Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luận văn pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính – nghiên cứu trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.72 KB, 85 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN MINH ĐỨC

PHÁP LUẬT VỀ HỢP NHẤT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
CÔNG TY TÀI CHÍNH – NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN MINH ĐỨC

PHÁP LUẬT VỀ HỢP NHẤT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
CÔNG TY TÀI CHÍNH – NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP NGÂN


HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM THỊ GIANG THU


3

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt
khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Phó giáo sư, tiến sỹ Phạm Thị Giang Thu đã hết lòng giúp đỡ, tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực
hiện nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm

luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 04 tháng 8 năm 2016
Tác giả

Đoàn Minh Đức


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là Phó giáo sư, tiến sỹ Phạm Thị Giang Thu. Các
nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu
phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ
các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề
tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả,
cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu
phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.

Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn

Học viên

Đoàn Minh Đức


5

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP NHẤT NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ HƠP NHẤT
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
6
1.1. Những vấn đề cơ bản về hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính
6
1.1.1. Khái niệm
6
1.1.2. Đặc điểm của trường hợp hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính 10
1.1.3. Các trường hợp hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính
12
1.2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp nhất ngân hàng thương
mại và công ty tài chính
15
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính:
15
1.2.2. Nguyên tắc pháp lý hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính:
16
1.2.3. Những yêu cầu cơ bản đối với pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp nhất ngân hàng
thương mại và công ty tài chính
20
1.2.4. Những bộ phận pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp nhất ngân hàng thương mại và
công ty tài chính
21
1.3. Cơ sở thực hiện việc đánh giá pháp luật
27

1.3.1. Các nguyên tắc pháp lý
27
1.3.2. Cơ sở thực tiễn
29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HỢP NHẤT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ CÔNG TY TÀI CHÍNH THÔNG QUA VỤ VIỆC HỢP NHẤT NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI CHÚNG VIỆT NAM
32
2.1. Nhu cầu tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam từ góc độ quản lý nền
kinh tế và nhu cầu của chính ngân hàng thương cổ phần Phương Tây và Tổng Công ty Tài
chính Cổ phần dầu khí Việt Nam
32
2.1.1. Nhu cầu tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam từ góc độ quản lý nền
kinh tế ……………………………………………………………………………………32
2.1.2. Về nhu cầu tái cơ cấu của ngân hàng thương cổ phần Phương Tây và Tổng công ty
tài chính Cổ phần dầu khí Việt Nam
33
2.2. Hệ thống các quy định pháp luật hiện hành
37
2.3. Những điểm tích cực và hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp nhất ngân
hàng thương mại cổ phần và công ty tài chính thông qua vụ việc hợp nhất ngân hàng
thương mại cổ phần Phương Tây và Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt
Nam……
41
2.3.1. Về các điều kiện hợp nhất
41
2.3.2. Về việc tuân thủ các quy định của pháp luật về hồ sơ và trình tự, thủ tục chấp
thuận hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính.

46
2.2.3. Về việc kế thừa quyền và nghĩa vụ ngân hàng thượng mại và công ty tài chính bị hợp
nhất …………………………………………………………………………………….49


6

2.3.3. Về việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của cổ đông và các bên có liên quan.
2.3.4. Về hợp đồng hợp nhất
2.3.5. Về việc giải quyết các tranh chấp phát sinh và xử lý vi phạm
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

50
57
59
63

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
NHẤT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
64
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty
tài chính.
64
3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương mại và
công ty tài chính.
64
3.1.2. Những nguyên tắc trong việc hoàn thiện pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương
mại và công ty tài chính.
65
3.2. Kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp nhất ngân hàng

thương mại và công ty tài chính.
67
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về nguyên tắc và điều kiện hợp nhất ngân
hàng thương mại và công ty tài chính.
67
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hồ sơ và trình tự, thủ tục chấp thuận
hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính.
69
3.2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc kế thừa quyền và nghĩa vụ ngân
hàng thương mại và công ty tài chính bị hợp nhất.
70
3.2.4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông các
ngân hàng thương mại và công ty tài chính bị hợp nhất và các bên có liên quan.
71
3.2.5. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng hợp nhất ngân hàng thương
mại và công ty tài chính.
72
3.2.6. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh và xử lý vi phạm
72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
75
KẾT LUẬN

76


7

LỜI NÓI ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài.
Từ năm 2008, thế giới đã phải hứng chịu hai cuộc khủng hoảng nặng

nề. Từ hệ quả của cuộc khủng hoảng; nhiều định chế tài chính, ngân hàng
đứng vững nhiều thập kỷ, thậm chí hơn thế kỷ như: UniCredit, AIG.
Merrill Lynch, Citi Group, JP Morgan Chase... đã bị lung lay và tất yếu
theo quy luật của thị trường, hàng loạt các vụ sáp nhập, hợp nhất các công
ty tài chính, ngân hàng xảy ra ở Mỹ đã có hơn 40 ngân hàng bị phá sản và
hàng chục ngân hàng tự nguyện sáp nhập, Hợp nhất. Các quốc gia Châu Âu
cũng chứng kiến hoàng loạt vụ sáp nhập, HN. Năm 2011, thế giới lại hứng
chịu một “cơn địa chấn” thứ hai đó là khủng hoảng nợ công. Khủng hoảng
nợ công bắt nguồn từ Hy Lạp đã lan ra cả Châu Âu, Châu Á, Mỹ. Kinh tế
các nước lâm vào tình trạng tồi tệ. Hai cuộc khủng hoảng này đã làm cho
kinh tế thế giới đi vào giai đoạn suy thoái.
Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy. Không những nước ta
phải đối mặt với những biến đổi thất thường của kinh tế thế giới mà còn
phải đối mặt với những vấn đề khó khăn nội tại như: lạm phát tăng cao,
thâm hụt cán cân thương mại cũng tăng cao kỷ lục, thị trường chứng khoán
sụt giảm liên tục thất nghiệp tăng mạnh... Những vấn đề này đã làm cho
nền kinh tế của nước ta tăng trưởng chậm lại. Hệ thống Ngân hàng Việt
Nam cũng chịu tác động nặng nề. Các ngân hàng phải đối mặt với khó
khăn trong kinh doanh ngày càng nhiều. Không những thế ngân hàng phải
tăng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng vào cuối năm 2008 và 3000 tỷ đồng vào
cuối năm 2010 theo quy định của nghị định 141/2006/NĐ-CP. Đã có nhiều
vụ sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng xảy ra trên thực tế. Tính từ năm 1997


8


đến năm 2004 đã có hàng chục vụ hợp nhất ngân hàng.Từ năm 2005 đến
năm 2011, chủ yếu là các ngân hàng, tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ
phần của các ngân hàng trong nước. Từ 2011 trở lại đây, chính thức chỉ có
ba ngân hàng là Việt Nam Tín Nghĩa, Sài Gòn và Đệ Nhất tự nguyện HN
và đã đi vào hoạt động từ 01/01/2012. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần nhanh
chóng tái cấu trúc lại hệ thống ngàn hàng để đảm bảo hoạt động của hệ
thống ngân hàng lành mạnh, hiệu quả, ngày càng phù hợp với các chuẩn
mực và thông lệ quốc tế, có khả năng cạnh tranh và ứng phó tốt trong quá
trình hội nhập với nhiều biến động phức tạp, khó lường; có đủ năng lực và
đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng có chất lượng, phục vụ tốt quá
trình chuyển đổi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đảm bảo
người dân được tiếp cận ngày càng sâu rộng với mọi loại hình dịch vụ của
ngân hàng. Tạo ra một hệ thống ngân hàng đa dạng quy mô; lành mạnh
trong tổ chức, hoạt động và kinh doanh.
Để giải quyết được những vấn đề nêu ra cần có rất nhiều yếu tố.
Trong đó việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Ngân hàng
thương mại (NHTM) và (Công ty tài chính) CTTC là một yếu tố then chốt.
Vì vậy tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương
mại và công ty tài chính – nghiên cứu trường hợp Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Đại chúng Việt Nam” để nghiên cứu nhằm góp phần xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về HN NHTM và CTTC ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài.
Các chuyên gia pháp luật và kinh tế đã có những công trình nghiên

cứu, các bài viết sâu sắc, có giá trị khoa học cao về các vấn đề liên quan đến
hoạt động hợp ngân hàng. Điển hình như: Luận văn thạc sĩ năm 2010 của



9

Thạc sĩ Vũ Phương Đông nghiên cứu vấn đề “Pháp luật về mua bán công ty
ở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp”. Luận văn thạc sỹ luật học năm 2006
của Thạc sỹ Trần Thị Bảo Ánh về vấn đề “Một số vấn đề pháp lý về tập
trung kinh tế theo Luật cạnh tranh Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ luật học
năm 2012 của Thạc sỹ Nguyễn Minh Tuyết về vấn đề: “Pháp luật về sáp
nhập, hợp nhất ngân hàng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Bài viết
“M&A ngân hàng thực trạng và xu hướng trong những năm tới” của Ths
Bùi Thanh Lam trên tạp chí ngân hàng số 4, tháng 02/2009, Bài viết: “Hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại trong
lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam” của TS. Trịnh Quốc Trung đăng trên tạp
chí Ngân hàng số 14, tháng 07/2009. Những đề tài trên chủ yếu nghiên cứu
các vấn đề pháp lý về mua bán doanh nghiệp, tập trung kinh tế xét trên khía
cạnh của Luật Cạnh tranh hay nghiên cứu sáp nhập, hợp nhất ngân hàng
dưới góc độ kinh tế hoặc là nghiên cứu một vài khía cạnh pháp lý về sáp
nhập, hợp nhất ngân hàng. Tuy nhiên tất cả các đề tài nên chưa thực sự đi
sâu nghiên cứu các vấn đề pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp nhất
NHTM và CTTC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.

Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

và thực tiễn của pháp luật hợp nhất NHTM và CTTC, phân tích những
thành công và bất cập của pháp luật hiện hành từ đó đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp nhất NHTM và CTTC ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.

4.

Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện được những mục đích hên nhiệm vụ của Luận văn là:


10

-

Tìm hiểu và làm rõ khái niệm đặc điểm, vai trò và các vấn đề lý luận
của pháp luật hợp nhất NHTM và CTTC.

-

Nghiên cứu các nội dung của pháp luật về hợp nhất NHTM và
CTTC.

-

Phân tích đánh giá các thành công của pháp luật về hợp nhất NHTM
và CTTC.

-

Từ những nghiên cứu, phân tích đánh giá trên đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp nhất NHTM và CTTC.

5.


Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan đến

hợp nhất NHTM và CTTC đặc biệt là các NHTM và CTTC được thành lập
và hoạt động tại Việt Nam. Các vấn đề pháp lý về hợp nhất các Tổ chức tín
dụng (TCTD) khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận văn này.
Đề tài luận văn đề cập đến trường hợp cụ thể là ngân hàng Thương
mại Cổ phần Đại chúng Việt Nam, với hồ sơ thực tế cho thấy đây là trường
hợp hợp nhất giữa NHTM cổ phần và công ty tài chính cổ phần trên cơ sở
tự nguyện. Vì vậy những nội dung phân loai các trường hợp sáp nhật, hợp
nhất trong chương một Luận văn mang tính khái quát chung cho các trường
hợp để đảm bảo cho tính đầy đủ của các nội dung mang tính lý thuyết. Các
nội dung cụ thể về nguyên tắc, nội dung, căn cứ nghiên cứu để giải quyết
đề tài được giới hạn trường hợp hợp nhất ngân hàng trên cơ sở tự nguyện.
6.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận, các nguyên tắc

và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây


11

dựng và phát triển kinh tế.
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình viết Luận văn là:
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp.
7.


Kết cấu của luận văn.
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm

vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài. Ngoài lời cảm ơn, danh mục từ viết tắt,
mục lục, lời nói đầu, tiểu kết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp nhất ngân hàng thương mại và
công ty tài chính và pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương mại với công
ty tài chính
Chương 2: Thực trạng pháp luật hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty
tài chính thông qua vụ việc hợp nhất Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại
Chúng Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp nhất ngân
hàng cổ phần thương mại và công ty tài chính.


12

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP NHẤT NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ PHÁP
LUẬT VỀ HƠP NHẤT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG
TY TÀI CHÍNH
1.1. Những vấn đề cơ bản về hợp nhất ngân hàng thương mại và
công ty tài chính
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm về hợp nhất được đề cập đến trong một số văn bản pháp
luật. Khái niệm về hợp nhất pháp nhân quy định trong Bộ Luật Dân sự năm
2005; khái niệm hợp nhất doanh nghiệp quy định trong Luật Doanh nghiệp
năm 2005 và Luật Cạnh tranh năm 2004; khái niệm hợp nhất các TCTD

được quy đinh trong Thông tư 36/2015/TT-NHNN.
Theo điều 94 Bộ luật Dân sự năm 2005, “Các pháp nhân cùng loại có
thể hợp nhất thành một pháp nhân mới theo quy định của điều lệ, theo thoả
thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Sau khi hợp nhất, các pháp nhân cũ chấm dứt; các quyền,
nghĩa vụ dân sự của các pháp nhân cũ được chuyển giao cho pháp nhân
mới.” Pháp nhân ở đây được hiểu là một tổ chức có đầy đủ các điều kiện
như: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc
lập với các cá nhân tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một các độc lập (điều 84 Bộ
luật dân sự 2005). Trong Bộ luật dân sự không đề cập đến “pháp nhân cùng
loại”. Có thể hiểu pháp nhân cùng loại là pháp nhân có cơ cấu tổ chức
tương tự nhau; cùng hoạt động, kinh doanh trong một lĩnh vực. Hợp nhất
pháp nhân có thể xảy ra trong ba trường hợp: theo quy định của điều lệ,
theo thỏa thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà


13

nước có thẩm quyền. Việc hợp nhất giữa các pháp nhân dẫn đến hậu quả là
chấm dứt sự tồn tại của các pháp nhân cũ và các quyền, nghĩa vụ dân sự
của các pháp nhân cũ được chuyển giao cho pháp nhân mới. Tuy nhiên, Bộ
luật dân sự 2015 đã bỏ điều kiện pháp nhân hợp nhất cần phải cùng loại, cụ
thể, điều 88 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Các pháp nhân có thể hợp nhất
thành một pháp nhân mới. Quy định trong Bộ luật dân sự 2005 rõ ràng
không còn phù hợp với thực tế, hạn chế và cản trở các tổ chức nói chung và
các doanh nghiệp nói riêng tổ chức lại doanh nghiệp theo cách thức hợp
nhất, làm giảm cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp.
Khoản 1, điều 194, Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng có quy định
“Hai hoặc một số công ty (sau đây gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp

nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là công ty hợp nhất), đồng thời
chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.” Một công ty mới hình thành
sau hợp nhất, các công ty cũ chấm dứt sự tồn tại của mình. Tất cả tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của công ty bị hợp nhất được chuyển
giao cho công ty hợp nhất.
Luật cạnh tranh năm 2004 nêu ra khái niệm về hợp nhất tại khoản 2
điều 17 “Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
chuyển toàn bộ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp
bị hợp nhất”. Vấn đề hợp nhất doanh nghiệp trong Luật cạnh tranh được
quy định giống với Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, hợp nhất doanh nghiệp
trong Luật Cạnh tranh được coi là một hoạt động tập trung kinh tế còn Luật
Doanh nghiệp coi trường hợp hợp nhất công ty là một trong các trường hợp
tổ chức lại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình cho doanh nghiệp mới. Và khi


14

doanh nghiệp mới hình thành thì các doanh nghiệp cũ chấm dứt sự tồn tại.
Hai cách hiểu tuy khác nhau nhưng không mâu thuẫn với nhau. Điều này
xuất phát từ phạm vi điều chỉnh của mỗi luật là khác nhau. Nếu Luật doanh
nghiệp quan tâm đến khía cạnh thành lập tổ chức, quản lý, tổ chức lại…của
các doanh nghiệp thì Luật cạnh tranh lại quan tâm đến khía cạnh các hành
vi của doanh nghiệp có là hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh
không lạnh mạnh hay không. Chính sự khác nhau về cách hiểu kể trên cũng
dẫn tới các quy định của hai luật về cùng một vấn đề hợp nhất doanh
nghiệp cũng khác nhau. Luật doanh nghiệp quy định về thủ tục hợp nhất,
trình tự hợp nhất, hợp đồng hợp nhất, thủ tục đăng ký doanh nghiệp trong
trường hợp hợp nhất. Trong khi đó Luật cạnh tranh lại xếp trường hợp nhất

là tập trung kinh tế nên đưa ra các quy định xoay quanh vấn đề này như:
trường hợp tập trung kinh tế bị cấm, trường hợp miễn trừ đối với tập trung
kinh tế bị cấm, thông báo về việc tập trung kinh tế, hồ sơ thông báo, thụ lý
hồ sơ….
Trong khi đó, thông tư 36/2015/TT-NHNN quy định: “Hợp nhất tổ
chức tín dụng là việc hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ
chức tín dụng bị hợp nhất) chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp pháp để hình thành một tổ chức tín dụng mới (sau đây gọi là tổ
chức tín dụng hợp nhất), đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín
dụng bị hợp nhất”. Thông tư 36/2015/TT-NHNN cụ thể hóa của các định
nghĩa hợp nhất trong Luật Doanh nghiệp và Luật Cạnh tranh. Các TCTD
hợp nhất với nhau để có một TCTD mới được hình thành. TCTD mới này
kế thừa toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các TCTD
ban đầu. Còn các TCTD bị hợp nhất thì chấm dứt sự tồn tại của mình.
Khái niệm hợp nhất NHTM và CTTC chưa được quy định cụ thể


15

một văn bản pháp luật nào. Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện
hành có thể định nghĩa hợp nhất ngân hàng và công ty tài chính như sau:
Hợp nhất ngân hàng và công ty tài chính là hình thức hai hoặc một số ngân
hàng thương mại và công ty tài chính (sau đây gọi là ngân hàng thương mại
bị hợp nhất, công ty tài chính bị hợp nhất) hợp nhất thành một ngân hàng
thương mại mới (sau đây gọi là ngân hàng thương mại hợp nhất) bằng cách
chuyển toàn bộ tài sản, quyền nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang ngân hàng
hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các ngân hàng bị hợp nhất,
công ty tài chính bị hợp nhất.
Việc hợp nhất NHTM và công ty tài chính sẽ đi đến hình thành một
ngân hàng mới. Khi hai tổ chức tín dụng khác loại hình theo quy định của

Luật tổ chức tín dụng hợp nhất với nhau, một trong những vấn đề nảy sinh
là pháp nhân mới hình thành sẽ mang loại hình của pháp nhân nào. Trong
trường hợp cụ thể: hợp nhất NHTM và CTTC thì rõ ràng việc pháp luật
quy định pháp nhân mới hình thành sẽ là một ngân hàng phù hợp hơn vì
pháp nhân mới sẽ kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của các pháp nhân cũ,
trong đó có NHTM. Điểm lưu ý, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng trong khi CTTC là một tổ
chức tín dụng phi ngân hàng chỉ được thực hiện một hoặc một số các hoạt
động ngân hàng. Nếu quy định pháp nhân hợp nhất là CTTC thì rõ ràng
phạm vi hoạt động bị thu hẹp và pháp nhân mới không có cơ sở để kế thừa
toàn bộ quyền và nghĩa vụ của các pháp nhân tham gia hợp nhất.
Ngân hàng mới là sự kết hợp của các NHTM và công ty tài chính bị
hợp nhất. Các ngân hàng và công ty tài chính này sẽ chấm dứt sự tồn tại.
Vì ngân hàng là loại doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động hợp nhất NHTM
và công ty tài chính bên cạnh sự điều chỉnh của các văn bản luật quy định


16

chung về sáp nhật & hợp nhất còn chịu sự điều chỉnh của Luật Các tổ chức
tín dụng, Luật ngân hàng nhà nước, thông tư 36/2015/TT-NHNN, Bộ luật
Dân sự, Luật Doanh nghiệp và Luật Cạnh tranh.
1.1.2. Đặc điểm của trường hợp hợp nhất ngân hàng thương mại và
công ty tài chính
Thứ nhất, chủ thể của hợp nhất là ngân hàng và công ty tài chính.
Toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của ngân hàng bị hợp
nhất và công ty tài chính bị hợp nhất được chuyển cho ngân hàng hợp nhất;
ngân hàng bị hợp nhất và công ty tài chính bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại.
Thứ hai, Hợp nhất ngân hàng và công ty tài chính có thể thực hiện
trên cơ sở tự nguyện hoặc bắt buộc. Tự nguyện hợp nhất là việc các ngân

hàng và công ty tài chính tự nguyện hợp nhất để phù hợp với mục tiêu phát
triển và nguyện vọng của chủ sở hữu. Bắt buộc hợp nhất là việc các ngân
hàng và công ty tài chính không đảm bảo được mức vốn pháp định theo
quy định hiện hành hoặc hoạt động yếu kém hoặc bị đặt vào tình trạng
kiểm soát đặc biệt không thực hiện được theo hình thức tự nguyện hợp nhất
và có nguy cơ làm ảnh hưởng đến an toàn hệ thống phải hợp nhất theo chỉ
định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) sau khi được Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận. Có thể nói hợp nhất là quyền và cũng là nghĩa vụ
của các ngân hàng và công ty tài chính. Các ngân hàng và công ty tài chính
có thể tự nguyên hợp nhất với nhau thông qua thỏa thuận, đàm phán. Trong
trường hợp này hợp nhất được hiểu là quyền của các ngân hàng và công ty
tài chính. Nhưng trong trường hợp nhất ngân hàng yếu kém, mất khả năng
thanh toán nghiêm trọng, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân
hàng thì NHNN có thể ra quyết định buộc ngân hàng phải hợp nhất (khoản


17

12 điều 4, Luật ngân hàng nhà nước 2010). Xét trong trường hợp này thì
hợp nhất là nghĩa vụ của ngân hàng và công ty tài chính.
Thứ ba, việc hợp nhất ngân hàng và công ty tài chính phải tuân thủ
theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ hơn so với hợp nhất doanh nghiệp. Vì
việc hợp nhất ngân hàng và công ty tài chính không chỉ ảnh hưởng đến các
chủ thể hợp nhất mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, các nhà đầu tư, nhà nước, hệ thống ngân hàng và toàn bộ
nền kinh tế nên phải quy định những tình tự, thủ tục nghiêm ngặt thể hiện ở
những điểm được cơ quan có thẩm quyền quyết định của ngân hàng tham
gia hợp nhất thông qua. Đề án hợp nhất phải được cơ quan có thẩm quyền
quyết định của các tổ chức tín dụng tham gia hợp nhất thông qua và được
người đại diện hợp pháp của các tổ chức tín dụng tham gia hợp nhất cùng

ký tên, đóng dấu và chịu trách nhiệm (khoản 1 điều 163 thông tư
36/2015/TT-NHNN). Đề án phải tuân theo những nội dung nghiêm ngặt
(điều khoản 2 điều 13 thông tư 36/2015/TT-NHNN). Việc xin chấp thuận
các nguyên tắc hợp nhất phải thông qua rất nhiều cơ quan như: NHNN Chi
nhánh tỉnh thành phố, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nơi ngân hàng, công ty tài chính tham gia hợp nhất đặt trụ sở chính.
Việc chấp thuận cho các ngân hàng và công ty tài chính hợp nhất cũng
được NHNN xem xét kỹ càng (điều 15 thông tư 36/2015/TT-NHNN).
Thứ tư, hợp nhất là một trong những biện pháp để giúp các ngân
hàng và CTTC thoát khỏi nguy cơ phá sản. Nếu như phá sản, giải thể
doanh nghiệp được coi như là những phương thức giải quyết số phận của
những doanh nghiệp gặp khó khăn và kinh doanh kém hiệu quả thì hợp
nhất ngân hàng sẽ góp phần cơ cấu lại các ngân hàng kinh doanh kém hiệu
quả song không làm giảm đi giá trị đầu tư của thị trường cũng không làm


18

tổn hại tới lợi ích của người gửi tiền nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
Thứ năm, hợp nhất NHTM và CTTC là một trường hợp đặc biệt của
hợp nhất TCTD. Điểm khác biệt lớn nhất giữa trường hợp hợp nhất NHTM
và CTTC so với việc hợp nhất các TCTD khác đó là chủ thể tham gia. Chủ
thể tham gia việc hợp nhất là hai loại hình TCTD khác nhau theo phân loại
của Luật các tổ chức tín dụng. Một bên là ngân hàng một bên là tổ chức tín
dụng phi ngân hàng. Vì có sự khác biệt giữa các chủ thể tham gia có những
chức năng thực hiện những nghiệp vụ ngân hàng khác nhau nên việc quy
định về tổ chức hình thành sau hợp nhất phải cân nhắc đến việc lựa chọn
một loại hình tổ chức phù hợp để đảm bảo thực hiện được tất cả các chức
năng của của tổ chức tham gia hợp nhất.

1.1.3. Các trường hợp hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài
chính
Phân loại dựa trên mục đích hợp nhất:
Hợp nhất mở rộng thị trường
Loại hợp nhất này diễn ra đối với NHTM và CTTC kinh doanh cùng
loại sản phẩm nhưng ở những thị trường khác nhau: có thể lấy ví dụ, một
NHTM ở miền Bắc với một CTTC ở miền Nam cùng kinh doanh cùng loại
sản sản phẩm ví dụ như kinh doanh sản phẩm bảo lãnh, tiền gửi với khách
hàng doanh nghiêp; tiền gửi, thu hộ với khách hàng định chế tài chính.
Việc hợp nhất NHTM và CTTC này sẽ đem lại lợi ích mở rộng thị trường
cả miền Nam và miền Bắc, mở rộng được địa bàn khách hàng, tận dụng hệ
thống phân phối.
Hợp nhất mở rộng sản phẩm:


19

Hợp nhất mở rộng sản phẩm đối với NHTM và CTTC kinh doanh
những sản phẩm khác nhau nhưng có liên quan tới nhau trong cùng một thị
trường. Ví dụ: NHTM và CTTC cùng ở khu vực miền Bắc nhưng NHTM
kinh doanh hoạt động tiết kiệm, cho vay, thẻ ghi nợ nội địa đối với khách
hàng cá nhân và kinh doanh hoạt động tiền gửi, thanh toán quốc tế đối với
khách hàng doanh nghiệp. Trong khi công ty tài chính kia lại kinh doanh
tiền gửi, bảo lãnh dự thầu, cho vay ưu đãi với khách hàng doanh nghiệp.
Việc hợp nhất sẽ đem đến việc mở rộng sản phẩm, thu hút thêm được
khách hàng, tận dụng hệ thống phân phối.
Hợp nhất kết hợp:
Đây là loại hợp nhất giữa NHTM và CTTC kinh doanh cùng cạnh
tranh trực tiếp, chia sẻ cùng dòng sản phẩm, cùng thị trường với nhau. Ví
dụ NHTM và CTTC cùng ở khu vực miền Bắc và cùng bảo lãnh, cho vay

với khách hàng doanh nghiệp hợp nhất với nhau. Kết quả từ việc hợp nhất
theo hình thức này sẽ mang lại cho các bên tham gia hợp nhất cơ hội mở
rộng thị trường, tăng hiệu quả trong việc kết hợp thương hiệu, giảm chi phí
cố định, tăng cường hiệu quả hệ thống phân phối.
Phân loại dựa trên ý chí của tổ chức hợp nhất:
Hợp nhất bắt buộc
Hợp nhất bắt buộc là trường hợp NHTM hoặc CTTC bị bắt buộc
phải hợp nhất với các TCTD khác bằng quyết định của cơ quan có thẩm
quyền. Hợp nhất bắt buộc có thể xảy ra trong trường hợp NHTM hoặc
CTTC bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt do nguy cơ mất khả năng
chi trả, mất khả năng thanh toán hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật dẫn
đến nguy cơ mất an toàn hoạt động. Chủ sở hữu của các tổ chức này được


20

NHNN yêu cầu xây dựng, trình NHNN phê duyệt, thực hiện kế hoạch hợp
nhất với các TCTD khác trong trường hợp các TCTD này được kiểm soát
đặc biệt và không có khả năng hoặc không thực hiện được việc tăng vốn
điều lệ để đảm bảo giá trị giá trị thực của vốn điều lệ không thấp hơn mức
vốn pháp định1.
Hợp nhất tự nguyện:
Hợp nhất tự nguyện là trường hợp NHTM và CTTC hợp nhất trên cơ
sở thỏa thuận tự nguyện. Hợp nhất tự nguyện xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, đối với các ngân hàng lớn thì lý do quan trọng là cắt giảm chi phí
hoạt động, gia tăng quy mô kinh doanh, tăng vốn huy động, tăng vốn điều
lệ và tăng giới hạn cho vay từng khách hàng riêng lẻ nhờ việc hợp nhất.
Ngoài ra có thể do đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ kinh doanh, tăng uy
tín của ngân hàng hoặc tiết kiệm chi phí thành lập chi nhánh. Đối với các
ngân hàng nhỏ thì hợp nhất với các TCTD khác vì thiếu vốn điều lệ theo

luật hoặc tránh phá sản hoặc để tối đa hóa lợi ích của các cổ đông. Ngoài ra
các NHTM và CTTC có quy mô nhỏ cũng có thể tiến hành hợp nhất để
hình thành một NHTM lớn hơn.
1.2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp
nhất ngân hàng thương mại và công ty tài chính
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty
tài chính:
Hiện nay chưa có khái niệm pháp luật hợp nhất NHTM và công ty tài
chính. Tuy nhiên, có thể đưa ra định nghĩa pháp luật hợp nhất ngân hàng
thương mại và công ty tài chính như sau: “Pháp luật hợp nhất NHTM và
1 Điểm g, khoản 1 điều 5 Thông tư 07/2013/TT-NHNN


21

công ty tài chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước tổ chức quản lý hoạt động hợp
nhất NHTM và công ty tài chính. Từ các quan hệ đàm phán, ký kết hợp
đồng, thực hiện thủ tục hợp nhất NHTM và công ty tài chính đến các quan
hệ chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong hoạt động hợp nhất giữa các
NHTM và công ty tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam”.
Cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, đối tượng điều chỉnh của pháp
luật hợp nhất NHTM và công ty tài chính là các quan hệ xã hội. Tuy nhiên
các quan hệ xã hội trong pháp luật hợp nhất NHTM và công ty tài chính là
các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động hợp nhất NHTM và công ty
tài chính.
Căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội do pháp luật hợp nhất
NHTM và công ty tài chính điều chỉnh và các phương pháp điều chỉnh, đối
tượng điều chỉnh của pháp luật hợp nhất NHTM và công ty tài chính gồm
hai nhóm chính: quan hệ quản lý nhà nước về hoạt động hợp nhất ngân

hàng thương mại và công ty tài chính và quan hệ giữa các ngân hàng với
nhau trong hoạt động hợp nhất ngân hàng.
Quan hệ quản lý nhà nước về hoạt động hợp nhất NHTM và công ty
tài chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước thực hiện
hoạt động quản lý đối với các hoạt động hợp nhất trong nền kinh tế, Chủ
thể quản lý trong quan hệ pháp luật này là Nhà nước còn các chủ thể bị
quản lý là các ngân hàng và công ty tài chính và các cá nhân tổ chức có
liên quan đến hoạt động hợp nhất ngân hàng như: khách hàng, chủ nợ,
người lao động... Có thể lấy một và ví dụ về các quan hệ pháp luật phát
sinh trong hoạt động quản lý của nhà nước đối với các hoạt động hợp nhất


22

ngân hàng như: quan hệ trong việc từ chối hay chấp thuận cho hợp nhất;
quan hệ thanh tra, giám sát giữa ngân hàng nhà nước với các ngân
hàng...trong các quan hệ quản lý thì phương pháp điều chỉnh là mệnh lệnh
phục tùng.
Quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trong hoạt động hợp nhất ngân
hàng thương mại và công ty tài chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động hợp nhất của các NHTM và công ty
tài chính. Ví dụ như: quan hệ giữa các ngân hàng trong việc đàm phán, ký
kết hợp đồng hay quan hệ phát sinh giữa các NHTM thiết lập trên cơ sở
thỏa thuận, bình đẳng. Phương pháp điều chỉnh vì vậy là phương pháp bình
đẳng, thỏa thuận.
1.2.2. Nguyên tắc pháp lý hợp nhất ngân hàng thương mại và công ty tài
chính:
Nguyên tắc pháp lý là các nguyên tắc do pháp luật định ra và các
ngân hàng và công ty tài chính phải tuyệt đối tuân thủ trong quá trình tham
gia hoạt động hợp nhất. Những nguyên tắc được phân tích cụ thể dưới đây

chỉ áp dụng cho trường hợp hợp nhất NHTM và công ty tài chính tự
nguyện – trường hợp của ngân hàng cổ phẩn thương mại đại chúng:
Nguyên tắc thỏa thuận:
Ngân hàng và công ty tài chính tham gia thỏa thuận giải quyết các
quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên có liên quan phù hợp với các quy định
của pháp luật hiện hành. Về nguyên tắc bên chủ thể có quyền bình đẳng,
không bên nào có quyền ép buộc bên nào. Từ khâu đàm phán, tham gia xây
dựng đề án, hợp đồng, điều lệ hợp nhất các ngân hàng đều phải thỏa thuận,
bàn bạc để cùng đi đến thống nhất ý kiến sao cho quyền và lợi ích hợp


23

pháp của các bên liên quan đều được đảm bảo, không trái với các quy định
của pháp luật đã đề ra.
Nguyên tắc bảo vệ khách hàng:
Ngân hàng và công ty tài chính tham gia hợp nhất phải đảm bảo
không ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, đặc biệt quyền lợi của
người gửi tiền tại từng ngân hàng tham gia hợp nhất. Vì vậy trong quá trình
đàm phán cũng như khi đi đến những thỏa thuận trong hợp đồng hợp nhất
ngân hàng không bên nào được đề xuất những điều khoản có lợi cho mình
nhưng đi ngược lại lợi ích của khách hàng. Hơn nữa, quyền lợi của người
gửi tiền tại từng ngân hàng tham gia hợp nhất càng phải chú trọng hơn.
Phải đảm bảo quyền và lợi ích tối đa cho các đối tượng này. Không được
có hành động như giấu giếm, thông tin sai sự thật, hoặc cản trở khách hàng
rút tiền...đây là một trong những nguyên tắc quan trọng mà các ngân hàng
khi tham gia vào hoạt động hợp nhất buộc phải tuân thủ.
Nguyên tắc bảo mật thông tin:
Các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và
các tổ chức, cá nhân có liên quan của các ngân hàng công ty tài chính tham

gia hợp nhất phải có trách nhiệm bảo mật thông tin để các ngân hàng này
được hoạt động ổn định trước khi Đề án hợp nhất được cơ quan có thẩm
quyền quyết định của ngân hàng, công ty tài chính thông qua. Nguyên tắc
này đòi hỏi khi quá trình hợp nhất còn đang trong giai đoạn “phôi thai” thì
các tổ chức, cá nhân liên quan không được để lộ thông tin mà phải bảo mật
thông tin thật nghiêm ngặt. Vi phạm nguyên tắc này có thể dẫn đến sự
hoang mang của khách hàng ví dụ: người gửi tiền lo lắng hợp nhất sẽ
không đảm bảo quyền lợi của mình nên đến các ngân hàng rút tiền hàng


24

loạt. Điều này gây bất ổn định cho hoạt động của các ngân hàng, có thể ảnh
hưởng xấu đến khả năng thanh toán của cả hệ thống ngân hàng. Khi đề án
hợp nhất được cơ quan có thẩm quyền quyết định của ngân hàng thông qua
thì lúc này các ngân hàng mới có quyền công bố thông tin còn bất cứ hành
vi nào làm rò rỉ thông tin đều là bất hợp pháp.
Nguyên tắc cung cấp thông tin:
Trong quá trình tiến hành các thủ tục liên quan đến việc hợp nhất
ngân hàng Hội đồng quản trị ngân hàng có trách nhiệm cung cấp kịp thời,
đầy đủ, thống nhất, trung thực, chính xác và không phân biệt cho các chủ
sở hữu của tất cả các bên tham gia hợp nhất và các tổ chức khác có thẩm
quyền thông tin về quá trình hợp nhất trong đó có tình hình tài chính, tổ
chức và hoạt động của ngân hàng.
Việc cung cấp thông tin cho các chủ sở hữu là bắt buộc để họ có thể
nắm được tiến trình các ngân hàng hợp nhất và có những góp ý, kiến nghị
trong phạm vi quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Không những thế cung
cấp thông tin để các chủ sở hữu hiểu đúng các vấn đề hợp nhất, không có
những hiểu lầm gây ảnh hưởng đến quá trình hợp nhất diễn ra.
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông

của các ngân hàng, công ty tài chính có đầy đủ những thông tin cần thiết để
họ có thể ra quyết định có thể tiếp tục trở thành cổ đông của ngân hàng sau
hợp nhất hay chấm dứt tư cách cổ đông và chuyển nhượng lại cổ phần của
mình trên thị trường chứng khoán.
Thêm nữa phải cung cấp thông tin cho các tổ chức khác có thẩm
quyền như Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN; Cục
Quản lý cạnh tranh... Các ngân hàng phải cung cấp thông tin cho các cơ


25

quan để các cơ quan này có thể thực nắm được tình hình đang diễn ra đối
với các ngân hàng, công ty tài chính hợp nhất và có thể có những can thiệp
kịp thời khi cần thiết. Các thông tin được cung cấp về tình hình tài chính,
tổ chức và hoạt động của ngân hàng, công ty tài chính phải được cung cấp
kịp thời, đầy đủ, thống nhất, trung thực, chính xác.
Các hồ sơ, tài liệu và quảng cáo của các ngân hàng, công ty tài chính
tham gia hợp nhất phải đảm bảo nguyên tắc thận trọng, chính xác, không
gây hiểu nhầm. Điều này đòi hỏi trong quá trình tham gia hợp nhất thì các
tài liệu như: sổ sách kế toán, chứng từ, văn bản và những mục về quảng
cáo phải đảm bảo không được sai sót, không được cẩu thả, tùy tiện. Những
thông tin không chính xác có thể gây ra những hiểu nhầm đáng tiếc và có
thể dẫn đến hậu quả rất khó khắc phục.
Nguyên tắc ra quyết định hợp nhất:
Cơ quan có thẩm quyền quyết định của các ngân hàng, công ty tài
chính tham gia hợp nhất thông qua quyết định về việc hợp nhất theo điều
kiện, thể thức họp và biểu quyết theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải tuân theo những trình tự, thủ tục luật định để
tiến hành lấy ý kiến biểu quyết của các cổ đông. Nếu đạt được tỷ lệ biểu
quyết pháp luật quy định thì vấn đề hợp nhất mới được thông qua.

Đối với những vấn đề liên quan đến tổ chức hợp nhất, điều kiện, thể
thức họp và biểu quyết thông qua các quyết định do các ngân hàng, công ty
tài chính bị hơp nhất thảo thuận, nếu cụ thể tại Đề án hợp nhất và phù hợp
với quy định của pháp luật hiện hành. Những quy định cụ thể đòi hỏi phải
tuân thủ trình tự, thủ tục đã được đề cập trong Đề án hợp nhất. Những quy


×