Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Những điểm mới trong chế định quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong bộ luật dân sự 2015 phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.49 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI LÊ THU

NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG CHẾ ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU
VÀ CÁC QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN TRONG BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2015 PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT,
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI LÊ THU


NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG CHẾ ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU
VÀ CÁC QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN TRONG BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2015 PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT,
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Dương Đăng Huệ

HÀ NỘI - NĂM 2016

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn PGS.TS Dương
Đăng Huệ - người thầy đã chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình trong
suốt thời gian thực hiện và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Sau Đại
học, Khoa Pháp luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi thực hiện Luận
văn.
Tôi xin chân thành xin cảm ơn các thành viên trong gia đình đã động
viên, ủng hộ chia sẻ và là chỗ dựa tinh thần giúp tôi tập trung nghiên cứu và
hoàn thành bài luận văn của mình.
Học viên

Bùi Lê Thu



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của…. Các số liệu, kết luận được
trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc được trích dẫn rõ ràng.
Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính chính xác thực và nguyên bản của
luận văn.
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

Học viên


PGS.TS Dương Đăng Huệ

Bùi Lê Thu

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ Luật Dân Sự

SHTD

Sở hữu toàn dân

SHNN

Sở hữu nhà nước

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ QUYỀN

KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
7
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản

7

1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu

7

1.1.2. Hình thức sở hữu

12

1.1.3. Nội dung quyền sở hữu

17

1.1.4. Chế định chiếm hữu

21

1.2. Một số vấn đề lý luận về quyền khác đối với tài sản

23

1.2.1. Khái niệm quyền khác đối với tài sản

23


1.2.2. Nội dung quyền khác đối với tài sản

26

1.2.3. Sự khác nhau giữa quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản 31
1.3. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản của một số nước trên
thế giới33
1.3.1. CHLB Nga

33

1.3.2. Trung Quốc

35

1.3.3. Campuchia

37

1.4. Vai trò của quyền sở hữu tài sản và quyền khác đối với tài sản đối
với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp 39
1.4.1. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản tạo lập cơ sở kinh tế
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
39
1.4.2. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản tạo điều kiện để mọi
tài sản trong xã hội được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
40
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


42

CHƯƠNG 2 NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG CHẾ ĐỊNH QUYỀN SỞ
HỮU VÀ CÁC QUYẾN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT
DÂN SỰ 2015 PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
43


2.1. Một số hạn chế của BLDS 2005 về quyền sở hữu và quyền khác
đối với tài sản và tác động tiêu cực của chúng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp 43
2.2. Một số điểm mới của BLDS 2015 về quyền sở hữu và quyền khác
đối với tài sản phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp……………………………………………………………………..46
2.2.1. BLDS 2015 đã ghi nhận đầy đủ các đặc tính của quyền sở hữu 46
2.2.2. BLDS 2015 đã nêu rõ thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản
47
2.2.3. BLDS 2015 đã bổ sung quy định quyền chiếm hữu như là một tình
trạng thực tế về nắm giữ, chi phối tài sản, độc lập với quyền sở hữu và
quyền khác đối với tài sản
51
2.2.4. BLDS 2015 đã xác định lại các hình thức sở hữu ở nước ta , phù
hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
54
2.2.5. BLDS 2015 đã củng cố và bảo vệ vững chắc hơn nguyên tắc bình
đẳng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh
55
2.2.6. BLDS 2015 ghi nhận sự không hạn chế về số lượng và giá trị của

tài sản thuộc quyền sở hữu của các cá nhân, tổ chức
57
2.2.7. BLDS 2015 lần đầu tiên đã ghi nhận đầy đủ và minh thị các
nguyên tắc và đặc tính của vật quyền
57
2.2.8. BLDS 2015 quy định cơ chế mới về bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản
59
2.2.9. BLDS 2015 ghi nhận thêm một số quyền đối với tài sản (vật quyền
hạn chế)
62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

67

CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ
CÁC QUY ĐỊNH MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ QUYỀN SỞ
HỮU VÀ QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN 69
3.1. Nghiên cứu để áp dụng lý thuyết “vật quyền” trong BLDS
2015…………………………. 69
3.2. Nghiên cứu để thể chế hóa hình thức sở hữu của các cấp chính
quyền địa phương
73
3.3. Nghiên cứu để tiến tới thay thế khái niệm “sở hữu toàn dân”
thành khái niệm “sở hữu nhà nước”
74


3.4. Xây dựng cơ chế đăng ký tài sản để công khai hóa các loại tài sản
cần quản lý trong xã hội 77

3.5. Xây dựng các bình luận khoa học về BLDS 2015 trong đó nhấn
mạnh phần II 81
3.6. Tổ chức tập huấn, tuyên truyền BLDS 2015 82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN 87

86


9

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản luôn là vấn đề nhận
được sự quan tâm của nhiều chủ thể trong xã hội bởi nó gắn liền với thực thi
quyền sở hữu của các tổ chức, cá nhân trong đời sống xã hội cũng như trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các quy định về quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản là cơ sở thúc đẩy quá trình tạo ra của cải, vật chất cho xã
hội và bảo vệ của cải, vật chất đó cũng như người tạo ra chúng trước mọi
hành vi gây hại. Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản là vấn đề
diễn ra hàng ngày, thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, tác động trực tiếp
đến quyền và lợi ích của các bên trong đời sống, đặc biệt là tới hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) trên cơ sở kế thừa truyền thống
của pháp luật dân sự Việt Nam, về cơ bản, đã có những đóng góp quan trọng
trong công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là lĩnh vực pháp luật tư
qua đó đã có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam đang dần hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế cũng như đứng
trước yêu cầu bảo vệ quyền con người ngày càng được đề cao, BLDS 2005 đã
bộc lộ nhiều hạn chế do chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như chưa thực sự bảo đảm tốt
được quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản của con người đặc biệt là
của doanh nghiệp. Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội khóa XIII tại Kỳ
họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật dân sự sửa đổi (BLDS 2015) nhằm khắc
phục những bất cập nêu trên của BLDS 2005 đồng thời đưa pháp luật dân sự
Việt Nam tiếp cận gần hơn với pháp luật dân sự nhiều nước trên thế giới.
Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) với nhiều sửa đổi, bổ sung được
đánh giá là Bộ luật có nhiều điểm tiến bộ không chỉ về tư duy pháp lý, về cấu
trúc mà còn cả về nội dung. Trong số những điểm tiến bộ đó, những thay đổi
trong Phần thứ hai “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” được coi là
những điểm mới quan trọng làm thay đổi căn bản diện mạo của BLDS 2015,
với tư cách là đạo luật có khả năng bảo đảm vững chắc và đầy đủ nhất cho
mỗi chủ thể sở hữu tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Nghiên cứu về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản không chỉ
có ýnghĩa về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn sâu sắc. Thông qua đề
tài:“Những điểm mới trong chế định quyền sở hữu và các quyền khác đối
với tài sản trong Bộ Luật Dân sự 2015 phục vụ hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp”, tác giả luận văn mong muốn việc nghiên cứu vấn
đề này sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình vào việc làm sáng tỏ những quy


10

định mới tiến bộ liên quan đến Phần II của BLDS 2015 và chứng minh rằng,
những quy định mới này là rất cần thiết và bổ ích cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài:

Đã có không ít công trình nghiên cứu về quyền đối với tài sản nhưng chủ
yếu danh cho quyền sở hữu mà chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện
về các hình thức quyền đối với tài sản, bao gồm không chỉ quyền sở hữu mà
còn các quyền khác đối với tài sản khác mà các nước trên thế giới gọi là vật
quyền hạn chế.
Các công trình trước đây cũng chủ yếu nghiên cứu về các quy định về
quyền sở hữu trong BLDS 2005 và hầu như chưa có công trình nào nghiên
cứu về chế định quyền sở hữu và các loại quyền khác đối với tài sản được ghi
nhận trong BLDS mới – BLDS 2015. Trong số các công trình này, có thể kể
đến: Hoàng Ngọc Thỉnh (2001), Quyền sở hữu của cá nhân và phương thức
bảo vệ, Luận án Tiến sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Dương Đăng Huệ
(chủ nhiệm, 2008), “Hoàn thiện pháp luật về các hình thức sở hữu trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta”, Báo cáo phúc trình kết quả nghiên cứu đề tài
khoa học cấp bộ; Tống Thị Hương (2014), Bảo vệ quyền sở hữu theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà
Nội….
Các công trình trước đây cũng chủ yếu nghiên cứu về quyền sở hữu một
cách chung chung mà không được nghiên cứu dưới góc độ của doanh nghiệp.
Vì vậy có thể nói đề tài này hầu như còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý hiện
nay.
Đề tài “Những điểm mới trong chế định quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản trong Bộ Luật Dân sự 2015 phục vụ hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp” tiếp cận vấn đề quyền sở hữu và quyền
khác đối với tài sản dưới góc độ và nhu cầu của một chủ thể đặc biệt trong xã
hội là doanh nghiệp. Đề tài chỉ ra những điểm mới trong BLDS 2015 có tác
dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà không

nghiên cứu các quy định này một cách chung chung, dưới góc độ của mọi chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự. Đề tài có tính mới, và tính khái quát cao
hơn các đề tài đã được thực hiện.
3.

Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận văn là nêu được các điểm mới của chế định
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong BLDS 2015 và chứng


11

minh rằng, các quy định mới này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Việc nghiên cứu đề này nhằm giải quyết các mục tiêu cơ bản sau đây:
Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến quyền sở hữu và quyền khác đối
với tài sản;
Phân tích các quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản
theo pháp luật dân sự Việt Nam có ảnh hưởng đến hoạt động đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp;
Đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định về quyền sở
hữu và quyền khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam trong thực
tiễn hoạy động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích
các quy định mới trong phần thứ II của BLDS 2015: “Quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản”. Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của
luân văn là các quy định của pháp luật thực định được thể hiện trong BLDS
mới. Luận văn cũng nghiên cứu một số quy định trong BLDS 2005 nhưng
không coi đây là đối tượng nghiên cứu chủ yếu, các quy định này chỉ được
nghiên cứu ở một mức độ nhất định nhằm làm sáng tỏ sự tiến bộ của BLDS
2015 mà thôi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu chế định quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam từ trước đến nay mà chỉ tập
trung nghiên cứu các quy định trong BLDS mới 2015.
Luận văn cũng không đề cập đến các quy định trong luật chuyên ngành
có liên quan đến một số quyền khác đối với tài sản như Luật Đất đai (quyền
sử dụng đất thực chất cũng là một loại quyền đối với tài sản) hay Luật Quản
lý sử dụng tài sản nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp (quyền của các
doanh nghiệp nhà nước đối với tài sản được nhà nước giao về thực chất cũng
được coi là một loại quyền khác đối với tài sản – vật quyền hạn chế).
Tóm lại, Luận văn chỉ nghiên cứu các quy định mới về quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản trong BLDS 2015.
5.

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn


12

BLDS 2015 quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản như
thế nào

Những điểm mới của BLDS về chế định quyền sở hữu và quyền khác đối
với tài sản giúp ích được gì cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp
Các biện pháp nhằm thực thi hiệu quả các quy định mới của BLDS 2015
về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là gì
6.

Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác –
Lênin phương pháp phân tích, tổng hợp, và luật học so sánh.
Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích, làm rõ các quy định
về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích.
Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích. Luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp để kết hợp chúng lại với nhau nhằm có được sự nhận
thức một cách đầy đủ, hoàn chỉnh về vấn đề nghiên cứu. Kết quả tổng hợp
được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp luật học so sánh được sử dụng khi so sánh quyền sở hữu và
quyền khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự 2005 với quyền sở hữu và
quyền khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự 2015 qua đó đánh giá được
các ưu điểm của BLDS mới giúp các doanh nghiệp thực hiện một cách tốt
nhất quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật
dân sự.
7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện một số

vấn đề lý luận về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản có liên quan đến
hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. những kết quả này sẽ tạo
thêm cơ sở khoa học để hoàn thiện chế định quyền sở hữu và quyền khác đối
với tài sản trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên chuyên ngành
luật dân sự, luật kinh tế và tất cả những ai mong muốn tìm hiểu các quy định
mới của BLDS 2015 liên quan đến các loại vật quyền ở Việt Nam. Luận văn
đặc biệt có ý nghĩa đối với các nhà kinh doanh vì hơn ai hết, họ cần phải biết
được mình có những quyền gì mới đối với tài sản thuộc quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản mà mình được quyền quản lý, sử dụng.


13

8.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần danh mục chữ viết tắt, lời mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản phục
vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Những điểm mới trong chế định quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản trong Bộ Luật Dân sự 2015 phục vụ hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thực thi hiệu quả các quy định mới của Bộ
Luật Dân sự 2015 về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản.


14


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI
TÀI SẢN PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản
1.1.1.

Khái niệm quyền sở hữu

Sở hữu là phạm trù được quan tâm đặc biệt bởi các ngành khoa học xã
hội nhất là triết học, kinh tế học và luật học. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi các
ngành khoa học đó đều nghiên cứu về hành vi ứng xử của con người trong xã
hội - mà khi nghiên cứu về hành vi ứng xử của con người trong xã hội, sẽ là
không toàn diện nếu như không đề cập tới sở hữu - yếu tố có mối quan hệ
chặt chẽ tới thái độ, hành vi ứng xử của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Tuy được quan tâm, nghiên cứu bởi các ngành khoa học đó, nhưng cho đến
nay, ở Việt Nam cũng như ở các nước, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về
sở hữu1. Bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, dù lúc sinh
thời có sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề sở hữu, nhất là vấn đề sở hữu tư bản
chủ nghĩa, cũng chưa bao giờ đưa ra khái niệm về sở hữu2.
“Sở hữu” theo nghĩa Hán Việt được ghép từ 2 chữ “sở” (của mình) và
“hữu” (có) vì thế sở hữu được giải thích là “cái mình có”3. Theo cách hiểu
thông thường này, “sở hữu” sẽ bị đồng nhất với “cái mình có” - tức là bị đồng
nhất với chính “tài sản” - đối tượng của sở hữu. Cách giải thích về “sở hữu”
này rõ ràng có lỗi về mặt lô-gíc, khó có thể được chấp nhận làm khái niệm
khoa học.
Cũng có quan điểm cho rằng “sở hữu” là “việc chiếm giữ những sản vật
tự nhiên, những thành quả lao động của xã hội loài người”4. Theo cách hiểu
này, sở hữu là hành vi tương tác của con người với những đối tượng nhất định

(tài sản) vốn là một bộ phận của thế giới tự nhiên.
Dưới giác độ triết học và kinh tế học, khái niệm “sở hữu” thường bị
đồng nhất với khái niệm “quan hệ sở hữu”. Cuốn Từ điển kinh tế do nhà xuất
bản Sự thật ấn hành năm 1979 tại trang 381 có định nghĩa về sở hữu như sau:
sở hữu là “quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản
xuất và của cải vật chất được tạo ra nhờ tư liệu sản xuất ấy”. Chia sẻ cách tiếp
1 Xem: Phạm Văn Nghiên (1993)“Một số quan điểm về đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh
tế”, NXB Chính trị Quốc gia, tr. 89.
2 Xem: Nguyễn Văn Thức (2004), Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam - NXB Khoa học xã hội , tr. 11.
3
3 Xem: Nguyễn Lân (2004), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Từ điển bách khoa, trang 588-589.
4Xem: Trường ĐH Luật Hà Nội (2005),Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr.147


15

cận này, gần đây, một số học giả ở Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu về sở
hữu như TS. Nguyễn Văn Thức5, PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo, TS. Nguyễn
Hữu Đạt (2004)6 đã đưa ra định nghĩa về sở hữu như sau: Sở hữu là quan
giữa con người với con người đối với việc chiếm hữu của cải và thông qua
quan hệ ấy con người thực hiện thỏa mãn các nhu cầu của mình.
Theo quan niệm chung (dù là theo hệ thống common law hay hệ thống
civil law) thì quyền sở hữu không phải là loại quyền không thể phân chia.
Ngược lại, quyền sở hữu có thể chia thành những quyền năng thành phần.
Chẳng hạn, quyền sở hữu có thể chia thành quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,
quyền định đoạt (bao gồm quyền cho thuê, cho mượn, chuyển giao tài sản,
quyền đòi lại tài sản v.v.). Chính vì thế, không phải không có lý khi coi quyền
sở hữu là một nhóm các quyền (a bundle of rights) của những chủ thể nhất
định đối với tài sản như cách quan niệm của luật gia khá nổi tiếng người Mỹ
từ năm 1913 - Wesley Hohfeld.

Việc tồn tại quyền sở hữu chính là cơ sở pháp lý quan trọng để một chủ
thể tiến hành các hành vi tương tác với tài sản mà các chủ thể khác trong xã
hội phải tôn trọng do được pháp luật bảo hộ. Quyền sở hữu chính là quyền
tiếp cận với tài sản và có các hành vi khai thác, sử dụng, phát huy công dụng
và cả bảo vệ tài sản. So sánh giữa chủ sở hữu với các chủ thể không phải là
chủ sở hữu trong xã hội, chúng ta có thể coi rằng “quyền sở hữu” là độc
quyền chi phối, khai thác, quyết định số phận của tài sản. Chỉ có chủ sở hữu
mới có “độc quyền” này. Do đó, nhờ sự tồn tại của sở hữu, chủ sở hữu có ưu
thế so với các chủ thể khác trong việc chi phối, khai thác, quyết định số phận
của tài sản. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể nói rằng, sự tồn tại của quan hệ sở
hữu chính là sự thừa nhận của xã hội về phân tầng giữa các tổ chức, cá nhân
trong việc tiếp cận đối với các nguồn lực khan hiếm trong xã hội (tài sản và
các sản phẩm có nguồn gốc từ tài sản)7.
Quá trình tồn tại của xã hội loài người luôn gắn liền với sự phân hóa tài
sản trong việc chiếm giữ những của cải vật chất. Cùng với đó là sự phân chia
giai cấp, và những người có quyền thế trong xã hội thấy rằng, chỉ điều hành
xã hội bằng phong tục tập quán sẽ không có lợi cho mình nên cần phải có một

5 Xem: Nguyễn Văn Thức (2004), Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, tr. 42
6Xem:Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay, NXB Chính
trị quốc gia, tr. 45.
7 Xem: Nguyễn Văn Cương (2008) : Sở hữu - khái niệm, bản chất, hình thức tồn tại và vai trò của nó trong
đời sống xã hội, Hoàn thiện pháp luật về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta”, Báo
cáo phúc trình kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, Bộ tư pháp- Viện khoa học pháp lý, Hà Nội, Tr.8486


16

bộ máy bạo lực với pháp luật là công cụ để bảo vệ sự chiếm hữu của cải vật
chất cho mình và cho giai cấp mình.

Khi các quan hệ sở hữu tồn tại như một yếu tố khách quan và xuất hiện
chế độ tư hữu, thì những người giầu có và quyền thế thấy rằng, nếu chỉ điều
hành xã hội bằng phong tục tập quán sẽ không có lợi cho họ. Muốn bảo vệ
quyền lợi cho mình, nhất là việc bảo đảm các quan hộ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, thì giai cấp thống trị phải đặt là một cái gì đó khác với tập quán và
chỉ giữ lại những cái gì của tập quán có lợi cho mình. Mặt khác, những quan
hộ phức tạp mói phát sinh trong xã hội có giai cấp đòi hỏi phải có những
phương tiện, công cụ đặc biệt để Nhà nước thực hiện sự thống trị giai cấp.
Cơ sở kinh tế để bảo đảm cho sự thống trị về chính trị và tư tưởng chính
là các quan hệ sở hữu có lợi cho giai cấp thống trị8. Giai cấp thống trị phải
dùng tới một bộ phận của pháp luật về sở hữu để thể hiện ý chí giai cấp của
mình. Là một hình thái của thượng tầng kiến trúc, pháp luật về sở hữu ghi
nhận và củng cố địa vị, ghi nhận lợi ích của giai cấp thống trị đối với việc
đoạt giữ các của cải vật chất trước các giai cấp khác trong quá trình sản xuất,
phân phối, lưu thông. Do đó, trong bất kỳ một Nhà nước nào, luật pháp về sở
hữu cũng được sử dụng với ý nghĩa là một công cụ có hiệu quả của giai cấp
nắm chính quyền để bảo vệ cơ sở kinh tế của giai cấp đó.
Theo quan điểm kinh tế học, sở hữu được coi là việc chiếm giữ những
của cải vật chất của con người trong đời sống xã hội. Theo quan điểm này, sở
hữu là một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan, xuất hiện cùng với sự
tồn tại của xã hội loài người.
Quyền sở hữu với tư cách là một chế định của pháp luật, một bộ phận
thuộc thượng tầng kiến trúc, chỉ xuất hiện khi xã hội đã có sự phân chia giai
cấp và có Nhà nước. Pháp luật về sở hữu chính là sản phẩm của xã hội có giai
cấp nhằm bảo vệ lợi ích trước hết là của giai cấp thống trị, giai cấp nắm quyền
lãnh đạo trong xã hội. Pháp luật về sở hữu dù được ghi nhận và quy định dưới
bất kỳ góc độ nào cũng luôn mang tính giai cấp và phản ánh những phương
thức chiếm giữ của cải vật chất trong xã hội.
Với cách hiểu này, khái niệm quyền sở hữu có thể hiểu theo hai nghĩa
sau:

Theo nghĩa khách quan (còn được gọi là nghĩa rộng), quyền sở hữu là
luật pháp về sở hữu trong một hệ thống pháp luật nhất định. Do đó, quyền sở
hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những của cải vật chất trong đời sống

8 Xem: Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam , NXB Công an Nhân dân.


17

xã hội. Ở các nước có BLDS thì chính các Bộ luật này luôn được coi là nguồn
cơ bản nhất của chế định quyền sở hữu.
Theo nghĩa chủ quan (còn được gọi là nghĩa hẹp), quyền sở hữu là mức
độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của mình trong những điều
kiện nhất định.Với cách hiểu này thì quyền sở hữu chính là những quyền năng
dân sự của chủ sở hữu nhất định đối với một tài sản cụ thể, được quy định
trong các quy phạm pháp luật về sở hữu.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: quyền sở hữu là một phạm trù
pháp lý phản ánh các quan hệ sở hữu trong một chế độ sở hữu nhất định, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh những quan hệ về sở
hữu trong xã hội. Các quy phạm pháp luật về sở hữu xác nhận, quy định và
bảo vệ các quyền lợi của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản.
Điều 158 BLDS 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Đây là định nghĩa về quyền sở hữu theo nghĩa chủ quan như bên trên vừa

nêu. Đây thực chất là quyền của một người được coi là chủ sở hữu đối với tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Từ định nghĩa này chúng ta có thể hiểu:
Quyền sở hữu là việc pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các
quyền năng của mình trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản mà
mình đang sở hữu trong khuôn khổ của pháp luật.”
Khái niệm quyền sở hữu theo nghĩa rộng đó chính là luật pháp về sở hữu
trong một hệ thống pháp luật nhất định. Vì vậy quyền sở hữu là hệ thống các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất,
tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định tại BLDS 2015.
Theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật
cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt trong những điều kiện nhất định. Theo nghĩa này, có thể nói quyền
sở hữu chính là những quyền năng dân sự chủ quan của từng loại chủ sở hữu
nhất định đối với một tài sản cụ thể, được xuất hiện trên cơ sở nội dung của
quy phạm pháp luật về sở hữu.
1.1.2.
Hình thức sở hữu
1.1.2.1.

Sở hữu toàn dân


18

Hình thức sở hữu toàn dân theo quy định tại BLDS 2015 là hình thức sở
hữu Nhà nước theo quy định của BLDS 2005. Xét về nội dung, hình thức sở
hữu toàn dân và sở hữu Nhà nước mang nội dung giống nhau song việc thay
đổi tên gọi góp phần làm rõ bản chất của hình thức sở hữu này đồng thời thể

hiện rõ mục đích của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nội
dung của hình thức sở hữu toàn dân được BLDS 2015 quy định cụ thể như
sau:
Sở hữu toàn dân bao gồm những tài sản có giá trị lớn như đất đai, rừng
núi, tài nguyên… là tư liệu sản xuất quan trọng của đất nước, do đó cần xác
định rõ sở hữu tài sản này là toàn dân và hình thức sở hữu toàn dân phải là
một hình thức độc lập, việc xác định rõ như vậy không chỉ có ý nghĩa pháp lý
đơn thuần mà còn có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
phù hợp với định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
Chủ nghĩa (XHCN), xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân được
thực hiện trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định. Khi tài sản
thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan;
Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và
các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật có liên quan.
Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thủy sản, tài
nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng mục đích,
có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của
pháp luật.
Đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà chưa được giao cho cá nhân,
pháp nhân quản lý thì Chính phủ tổ chức thực hiện việc bảo vệ, điều tra, khảo
sát và lập quy hoạch đưa vào khai thác.
1.1.2.2.

Sở hữu chung


Điều 207 BLDS 2015 quy định:
“Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản.
Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp
nhất”.
Sở hữu chung theo phần: Điều 209 BLDS 2015 quy định: “Sở hữu chung
theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở


19

hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có
quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền
sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Trong sở hữu chung
theo phần, mỗi đồng sở hữu biết trước được tỉ lệ phần quyền của mình đối với
tài sản chung. Phần quyền đó có thể bằng hoặc không bằng nhau.
Trong sở hữu chung theo phần, quyền lợi của các đống sở hữu có mối
quan hệ mật thiết với nhau khi họ thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu.
Vì vậy, khi thực hiện quyền chiểm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở
hữu chung theo phần phải được tiến hành trên cơ sở thảo thuận nhất trí giữa
các đồng sở hữu. Điều 216 BLDS 2015 quy định: “Các chủ sở hữu chung
cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Điều này thể hiện ở việc các
đồng sở hữu phải cùng nhau bàn bạc để thống nhất về cách bảo quản, sử dụng
tài sản trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận. Mọi
thỏa thuận hợp pháp của đồng sở hữu đều có hiệu lực bắt buộc và cũng là cơ
sử pháp lí để giải quyết khi có tranh chấp.
Khi tài sản thuộc sở hữu chung được sử dụng vào mục đích sản xuất,
kinh doanh mà sinh lợi thì số lợi đó sẽ được chia cho các đồng sở hữu theo tỷ
lệ phần quyền tương ứng của mỗi người. Khoản 1 Điều 217 quy định: “Mỗi
chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi

tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Sở hữu chung hợp nhất: là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở
hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.Sở
hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở
hữu chung hợp nhất không phân chia. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có
quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung.
Sở hữu chung của cộng đồng: là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng,
buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài
sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng
cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác
phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung
hợp pháp của cộng đồng.
Sở hữu chung cộng đồng do đặc điểm lịch sử được tạo dựng qua nhiều
thế hệ nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung của tất cả các thành viên trong
cộng đồng. Do đó, các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định
đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của


20

cộng đồng nhưng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội.
Do mục đích của sở hữu chung cộng đồng là thỏa mãn chung lợi ích hợp
pháp của cả cộng đồng nên tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp
nhất không phân chia.
Sở hữu chung của các thành viên gia đình: Tài sản của các thành viên
gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau
tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định
của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia
đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài
sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu
của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người
thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định
khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung
theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường
hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.
Sở hữu chung của vợ chồng: Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu
chung hợp nhất có thể phân chia.Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối
tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia
theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án. Trường hợp vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân
và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản
này.
Sở hữu chung trong nhà chung cư: Phần diện tích, trang thiết bị và các
tài sản khác dùng chung trong nhà chung cư theo quy định của Luật nhà ở
thuộc sở hữu chung hợp nhất của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và
không phân chia, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc tất cả các chủ sở
hữu có thỏa thuận khác. Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng tài sản, trừ trường hợp luật
có quy định khác hoặc có thỏa thuận khác.
Trường hợp nhà chung cư bị tiêu hủy thì quyền của chủ sở hữu căn hộ
chung cư thực hiện theo quy định của luật.


21


Sở hữu chung hỗn hợp: là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi
nhuận. Tài sản được hình thành từ nguồn vốn góp của các chủ sở hữu, lợi
nhuận hợp pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ nguồn
khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn
hợp.
Sở hữu chung hỗn hợp là một dạng cụ thể của sở hữu chung nhưng đồng
thời có những nét đặc thù riêng. Sở hữu chung hỗn hợp thường có quy mô
hoạt độn rộng khắp trong nhiều ngành nghề khác nhau và có mục đích thu lợi
nhuận nên việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không theo nguyên tắc của sở
hữu ching thông thường. Khoản 3 Điều 215 BLDS 2015 quy định: “Việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân
theo quy định tại Bộ luật này và quy định của pháp luật có liên quan đến việc
góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách
nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận”.
1.1.2.3.

Sở hữu riêng

Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân; Tài sản
hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị.
Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các
mục đích khác không trái pháp luật.
Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng được
pháp luật khuyến khích tạo điều kiện nhằm giải phóng sức sản xuất và mang
lại hiệu quả kinh tế cao. Chủ sở hữu có quyền dùng vốn, công cụ và tư liệu
sản xuất thuộc quyền sở hữu của mình để đưa vào sản xuất, kinh doanh, phục
vụ các nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng hoặc các mục đích khác phù hợp với quy

định của pháp luật, chủ sở hữu không được thực hiện quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của mình để hoạt động sản xuất kinh doanh bất hợp
pháp.
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không
được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
1.1.3.

Nội dung quyền sở hữu

1.1.3.1.

Quyền chiếm hữu

Theo thông lệ, đây là quyền năng tiền đề của quyền sở hữu.Đó chính là
khả năng của chủ sở hữu chiếm giữ vật (thực tế) trong phạm vi kiểm soát của
mình, làm chủ và chi phối vật đó về phương diện vật chất.


22

Việc nắm giữ quản lý tài sản có thể được thực hiện bởi bất cứ chủ thể
nào. Tuy nhiên pháp luật chỉ bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể chiếm hữu nếu
việc chiếm hữu đó dựa trên cơ sở pháp lý do luật định.
Chủ sở hữu chiếm giữ tài sản
Chủ sở hữu là người có quyền sở hữu đối với một tài sản nhất định. Việc
có được tài sản đó dựa trên các căn cứ xác lập quyền sở hữu do pháp luật quy
định. Quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm giữ tài sản được pháp luật tôn
trọng tuyệt đối Theo Điều 186 BLDS 2015 quy định: Chủ sở hữu được thực
hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình

nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.
-

Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản
Chủ sở hữu có thể trực tiếp chiếm hữu tài sản nhưng cũng có thể ủy
quyền cho người khác chiếm hữu tài sản. Người được chủ sở hữu ủy quyền
quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó trong phạm vi, theo cách
thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự được xác lập phù hợp với quy định của pháp luật làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch đó.
Điều 188 BLDS 2015 quy định : “Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người
khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung không bao gồm việc chuyển
quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc chiếm hữu tài
sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch.” Ví dụ trong quan hệ
cầm cố, khi bên cầm cố giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ thì bên nhận
cầm cố phải giữ gìn, bảo quản tài sản cầm cố, không được làm hư hỏng hoặc
giảm sút giá trị của tài sản cầm cố.
Thông qua giao dịch dân sự với chủ sở hữu, người được giao tài sản có
quyền sử dụng tài sản được giao (ví dụ người nhận cầm cố có thể khai thác lợi
ích từ tài sản), được chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đó cho người
khác nếu được chủ sở hữu đồng ý. Mặc dù có những quyền này nhưng người
được giao tài sản không thể trở thành chủ sở hữu của tài sản được giao.
1.1.3.2.

Quyền sử dụng

Điều 189 BLDS định rõ: quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho
người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Khai thác công dụng của tài sản được hiểu là việc dùng tài sản để phục
vụ nhu cầu, sở thích của bản thân hoặc để khai thác lợi ích kinh tế của tài sản.
Chẳng hạn, sử dụng môtô làm phương tiện để đi lại, đeo nữ trang hay đồng hồ
để làm đẹp…hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản là việc chủ sở hữu thu nhận các


23

sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại như trái cây, gia súc sinh con, gia cầm đẻ
trứng… hoặc thu các khoản lợi từ việc khai thác tài sản như tiền cho thuê nhà,
lợi tức cổ phiếu, lợi tức cho vay… Việc sử dụng các tài sản là vật tiêu hao,
đặc biệt là các vật tiêu hao hết sau một lần sử dụng như việc sử dụng thức ăn,
đồ uống, tiêu tiền… cũng đồng nghĩa với việc chủ sở hữu sử dụng quyền định
đoạt đối với tài sản.
Quyền sử dụng tài sản có thể được chủ sở hữu trực tiếp thực hiện nhưng
cũng có thể thực hiện thông qua người khác.
Quyền sử dụng của chủ sở hữu:
Sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa
thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu hoàn toàn có toàn quyền hác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo cách thức và mục đích sử dụng tài sản
theo ý chí của mình: sử dụng hoặc không sử dụng tài sản, trực tiếp khai thác
công dụng tự nhiên của tài sản hoặc để cho người khác sử dụng thông qua các
giao dịch dân sự như hợp đồng cho thuê, cho mượn. Tuy nhiên, trong mọi
trường hợp, việc sử dụng tài sản phải trên nguyên tắc không được làm ảnh
hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác.
Quyền sử dụng của người không phải chủ sở hữu:
+ Người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng tài sản thông qua
thỏa thuận. Trong trường hợp này, người sử dụng được quyền khai thác tài
sản theo cách thức và thời hạn đã được thoả thuận với chủ sở hữu.

+ Theo quy định của pháp luật: Đây là trường hợp mà pháp luật quy định
cho pháp một chủ thể nhất định có quyền sử dụng tài sản. Ví dụ : Điểm a
Khoản 1 Điều 58 BLDS 2015 cho phép người giám hộ sử dụng tài sản của
người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của
người được giám hộ.
1.1.3.3.

Quyền định đoạt

Quyền định đoạt là quyền năng quan trọng trong nội dung của quyền sở
hữu. Theo quan niệm truyền thống, quyền định đoạt là quyền quyết định số
phận thực tế và số phận pháp lý của tài sản9. Tuy nhiên Điều 195 BLDS 2005
lại chỉ quy định: Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản
vay từ bỏ quyền sở hữu, ngoài việc định đoạt tài sản ở hai khía cạnh này ta có
thể thấy chủ sở hữu tài sản định đoạt tài sản thông qua việc tiêu dùng, tiêu
hủy tài sản.
Khắc phục quy định trên, Điều 192 BLDS 2015 định rõ: Quyền định
đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu
dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
9 Xem: Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật dân sự tập 1, NXB Công an nhân dân, tr. 210


24

Chuyển giao quyền sở hữu: Quyền sở hữu được chuyển giao từ chủ sở
hữu này sang cho chủ thể khác thông qua hợp đồng như hợp đồng mua bán,
trao đổi tài sản, cho vay... hoặc giao dịch một bên như lập di chúc định đoạt
tài sản....
Từ bỏ quyền sở hữu: Từ bỏ quyền sở hữu là sự thể hiện ý chí của chủ sở
hữu về việc chấm dứt quyền sở hữu của mình đối với tài sản nhất định.

Tiêu dùng, tiêu hủy tài sản: Chủ sở hữu lương thực, thực phẩm... có thể
định đoạt số phận thực tế của tài sản thông qua việc khai thác giá trị của
lương thực, thực phẩm...
Việc định đoạt tài sản có thể được thực hiện bởi chủ sở hữu nhưng cũng
có thể được thực hiện thông qua chủ thể khác. Người không phải là chủ sở
hữu chỉ có quyền định đoạt tài sản của người khác trong trường hợp được chủ
sở hữu uỷ quyền hoặc trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định
(việc trưng mua, trưng thu tài sản theo quyết định của Nhà nước). Việc thực
hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan
hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Chủ sở hữu, người không phải chủ sở
hữu khi định đoạt tài sản phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật, Trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản
thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó. Ví dụ: Khi mua bán tài sản có đăng ký
quyền sở hữu thì các bên phải hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu từ người
mua sang người bán theo quy định của pháp luật, tiêu hủy tài sản phải đảm
bảo không được gây ô nhiễm môi trường...
Về nguyên tắc, chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt số phận thực tế hay
số phận pháp lý tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhằm
bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu và lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền định đoạt có thể bị hạn chế
theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Theo quy định của pháp
luật, khi tài sản đem bán là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có
quyền ưu tiên mua; Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối
với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở
hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó. Ví dụ, thành viên của
công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể chuyển nhượng phần vốn góp của
mình cho người ngoài nếu các thành viên khác của công ty không mua hoặc
mua không hết (Điều 43 Luật Doanh nghiệp).
1.1.4.


Chế định chiếm hữu

BLDS 2005 quy định quyền chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở
hữu. Với cách quy định như vậy thì quyền chiếm hữu là kết quả của quyền sở
hữu. Đồng thời, nhiều quy định trong BDS 2005 xuất phát từ tình trạng chiếm
hữu của một chủ thể mà đã cho phép xác lập quyền sở hữu đối với vật cho
chủ thể đó. Trong trường hợp này, chiếm hữu được coi là điều kiện để xác lập


25

quyền, như các quy định: xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không
xác định được chủ sở hữu (Điều 239); xác lập quyền sở hữu đối với vật bị
chôn giấu bị chìm đắm được tìm thấy (Điều 240)… Tuy nhiên, nhìn chung,
cách quy định của BLDS 2005 đã chưa phân biệt rõ chiếm hữu như một
quyền năng của chủ sở hữu với chiếm hữu như một thực trạng (thực trạng
chiếm hữu) và tình trạng chiếm hữu này có thể được bảo vệ độc lập so với
việc bảo vệ quyền sở hữu.
BLDS 2015 bổ sung chế định chiếm hữu như là tình trạng pháp lý về
việc cá nhân, pháp nhân nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp. BLDS 2015 đã xây dựng riêng chế định chiếm hữu bên cạnh chế định sở
hữu. Trước hết Điều 179.1 BLDS 2015 đưa ra khái niệm: “Chiếm hữu là việc
chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ
thể có quyền đối với tài sản.”
Theo chế định này, chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản; Chiếm
hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải
là chủ sở hữu; việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể
là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp xác lập quyền sở hữu đối với
tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị chôn, giấu,

bị vùi lấp, bị chìm đắm, tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên, gia súc bị
thất lạc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước và xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình, người nào cho rằng người
chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh; trường hợp có tranh chấp về
quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền
đó, người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người
chiếm hữu không có quyền; người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai
được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài
sản mang lại theo quy định của BLDS và luật khác có liên quan;
Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm
hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi,
khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu
cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt
hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thương thiệt hại.
1.2. Một số vấn đề lý luận về quyền khác đối với tài sản
1.2.1.

Khái niệm quyền khác đối với tài sản

Chế định quyền sở hữu không chỉ tập trung quy định địa vị pháp lý và
các quyền chủ thể của chủ sở hữu vì như vậy quyền sở hữu chỉ được nhìn


×