữu tài sản

9

1.1.3.


Khái niệm thời kỳ hôn nhân

1.1.4.

Khái niệm tài sản riêng và xác định tài sản riêng của vợ, chồng 15

14

1.2. Ý nghĩa của quy định tài sản riêng của vợ, chồng và chế định tài sản riêng
của vợ, chồng

17

1.3. Chế định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật Việt Nam

20

1.3.1. Chế định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến
20
1.3.2. Chế định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật thời Pháp thuộc 21
1.3.3. Chế định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật ở miền Nam nước
ta trước ngày thống nhất đất nước (1954-1975)

23


1.3.4. Chế định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia
đình của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay


26

1.4. Chế định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật một số nước trên thế
giới

30

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

35

CHƯƠNG 2 . QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
CHẾ ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG

36

2.1. Các căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng

36

2.1.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân

36

2.1.2. Căn cứ vào nguồn gốc tài sản

39

2.3.2. Xác định quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng của
chồng, vợ mình


62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

67

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014 VỀ CHẾ ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG

69

3.1. Thực tiễn thi hành chế định tài sản riêng của vợ, chồng

69

3.1.1. Nhận xét chung

69

3.1.2. Thực tiễn xét xử của Tòa án về chế định tài sản riêng của vợ, chồng 72
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về chế
định tài sản riêng của vợ, chồng

78


3.2.1. Nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án trong các tranh chấp liên quan
đến tài sản của vợ chồng


78

3.2.2. Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chế định tài sản riêng của
vợ, chồng

80

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

83

KẾT LUẬN

84


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con
người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ)
là mối quan hệ xã hội quan trọng nhất trong cuộc sống. Trải qua gần 30 năm
của công cuộc đổi mới, đất nước ta đang ngày càng bước những bước đi vững
chắc trên con đường phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Dưới tác động của sự phát triển kinh
tế - xã hội, các quan hệ pháp luật cũng có sự biến đổi sâu sắc theo cả hai
hướng: tích cực và tiêu cực trong số đó phải nhắc tới sự thích ứng của quan hệ
HN&GĐ. Có thể khẳng định rằng, trong xã hội Việt Nam hiện nay, việc vợ

chồng tham gia rộng rãi vào các giao dịch dân sự, kinh tế,… đã là hiện tượng
mang tính tất yếu, khách quan; không chỉ thể hiện sự bình đẳng của vợ, chồng
trong quan hệ HN&GĐ mà còn góp phần không nhỏ cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của vợ, chồng và của cả gia đình. Bên cạnh đó, việc pháp luật
hiện hành ghi nhận và bảo hộ quyền có tài sản riêng của vợ, chồng trong thời
kỳ hôn nhân còn góp phần tạo ra hành lang pháp lý để vợ, chồng chủ động
tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích
cực này thì quan hệ HN&GĐ cũng bộc lộ những hạn chế, đặc biệt là các tranh
chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng (tài sản chung, tài sản riêng, nghĩa vụ
chung, nghĩa vụ riêng) ngày càng nhiều, phức tạp và gay gắt.
Trong bối cảnh đó, Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành và có hiệu
lực từ ngày 01/01/2015. Sau gần 2 năm đi vào thực thi trong đời sống, Luật
HN&GĐ năm 2014 đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và điều


9

chỉnh các quan hệ HN&GĐ nói chung, các quan hệ pháp luật liên quan đến tài
sản của vợ chồng nói riêng.
Trong những năm qua ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề tài sản của vợ chồng, tuy nhiên chưa có một công trình
nghiên cứu độc lập về tài sản riêng của vợ, chồng; đặc biệt là về vấn đề xác
định tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định của pháp luật HN&GĐ hiện
hành. Bên cạnh đó, trong thực tiễn xét xử của Tòa án, vì nhiều lí do khác nhau
mà việc áp dụng các quy định về tài sản riêng của vợ, chồng còn gặp nhiều
vướng mắc; đặc biệt là trong việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng. Từ
những vấn đề nêu trên cho thấy việc đi sâu nghiên cứu về vấn đề xác định tài
sản riêng của vợ, chồng là hết sức cần thiết. Đây cũng là lí do tác giả lựa chọn
và nghiên cứu đề tài “Chế định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ thời phong kiến, pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng đã được
quy định trong một số luật , như Quốc triều Hình Luật,. Hoàng Việt Luật lệ..
Sau này, khi Luật HN&GĐ, luật dân sự ra đời thì chế định tài sản của vợ
chồng được quy định xuyên suốt trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những
quy định đó cũng có những sự thay đổi cho phù hợp với từng thời kì lịch sử,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Xuất phát từ tầm quan trọng của gia đình trong xã hội, các vấn đề liên
quan đến HN&GĐ luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề của HN&GĐ, đặc biệt là về chế định
tài sản của vợ chồng trên nhiều bình diện khác nhau.


10

Chế định tài sản của vợ chồng đã được triển khai nghiên cứu một cách
sâu rộng, thậm chí đã được đưa vào giáo trình giảng dạy chuyên ngành Luật
HN&GĐ trong các trường đào tạo luật học ở Việt Nam như Giáo trình Luật
HN&GĐ Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002, Giáo trình
Luật HN&GĐ Việt Nam của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm
2001,… Bên cạnh đó có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết trên các báo,
tạp chí liên quan đến tài sản của vợ chồng như:
- Đặng Thị Hồng Hoa, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khóa luận tốt
nghiệp "Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng trong chế định tài sản vợ chồng theo
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành", Hà Nội, 2011.
- Vũ Văn Hiền, “Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam”, NXB. Bộ
Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1960
- Nguyễn Hồng Hải, “Vài nét về chế độ tài sản của vợ chồng trong
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 6 năm 1997
- Nguyễn Văn Cừ, “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Hôn

nhân và gia đình Việt Nam”, NXB Tư Pháp, 2008
- Nguyễn Văn Cừ, “Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật HN&GĐ
năm 2000”, Tạp chí Luật học số 6/2002
- Nguyễn Văn Cừ, “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học năm 2005


11

- Nguyễn Văn Cừ “Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh” đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2008) do TS Nguyễn
Văn Cừ làm chủ nhiệm
- Nguyễn Hồng Hải, “Nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí Luật học, Số 4 năm 2000.
- Nguyễn Hồng Hải, Trường Đại học Luật Hà Nội, Luận văn thạc sĩ,
“Xác định tài sản của vợ chồng, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội,
2002
Song, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thừa nhận
trong Luật HN&GĐ năm 2014 có nhiều thay đổi. Do đó, luận văn là công
trình nghiên cứu một cách toàn diện chế độ tài sản riêng của vợ, chồng theo
Luật HN&GĐ năm 2014.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu chế định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật
HN&GĐ năm 2014. Cụ thể là nghiên cứu các vấn đề sau: Khái niệm tài sản,
sở hữu tài sản, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ
của vợ, chồng đối với tài sản riêng; quyền và nghĩa vụ riêng của vợ chồng...
- Phạm vi nghiên cứu:
Chế định tài sản riêng của vợ, chồng đã được thừa nhận ở nhiều nước
trên thế giới. Trong lịch sử, ở Việt Nam cũng đã từng ghi nhận sự tồn tại của



12

chế độ tài sản này. Tuy nhiên, bên cạnh một số vấn đề lý luận về chế định tài
sản riêng của vợ, chồng, Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu chế định tài sản
riêng của vợ, chồng trong phạm vi các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam
hiện hành.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy
định của pháp luật hiện hành về vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng,
tìm hiểu việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp liên quan đến xác
định tài sản riêng của vợ, chồng trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Qua đó,
tìm hiểu những quy định bất cập, chưa phù hợp, chưa cụ thể và kiến nghị về
hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác định tài sản riêng của vợ,
chồng. Với mục tiêu này, luận văn được triển khai với các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến việc xác định tài sản
riêng của vợ, chồng; qua đó khẳng định tính tất yếu và cần thiết của việc quy
định vấn đề này trong pháp luật thực định;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề xác định
tài sản riêng của vợ, chồng; qua đó phân tích những điểm bất cập, chưa hợp
lý, chưa khoa học của các quy định đó làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện
chế định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật hiện hành;
- Tìm hiểu việc áp dụng pháp luật về vấn đề xác định tài sản riêng của
vợ, chồng thông qua thực tiễn xét xử của Tòa án có liên quan trực tiếp đến
vấn đề này;


13


- Trên cơ sở phân tích lý luận, đánh giá thực tiễn, luận văn nêu lên một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định có liên quan đến vấn đề xác định
tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Tác giả viết luận văn dựa trên một số câu hỏi nghiên cứu sau:
- Khái niệm tài sản là gì? Quyền sở hữu tài sản là gì?
- Quy định pháp luật hiện hành về chế định tài sản riêng của vợ, chồng
như thế nào?
- Các quy định hiện hành về chế định tài sản riêng của vợ, chồng có
vướng mắc, bất cập gì?
- Các TAND áp dụng pháp luật về chế định tài sản riêng của vợ, chồng
ra sao?
- Ý thức của người dân, của vợ, chồng như thế nào đối với các quy định
của pháp luật hiện hành về chế định tài sản riêng của vợ, chồng?
- Cần có các giải pháp hoàn thiện như thế nào để thực thi pháp luật về
chế định tài sản riêng của vợ, chồng đạt hiệu quả cao?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở các nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của


14

chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội. Theo đó, pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng,
được hình thành trên cơ sở thực tiễn đời sống xã hội. Cả trong lý luận và thực
tiễn đều chứng minh rằng: hệ thống pháp luật nói chung, các quy định cụ thể
của pháp luật nói riêng phải phù hợp với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
thì mới có tính khả thi, qua đó góp phần cho xã hội ổn định và phát triển.
Ngoài ra, trong quá trình triển khai đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một

số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu quy định về xác
định tài sản riêng của vợ, chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các quy
định của pháp luật có liên quan đến vấn đề xác định tài sản riêng của vợ,
chồng và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu
trong luận văn;
- Phương pháp so sánh được sử dụng khi tìm hiểu đánh giá các quy
định của pháp luật hiện hành so với pháp luật các thời kỳ trước ở Việt Nam
cũng như so với pháp luật của một số nước khác cùng quy định về vấn đề xác
định tài sản riêng. Qua đó, thấy được sự tiến bộ, phù hợp của pháp luật với
các điều kiện văn hóa xã hội ở Việt Nam;
- Phương pháp thống kê được áp dụng trong quá trình khảo sát thực
tiễn hoạt động xét xử của Tòa án thông qua các số liệu cụ thể. Qua đó, đánh
giá sự phù hợp giữa các quy định pháp luật với thực tiễn qua đó rút ra kinh
nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.


15

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học:
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về chế định tài sản riêng
của vợ, chồng, là tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu khoa học có
liên quan, tài liệu tham khảo cho việc xây dựng giáo trình, giáo án của giảng
viên.
Ý nghĩa thực tiễn:
Với các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về chế định tài sản riêng của
vợ, chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014, công trình nghiên cứu cũng đưa ra
các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao việc thực hiện, thực thi pháp luật về

chế định tài sản riêng của vợ, chồng. Qua một số giải pháp hoàn thiện đó, có
thể đề xuất hướng hoàn thiện đối với TAND các cấp, giúp cho việc thực thi
pháp luật được tốt hơn.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế định tài sản riêng của vợ, chồng
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định tài sản
riêng của vợ, chồng.
Chương 3: Thực tiễn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về chế
định tài sản riêng của vợ, chồng


16

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH
TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
1.1.

Một số khái niệm chung

1.1.1. Khái niệm chế định pháp luật và chế định tài sản của vợ
chồng
1.1.1.1.

Khái niệm chế định pháp luật

Theo từ điển luật học “Chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội gần gũi, có cùng tính chất trong
phạm vi mỗi ngành luật vốn bao gồm nhiều chế định”.

Như vậy, một nhóm quan hệ xã hội xảy ra có tính chất, phạm vi gần gũi
với nhau trong phạm vi một ngành luật nào đó sẽ được điều chỉnh bởi các quy
phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật đó chính là chế định pháp luật.
Ví dụ: Ngành luật dân sự có các chế định như chế định quyền sở hữu,
chế định hợp đồng, chế định thừa kế…. Ngành Luật HH&GĐ có các chế định
về tài sản của vợ chồng (đối với tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng),
chế định về kết hôn, chế định về ly hôn….
1.1.1.2. Khái niệm chế định tài sản và tài sản riêng của vợ, chồng


17

Dựa vào khái niệm chế định pháp luật, có thể hiểu: Chế định tài sản của
vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản
của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và
nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định.
Chế định tài sản của vợ chồng thực chất là chế định sở hữu của vợ
chồng. Vợ, chồng vừa là chủ thể của quan hệ hôn nhân và gia đình, vừa là chủ
thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình tham gia các
giao dịch dân sự. Chế định tài sản của vợ chồng có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế định tài sản này,
thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của
nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài
việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ
phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội, nhà nước bằng pháp luật quy định chế định tài
sản của vợ chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo

đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng.
Những quy định của pháp luật về chế định tài sản của vợ chồng là cơ sở tạo
điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
đối với tài sản của vợ chồng.
Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế định tài sản của vợ chồng phụ
thuộc vào sự phát sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân hay nói cách khác,
chế định tài sản của vợ chồng thường chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.


18

Như vậy, chế định tài sản của vợ chồng được pháp luật ghi nhận nhằm
điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng, tạo điều kiện để vợ, chồng có
những cách “xử sự” theo yêu cầu của pháp luật và phù hợp với đạo đức xã
hội.
Chế định tài sản riêng của vợ, chồng là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh về căn cứ, nguồn gốc; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối
với tài sản riêng.
1.1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân
Theo Khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Thời kỳ
hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày
đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.”
Như vậy, thời kỳ hôn nhân được giới hạn từ thời điểm đăng ký kết hôn
hoặc hôn nhân được công nhận là có hiệu lực đến thời điểm chấm dứt hôn
nhân do một bên vợ hoặc chồng chết, vợ hoặc chồng bị tuyên bố chết, do ly
hôn bằng bản án hoặc quyết định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Trong suốt thời kỳ này, do sự tồn tại của quan hệ hôn nhân nên đời
sống chung của vợ chồng được thiết lập, tính chất cộng đồng của hôn nhân
cũng được thể hiện rõ nét, đồng thời vợ chồng có các quyền và nghĩa vụ với
nhau theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014: Vợ chồng có nghĩa vụ

thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng
nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, vợ chồng có nghĩa vụ
chung sống với nhau…
Ngoài ra, thời kỳ hôn nhân còn là cơ sở pháp lý quan trọng được các
nhà làm luật ghi nhận và sử dụiải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ
chồng là chỉ xác định quyền sở hữu đối với những tài sản hiện còn, những tài
sản đã chi dùng thì không tính nữa ngay cả đối với tài sản riêng được chi
dùng vào nhu cầu chung của gia đình. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp giải
quyết tranh chấp liên quan đến tài sản riêng, một bên đương sự đã yêu cầu
Tòa phải tính toán cả những chi phí trong quá khứ và yêu cầu phía bên kia
phải đền bù. Thực trạng này đã gây nhiều khó khăn, dẫn đến sự lúng túng của
nhiều Tòa án trong công tác giải quyết tranh chấp.
Ví dụ: Tranh chấp khi ly hôn giữa chị Trương Thị Bạch Tuyết và anh
Ngô Thanh Long về tài sản là căn nhà số 16 Phan Đình Phùng, phường Mĩ
Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Theo anh Long, căn nhà 16 Phan Đình Phùng là tài sản chung của vợ
chồng, có nguồn gốc của cha mẹ vợ khi xuất cảnh, vừa bán, vừa cho chung vợ
chồng (có nhận 205 triệu của vợ chồng anh). Tuy nhiên theo chị Tuyết thì căn
nhà này là của cha mẹ chị cho chị năm 1991, giấy tờ sở hữu nhà đứng tên chị,


78

không có tên anh Long nên không phải là tài sản chung của vợ chồng. Tại bản
án sơ thẩm của TAND tỉnh An Giang đã quyết định chị Tuyết được sở hữu
căn nhà số 16, Phan Đình Phùng, phường Mỹ Long.
Sau khi nhận được đơn kháng nghị của anh Ngô Thanh Long, Viện
trưởng VKSNDTC xem xét, đề nghị Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối
cao xem xét giám đốc thẩm theo hướng: Hủy phần quyết định phân chia tài
sản của bản án phúc thẩm của Tòa án phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ

Chí Minh; giao hồ sơ cho TAND tỉnh An Giang xét xử lý theo trình tự sơ
thẩm.
Trước hết, cần thấy rằng căn nhà số 16 Phan Đình Phùng, theo chị
Tuyết là do cha mẹ chị cho riêng chị vào năm 1991, giấy tờ sở hữu đứng tên
chị, không có tên anh Long nên không phải là tài sản chung của vợ chồng.
Tuy nhiên điều này là không có căn cứ pháp luật, nếu chị Tuyết muốn khẳng
định căn nhà thuộc sở hữu riêng thì phải có nghĩa vụ chứng minh đó là tài sản
do bố mẹ chị tặng cho riêng chị, chẳng hạn có giấy tờ xác nhận việc tặng cho
riêng... Khi xảy ra tranh chấp, anh Long không có nghĩa vụ chứng minh căn
nhà là tài sản chung. Nếu chị Tuyết không chứng minh được đó là tài sản
riêng thì đương nhiên căn nhà đó là tài sản chung của vợ chồng.
3.1.2.3. Một số tranh chấp khác giữa vợ, chồng
Trong thời gian qua, số lượng các tranh chấp có liên quan đến tài sản
của vợ chồng ngày càng tăng và phức tạp. Nhiều vụ việc không chỉ liên quan
tới bản thân vợ chồng mà còn liên quan đến quyền lợi của nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác. Điển hình có nhiều vụ việc, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan lên đến hàng chục người mà hầu hết là chủ nợ của vợ, chồng. Trong


79

những trường hợp này bắt buộc Tòa án phải xác định xem đó là nghĩa vụ
chung của hai vợ chồng hay là nghĩa vụ riêng của một bên vợ, chồng.
Mặc dù trong các văn bản pháp luật đã có quy định về các trường hợp
là nghĩa vụ riêng của một bên vợ, chồng nhưng trong quá trình xét xử, việc
xác định nghĩa vụ thuộc về ai còn gặp rất nhiều khó khăn do cả nguyên nhân
chủ quan và khách quan. Phân tích thực tiễn cho thấy, trong nhiều giao dịch
dân sự và kinh tế, do ảnh hưởng của tập quán, thói quen mà việc vay nợ của
các bên thường không được lập thành văn bản hoặc có trường hợp được lập
thành văn bản nhưng lại không thỏa thuận cụ thể khoản nợ đó thuộc nợ chung

hay nợ riêng của một bên và cũng không có chữ ký của cả vợ và chồng vào
văn bản. Do đó, khi tranh chấp xảy ra, việc thu thập, đánh giá chứng cứ để
làm căn cứ xác định nghĩa vụ trả nợ rất phức tạp và khó khăn.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: các giao dịch liên quan là bất động
sản; Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;Tài
sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận
của cả hai vợ chồng (Khoản 2 Điều 35 Luật HN&GĐ năm 2014), và vợ
chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch dân sự hợp pháp
xác lập nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình (Điều 27, Điều 30
Luật HN&GĐ năm 2014). Do đó, để chứng minh nghĩa vụ tài sản riêng của
một bên, Tòa án phải yêu cầu các bên đương sự phải đưa ra được chứng cứ
chứng minh mục đích của các giao dịch đó là không nhằm phục vụ cho các
nhu cầu thiết yếu chung của gia đình mà phục vụ cho nhu cầu riêng hoặc đó là
các nghĩa vụ riêng về bản chất mà một bên vợ, chồng bắt buộc phải thực hiện.
Ngoài ra, nhà ở và quyền sử dụng đất là loại tài sản thường xuyên bị
tranh chấp giữa vợ và chồng và cũng là loại việc phức tạp nhất. Trên thực tế,
nhà ở và quyền sử dụng đất là loại tài sản có giá trị lớn nhưng lại có thể có


80

nhiều nguồn gốc khác nhau như được nhà nước giao, được tặng cho, được
thừa kế, do nhận chuyển nhượng,…; quyền sử dụng đất có thể đã được cấp
Giấy chứng nhận hoặc chưa được cấp Giấy chứng nhận. Việc quản lý loại tài
sản này thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về
đất đai do đó khi có tranh chấp xảy ra, bên cạnh thẩm quyền giải quyết của
Tòa án thì trong một số trường hợp thẩm quyền lại thuộc về cơ quan hành
chính nhà nước.
Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “…Quyền sử dụng đất mà
vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường

hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được
thông qua giao dịch bằng tài sản riêng...”. Khoản 1 Điều 34 Luật HN&GĐ
năm 2014 quy định: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì
giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên
cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”. Nếu tài sản
chung của vợ chông không ghi tên cả hai vợ chồng thì theo khoản 2 Điều 12
NĐ 126/2014/NĐ-CP: Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký
và ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi
tên của cả vợ và chồng. Tuy nhiên trên thực tế rất nhiều trường hợp quyền sử
dụng đất có được trong thời kỳ hôn nhân vẫn chỉ ghi tên của một người và
cũng không có bất kỳ thỏa thuận nào của vợ chồng về việc xác lập quyền sở
hữu riêng đối với tài sản là quyền sử dụng đất đó. Vợ, chồng cũng không yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu. Đến khi
có tranh chấp xảy ra, thì vấn đề trở nên phức tạp, có thể bên vợ hoặc chồng sẽ
phải chịu thiệt hại.


81

Như vậy, không chỉ vợ chồng không tự ý thức được quyền lợi của
mình mà ngay cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý đất
đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng không tuân thủ đúng các
quy định của pháp luật. Khi có tranh chấp đối với loại tài sản này, Tòa án lại
yêu cầu các bên phải chứng minh nguồn gốc của tài sản để xác định là tài sản
chung hay tài sản riêng. Như vậy, vô hình chung quy định của pháp luật về
việc ghi tên cả vợ và chồng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
tinh thần của Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 không được các bên ý thức và
nghiêm túc triển khai trên thực tế.

Cũng là tranh chấp liên quan đến nhà ở và quyền sử dụng đất thường
xuyên xảy ra là khi vợ chồng sinh sống trên nhà đất của cha mẹ vợ hoặc cha
mẹ chồng. Qua một thời gian sinh sống, cha mẹ tuyên bố cho con nhà đất đó
nhưng lại chưa làm thủ tục sang tên sau đó thì phát sinh tranh chấp liên quan
đến tài sản đó, có thể là tranh chấp giữa vợ chồng khi yêu cầu chia tài sản
hoặc tranh chấp giữa cha mẹ với con. Trong quá trình giải quyết một số Tòa
án xác định nhà đất là tài sản của con và tiến hành chia tài sản dẫn đến vi
phạm nghiêm trọng các quy định có liên quan trong BLDS và các văn bản
pháp quy khác: Theo quy định tại Điều 463 BLDS năm 2005 thì: Việc tặng
cho bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng
nhà nước hoặc có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền và
phải tiến hành đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký quyền
sở hữu, quyền sử dụng.
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định
về chế định tài sản riêng của vợ, chồng
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như phân tích, đánh giá
thực trạng công tác xét xử của ngành Tòa án trên đây, chúng tôi xin đưa ra


82

Một số giải pháp về tổ chức thực hiện và áp dụng các quy định của pháp luật
HN&GĐ về xác định tài sản riêng của vợ, chồng như sau:
3.2.1. Nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án trong các tranh chấp
liên quan đến tài sản của vợ chồng
Hoạt động xét xử của Tòa án các cấp về các tranh chấp HN&GĐ ngày
càng tăng về số lượng và có sự tiến bộ vượt bậc trong chất lượng xét xử. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy công tác xét xử vẫn còn gặp nhiều khó khăn vướng
mắc do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để nâng cao hơn nữa năng lực xét xử
của ngành Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp nói chung, các tranh

chấp liên quan đến HN&GĐ nói riêng và đặc biệt là các tranh chấp liên quan
đến tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng đòi hỏi ngành Tòa án phải tiến
hành đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất: Xây dựng và tăng cường đội ngũ thẩm phán chuyên trách
giải quyết các tranh chấp về HN&GĐ. Quan hệ HN&GĐ là loại quan hệ có
tính đặc thù, xuất phát từ quan hệ gia đình trên cơ sở hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng. Ngay cả trong những tranh chấp về tài sản thì yếu tố tình cảm,
tâm lý, đạo đức cũng được thể hiện rất rõ nét, các đương sự không chỉ bị ràng
buộc bởi quan hệ pháp luật đang có tranh chấp mà còn bị ràng buộc bởi quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình. Do đó, việc các thẩm phán áp dụng kỹ
năng xét xử vụ việc dân sự vào xét xử các vụ việc HN&GĐ dễ dẫn đến chất
lượng xét xử không cao.
Chính vì vậy, việc xây dựng một đội ngũ thẩm phán chuyên trách về
chuyên môn và nghiệp vụ xét xử các vụ việc HN&GĐ là hết sức cần thiết,
đảm bảo tính chuyên sâu trong công tác xét xử và là tiền đề để ra những bản
án, quyết định khách quan, công tâm, hợp tình, hợp lý.


83

Thứ hai: Bên cạnh việc chú trọng đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán chuyên
trách, ngành Tòa án hiện nay cần không ngừng bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ, thẩm
phán của ngành để họ ngày càng vững vàng trong công tác. Đồng thời tăng
cường kiểm tra công tác xét xử của Tòa án các cấp, tổng kết rút kinh nghiệm
để công tác xét xử nói chung và xét xử dân sự, HN&GĐ nói riêng ngày càng
đạt kết quả tốt hơn.
Thứ ba: Trong hoạt động xét xử, Tòa án các cấp thường gặp khó khăn
là các quy định về vấn đề đang tranh chấp hoặc thiếu, không thống nhất hoặc
không cụ thể. Để khắc phục tình trạng này, Tòa án cần chủ động trong việc

nghiên cứu vận dụng phong tục tập quán tốt đẹp trong công tác xét xử. Hằng
năm, TANDTC cần có các báo cáo để tổng kết, rút kinh nghiệm, hướng dẫn
công tác xét xử cho Tòa án các cấp, định kỳ ban hành các tập hợp án điển
hình, hướng tới xây dựng tập án lệ về HN&GĐ để Tòa án các cấp học tập, rút
kinh nghiệm trong hoạt động xét xử.
Thứ tư: Trong quá trình xét xử các vụ án liên quan đến tranh chấp tài
sản giữa vợ, chồng hoặc chia tài sản chung, Tòa án thường gặp phải khó khăn
trong việc xác định chủ sở hữu hoặc định giá tài sản tranh chấp. Thực trạng
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có một nguyên nhân
là do sự phối hợp không hiệu quả giữa Tòa án và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan. Do đó, để tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác xét xử
của ngành Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ cũng như xác định trách nhiệm
của các cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc phối hợp với Tòa án
trong giải quyết các tranh chấp. Ngoài ra, đối với công tác định giá tài sản
tranh chấp cần có một cơ quan định giá tài sản chuyên nghiệp, là cơ quan
tham mưu cho Tòa án cũng như đáp ứng nhu cầu của xã hội về định giá tài
sản.


84

3.2.2. Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chế định tài sản
riêng của vợ, chồng
Mặc dù pháp luật hiện hành đã ghi nhận và xây dựng các điều luật về
tài sản riêng của vợ, chồng nhưng việc áp dụng các quy định này trên thực tế
còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc mà một trong những nguyên nhân
chính là sự hiểu biết của người dân về vấn đề này còn rất hạn chế. Để nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về xác định tài sản riêng của
vợ, chồng cần chú ý những vấn đề sau:
Thứ nhất: Tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi nhất để vợ, chồng bình đẳng

về quyền sở hữu tài sản trong gia đình. Bình đẳng giữa vợ và chồng là một
nguyên tắc Hiến định và là nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ kể cả trong
vấn đề về sở hữu tài sản. Tuy nhiên vẫn tồn tại sự bất bình đẳng trong quyền
sở hữu tài sản và trong đời sống vợ chồng ở một số vùng sâu, vùng xa. Ở đó,
người phụ nữ phụ thuộc vào người chồng về kinh tế lẫn tư tưởng, không đạt
được sự bình đẳng với người chồng ngay cả trong việc sử dụng, định đoạt tài
sản chung và hoàn toàn không có điều kiện để có thể xác lập quyền sở hữu
riêng đối với bất cứ tài sản có giá trị nào. Để giải quyết thực tế này đòi hỏi
toàn xã hội phải thực hiện tổng hợp các giải pháp kinh tế, xã hội, pháp lý
nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa vợ và chồng về nghề nghiệp, thu nhập,
quyền sở hữu,… qua đó khẳng định vai trò của người vợ trong việc tham gia
các hoạt động lao động sản xuất của gia đình.
Thứ hai: Thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân để
hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng các điều kiện
về nội dung, hình thức của các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng,
đặc biệt là các văn bản liên quan đến thỏa thuận xác lập quyền sở hữu riêng
về tài sản hoặc nghĩa vụ riêng về tài sản của một bên vợ, chồng. Thực tế cho


×