Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách cấp cơ sở từ thực tiễn địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, cải cách hành chính nhà nước
đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở đáp ứng được về năng
lực, trình độ, khả năng thích ứng nhiệm vụ được phân công, phải đạt tiêu
chuẩn theo quy định. Một nội dung được hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng
lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”
[5].
Hoạt động của chính quyền cơ sở đóng vai trò chủ chốt, gắn liền với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để xây dựng cấp xã vững mạnh, thực
sự là nền tảng của chế độ, là nền móng của tòa nhà xã hội, vấn đề có ý nghĩa
quyết định là phải xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã có tính chuyên nghiệp, có
đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự
nghiệp phát triển của đất nước. Thực tế đã chứng minh đội ngũ CBCC nói
chung và cán bộ chuyên trách (CBCT) cấp cơ sở nói riêng có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở cũng như
có vai trò quan trọng trong việc hoạch định, triển khai và tổ chức thực hiện
chính sách của Đảng, Nhà nước; quyết định sự thành công hay thất bại của
đường lối, chính sách do cơ quan, tổ chức vạch ra. Hiệu lực, hiệu quả của
chính quyền cấp cơ sở suy cho cùng được quyết định bởi trình độ, phẩm chất,
năng lực và hiệu quả công tác của CBCC cấp cơ sở.
Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa
VIII) của Bộ Chính trị về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất
1


nước đã chỉ rõ: trình độ, năng lực, kiến thức về kinh tế thị trường, luật pháp,


ngoại ngữ, khả năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội của không ít cán bộ vẫn
còn bất cập; khả năng dự báo và định hướng sự phát triển vẫn còn yếu. Do
vậy, việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) đối với CBCT cấp
cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng để nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm CBCT giúp hoàn thiện các tiêu chuẩn của từng vị
trí chức danh đang đảm nhiệm, từng bước xây dựng đội ngũ CBCT cấp cơ sở
chuyên nghiệp, liêm chính, đủ khả năng vận hành và xây dựng nền hành
chính tiên tiến, gắn mục tiêu xây dựng Chính phủ kiến tạo, phục vụ nhân dân,
phát triển đất nước. Do vậy, một trong những nhiệm vụ trọng tâm đã được
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII nêu rõ: “Xây dựng tổ chức bộ máy của
toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”[8, tr.432].
Nghị quyết 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII đề ra mục tiêu tổng quát là “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán
bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đủ về
số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc”[9,tr.34]
Quận 6 là một quận nằm về phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh
(TP.HCM), diện tích 7.14 km2 bằng 0.34% diện tích toàn Thành phố, hiện nay
Quận 6 có 14 đơn vị phường, 12 phòng ban chuyên môn thuộc UBND Quận
với số lượng CBCC khá đông đảo (khoảng 470 người). Tuy nhiên đứng
trước yêu cầu nhiệm vụ mới hiện nay, CBCC nói chung và CBCT cấp
phường nói riêng vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém về phẩm chất, năng lực,
trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức phục vụ nhân dân; Việc thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng của Quận đã được triển khai, song vẫn còn
không ít những hạn chế cần được tiếp tục đổi mới, khắc phục. Do vậy,
nghiên cứu đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng thực hiện chính

2


sách đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CBCT cấp cơ sở, đề ra những định

hướng, giải pháp chính sách tăng cường thực hiện chính sách ĐTBD nhằm
nâng cao năng lực, chất lượng CBCT cấp cơ sở từ thực tiễn Quận 6 để góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay là
yêu cầu cấp bách. Đây chính là lý do học viên chọn đề tài “Thực hiện chính
sách đào tạo bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách cấp cơ sở từ thực tiễn
địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cán bộ và thực hiện công tác ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở có vai trò
rất quan trọng, được xem là nhiệm vụ trọng tâm trong việc nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCT cấp cơ sở. Liên quan đến chủ đề này, đã có khá nhiều
công trình tiêu biểu được nhiều tác giả phân tích, nghiên cứu, đánh giá như:
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09 của Tiến sĩ Thang Văn Phúc,
Bộ Nội vụ, Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung đề tài nêu lên yếu tố khách quan
của việc xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và yêu cầu về số lượng, chất lượng đối với đội ngũ CBCC
trong điều kiện mới. Đề tài đã có chương riêng về thực trạng và giải pháp xây
dựng đội ngũ CBCC cấp cơ sở, đề xuất quan điểm, giải pháp xây dựng đội
ngũ CBCC trong hệ thống chính trị nói chung và CBCC trong các cơ quan
Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan nhà nước. Trong đó có đề cập đến
yêu cầu chung của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc điểm
của hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ nhân lực chuyên môn ở địa phương
hiện nay.
- Đề tài cấp Bộ của Hồ Công Dũng (2009) Nghiên cứu xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức cơ sở Tây Nguyên. Đề tài tập trung xác định đúng thực

3



trạng đội ngũ CBCC với các điểm mạnh, điểm yếu và những bất cập tại khu
vực Tây Nguyên, tác động của chúng tới sự phát triển kinh tế xã hội, an ninh
quốc phòng khu vực. Trên cơ sở đó dự báo nhu cầu phát triển nguồn CBCC
tại các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2006 - 2010 và xây dựng hệ thống giải
pháp phát triển đội ngũ CBCC cơ sở Tây Nguyên đến năm 2010.
- Đề tài khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Ngọc Vân – Bộ Nội vụ “Cơ
sở khoa học của ĐTBD CBCC hành chính theo nhu cầu công việc” đã phân
tích cơ sở lý luận và thực tiễn ĐTBD CBCC hành chính đáp ứng nhu cầu
công việc, dựa trên các yêu cầu khách quan của hoạt động thực thi công vụ
thực tế tại Việt Nam, đảm bảo tính khoa học và đồng bộ trong việc nhận thức
về vai trò của hoạt động đào tạo, xác định nhu cầu đào tạo, thực hiện đổi mới
nội dung chương trình đào tạo; từ đó phát huy tối đa vai trò của công chức
trong thực hiện đào tạo theo nhu cầu công việc.
- Đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ Nội vụ - 2015) “Cơ sở khoa học xây
dựng chương trình ĐTBD theo vị trí việc làm, tiêu chuẩn ngạch và chức vụ
lãnh đạo, quản lý” do Nguyễn Xuân Dung chủ nhiệm, đã hệ thống hóa cơ sở
lý luận của xây dựng chương trình bồi dưỡng theo theo vị trí việc làm, tiêu
chuẩn ngạch và chức vụ lãnh đạo, quản lý; Khảo sát, đánh giá thực trạng
ĐTBD công chức và đề xuất quan điểm, giải pháp xây dựng chương trình
ĐTBD theo vị trí việc làm, tiêu chuẩn ngạch và chức vụ lãnh đạo, quản lý.
- Tác giả Đặng Khắc Ánh với bài “Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc
làm - Những khó khăn và kiến nghị”, Tạp chí Quản lý nhà nước số 2/2012 đã
phân tích sự cần thiết phải ĐTBD theo vị trí việc làm và cho rằng những hạn
chế trong ĐTBD CBCC ở nước ta thời gian qua có nguyên nhân chủ yếu là do
hoạt động ĐTBD chủ yếu cung cấp những kiến thức và kỹ năng chung, chưa
bảo đảm cung cấp các kiến thức và kỹ năng cần thiết phù hợp với từng vị trí
công việc. Do đó, cần thiết phải triển khai ĐTBD CBCC theo vị trí việc làm,

4



đồng thời cần lưu ý khắc phục những khó khăn như: Số lượng các vị trí việc
làm trong bộ máy nhà nước rất lớn khiến cho việc phân nhóm khó khăn;
Chương trình phải được thiết kế đa dạng, mềm dẻo; Năng lực của các cơ sở
ĐTBD chưa tương xứng, chưa đáp ứng yêu cầu của việc ĐTBD theo vị trí
việc làm. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số kiến nghị: Khẩn trương tiến
hành phân tích tổng thể và phân loại các vị trí việc làm trong bộ máy công vụ;
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảng mô tả công việc; Định kỳ khảo sát nhu
cầu ĐTBD; Thiết kế lại các chương trình ĐTBD theo hướng “modul hóa”;
Đổi mới hoạt động đánh giá chất lượng ĐTBD; Nâng cao năng lực cho các cơ
sở ĐTBD.
- Tác giả Lê Vĩnh Tân với bài “Sắp xếp, đào tạo CBCC cấp xã góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở tại tỉnh Đồng
Tháp”, Tạp chí Quản lý nhà nước số 1/2012 đã khái quát chủ trương của tỉnh
Đồng Tháp đối với vấn đề đào tạo CBCC cấp xã và những kết quả đạt được
của hoạt động này trong thời gian qua. Từ thực tiễn tỉnh Đồng Tháp, tác giả
rút ra một số kinh nghiệm từ việc thực hiện chủ trương này như: Sự chỉ đạo
quyết liệt của cấp ủy các cấp trong quá trình thực hiện và chỉ đạo các cơ quan
liên quan phối hợp thực hiện; Đổi mới, nâng cao chất lượng CBCC của chính
quyền cơ sở phải nằm trong tổng thể đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở; Quán triệt nhận thức một
cách đúng đắn và đầy đủ trong đội ngũ CBCC về mục tiêu, yêu cầu của việc
sắp xếp; Đảm bảo nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch.
- Đoàn Văn Tình “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã, góp phần xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh”, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, số 12/2013. Nội dung bài viết tác giả trình bày phương pháp để thu
hút nguồn nhân lực có trình độ, có đủ năng lực đảm bảo hiệu quả làm việc của
CBCC cấp xã.

5



Nội dung những tài liệu trên đề cập tới những vấn đề chung về lý luận;
nâng cao năng lực và xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã; chính sách ĐTBD
CBCC cấp xã ở một địa phương cụ thể. Các công tình này là nguồn tài liệu có
giá trị để luận văn nghiên cứu và phát triển hệ thống cơ sở lý luận của đề tài.
Tuy nhiên, hiện chưa có công trình khoa học nào tập trung đánh giá một cách
toàn diện về thực hiện chính sách ĐTBD CBCT cấp cơ sở từ thực tiễn địa bàn
Quận 6, TP.HCM. Bản thân là CBCT lớn lên và làm việc tại Quận 6, tôi đã
chọn đề tài thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành chính sách công
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện
chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở từ thực tiễn trên địa bàn Quận 6,
TP.HCM đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nội dung sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách
ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở.
- Vận dụng lý thuyết về chính sách công để phân tích, đánh giá thực
trạng thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở nhằm xác định
được nguyên nhân và những hạn chế yếu kém trong thực hiện chính sách này
từ thực tiễn địa bàn Quận 6 hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính
sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở cho cả nước từ thực tiễn địa bàn Quận 6,
TP.HCM trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


6


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu việc tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCT cấp cơ sở từ thực tiễn Quận 6, TP.HCM dưới góc độ khoa học chính
sách công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCT ở
14 phường trên địa bàn Quận 6, TP.HCM cụ thể:
Về đối tượng:
- Cán bộ gồm: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch UBND, Phó chủ tịch UBND;
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ;
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản.
- Công chức gồm: Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng thống kê; Địa
chính - xây dựng - đô thị và môi trường; Tài chính - kế toán; Tư pháp – hộ
tịch; Văn hóa – xã hội. Do chức danh Trưởng Công an phường thuộc lực
lượng công an chính quy nên đề tài không nghiên cứu.
Về thời gian : Luận văn nghiên cứu việc tổ chức thực hiện chính sách
ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở trên địa bàn Quận 6, TP.HCM giai đoạn
2015-2017; đề xuất giải pháp tăng cường thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCT cấp cơ sở giai đoạn 2018-2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCC, trong đó có CBCT cấp cơ sở để
xem xét các nội dung có liên quan.
5.2. Phương pháp luận


7


Để nghiên cứu các nội dung trong luận văn, tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu chính sách công, từ khâu xác định vấn đề chính sách đến
việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc. Đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, so
sánh, công thức toán để tính tỷ lệ %, báo cáo tổng hợp liên quan đến hoạt
động ĐTBD đối với CBCT cơ sở Quận 6, TP.HCM, tình hình phát triển kinh
tế - xã hội của quận, của các phòng ban chức năng của quận, thời gian từ năm
2015 đến năm 2017 để thu thập số liệu, phân tích, tổng hợp thông tin, làm cơ
sở đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCT từ thực tiễn
Quận 6, TP.HCM. Đặc biệt sử dụng bảng hỏi khảo sát 200 người dân, 301
CBCT cấp cơ sở trên địa bàn Quận 6 về các nội dung có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận của luận văn
Từ kết quả đánh giá nghiên cứu chính sách có ý nghĩa về mặt lý luận,
làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết liên quan đến chính sách công, từ đó
hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn nếu được các cơ quan có thẩm quyền
tham khảo và vận dụng hợp lý sẽ góp phần cung cấp cơ sở khoa học trong
việc xác định vấn đề và thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở
từ thực tiễn địa bàn Quận 6 nói riêng và đội ngũ CBCT cấp cơ sở tại TP.HCM
nói chung đạt hiệu quả. Đồng thời, cung cấp cho quận luận cứ xây dựng kế
hoạch nâng cao đội ngũ CBCT cấp cơ sở, dùng làm tài liệu tham khảo cho
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị của Quận hoặc cho sinh viên, học viên chuyên
ngành chính sách công và những ai quan tâm đến vấn đề này.

7. Kết cấu của luận văn

8


Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn chia thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
đối với cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở nước ta.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán
bộ chuyên trách cấp cơ sở tại địa bàn Quận 6, TP.HCM.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách cấp cơ sở TP.HCM

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO BỒI DƯỠNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH CẤP CƠ SỞ
1.1. Nội dung, vai trò của việc thực hiện chính sách sách đào tạo bồi
dưỡng cán bộ chuyên trách cơ sở
1.1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Cán bộ chuyên trách cấp cơ sở
“Cán bộ” là thuật ngữ dùng để chỉ những người làm việc thường xuyên
trong bộ máy hành chính nhà nước. Họ được bầu cử giữ chức vụ và làm việc
ổn định, được Nhà nước trả lương và đảm bảo những điều kiện vật chất, tinh
thần để thi hành công vụ.
Tại Điều 4 Luật CBCC năm 2008 quy định : “Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm

kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự

10


nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “chuyên trách” là chuyên chỉ làm và chỉ chịu
trách nhiệm một việc nào đó. Cán bộ chuyên trách chính là những người được
phân công một nhiệm vụ riêng biệt và chịu trách nhiệm về công việc đó.
Tại khoản 1 Mục V Nghị quyết số 17 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã xác định: Hệ thống chính trị ở cơ sở
có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách. Cán bộ chuyên trách
là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc công để thực
hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử và cán
bộ chuyên môn được uỷ ban nhân dân tuyển.
Qua nghiên cứu Luật CBCC năm 2008 và tình hình thực tế tại địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và quận 6 nói riêng, hiện nay, cán bộ
chuyên trách cơ sở gồm:
+ Cán bộ:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam)
11


h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam
+ Công chức có các chức danh sau đây:
a) Trưởng Công an
b) Chỉ huy trưởng Quân sự
c) Văn phòng - thống kê
d) Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã)
đ) Tài chính - kế toán
e) Tư pháp - hộ tịch
g) Văn hóa - xã hội
1.1.1.2. Đào tạo - bồi dưỡng
“Đào tạo” và “bồi dưỡng” là các thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến
trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các tài liệu nghiên cứu ở
nước ta, tuy nhiên cách tiếp cận này cũng theo nhiều chiều khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn

Quốc gia năm 2005: thì thuật ngữ “đào tạo” là làm cho trở thành người có
năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định; “bồi dưỡng” là làm cho năng lực
hoặc phẩm chất của người đó tăng thêm.
“Bồi dưỡng”, theo Đại từ điển do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên có nghĩa:
1. Làm khoẻ thêm, mạnh thêm (bồi dưỡng sức khoẻ); 2. Nghĩa là làm cho một
ai đó tốt hơn, trở nên giỏi hơn (ví dụ: bồi dưỡng nghiệp vụ, bồi dưỡng đạo
đức).
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “bồi dưỡng” được
định nghĩa: 1. Làm cho tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ; 2. Làm cho
tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất.
Điều 5 Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ
về ĐTBD công chức giải thích: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có
12


hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc
học” và “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ
năng làm việc”.
Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức phân biệt giữa đào tạo và bồi
dưỡng. Việc “đào tạo” thực hiện theo quy định của pháp luật về giáo dục và
đào tạo; có hình thức đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và đào tạo
sau đại học. Việc “bồi dưỡng” được thực hiện theo yêu cầu vị trí việc làm, bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành bắt buộc hàng năm với thời gian thực
hiện tối thiểu là tuần/năm; một tuần được tính bằng ngày học, một ngày học
08 tiết. Nội dung “bồi dưỡng” bao gồm: Lý luận chính trị, kiến thức quốc
phòng và an ninh, kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước, kiến thức quản lý
chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp vụ; đạo đức công vụ, đạo đức nghề
nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế, tiếng dân tộc, tin học, ngoại ngữ.
Thực tế “đào tạo”, “bồi dưỡng” bao giờ cũng gắn với một chủ thể nhất

định, trong đó có những yếu tố như: kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm… và
những yếu tố phải tự rèn luyện, tự tích lũy bao gồm cách ứng xử, giao tiếp,
thái độ, đạo đức công vụ, các mối quan hệ khi làm việc. Có thể nói, đào tạo và
bồi dưỡng tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng nó cùng một mục đích
chung, làm cho người lao động có năng lực công tác và năng lực ấy ngày
càng cao hơn, phát triển hơn. Trên thực tế rất khó phân chia đào tạo và bồi
dưỡng bởi lẽ giữa chúng có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau.
Qua các phân tích trên, có thể hiểu: “Đào tạo” là quá trình trang bị
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp thích hợp để người được đào tạo có thể
đảm nhận được một công việc nhất định; “Bồi dưỡng” là quá trình nâng cao
kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở của mặt bằng kiến thức đã được
đào tạo trước đó.
13


1.1.1.3. Chính sách và thực hiện chính sách
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, có thể có các định nghĩa khác nhau
về chính sách:
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam do Viện Hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam biên soạn đã định nghĩa: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ, được thực hiện trong thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng
của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa.”[35]
Theo Hugh Hecslo (1972) định nghĩa: “Một chính sách có thể được
xem như là một đường lối hành động hoặc không hành động thay vì những
quyết định hoặc các hành động cụ thể”.
Theo Atkinson cho rằng, chính sách là một cấu trúc lý thuyết, là một
chuỗi hành động, nhưng đó là hành động nhằm níu giữ cả hai hệ thống giá trị
tương quan với các mục tiêu công và chuỗi niềm tin về cách tốt nhất nhằm đạt

được mục tiêu đó.
Theo Glen Milme thì mô tả, chính sách là quyết tâm và định hướng.
Chính sách định hướng, nhưng không bao gồm các chương trình và chi tiết
hành động.
Theo giáo trình hoạch định và phân tích chính sách của Học viện hành
chính quốc gia (2008) thì “Chính sách được hiểu là những hành động ứng xử
của chủ thể với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển
nhằm đạt mục đích tiêu chuẩn nhất định” [12,tr.19].
Từ những nhận định trên, có thể hiểu “Chính sách là chương trình hành
động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào
đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình”.

14


“Tổ chức thực hiện chính sách” là một khâu hợp thành chu trình chính
sách, nếu thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính sách không thể tồn tại,
là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện
thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng, dùng nối kết
các bước trong chu trình chính sách thành một hệ thống xuyên suốt, hoàn
chỉnh, nhất là với hoạch định chính sách, là các quyết định đưa chính sách vào
thực tế, đó là quyết định lập kế hoạch về các nguồn lực, về các bên tham gia.
So với các khâu khác trong chu trình chính sách, tổ chức thực hiện
chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng vì đây là bước hiện thực hóa chính
sách trong đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động triển khai, phối hợp thực
hiện, kiểm tra đôn đốc và hiệu chỉnh chính sách cùng các biện pháp tổ chức
thực hiện để chính sách phát huy tác dụng trong cuộc sống. Việc tổ chức thực
hiện chính sách có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một chính sách.
Tổ chức thực hiện chính sách tốt không những mang lại lợi ích to lớn cho các
nhóm đối tượng thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước

trong quá trình quản lý xã hội. Các nhà hoạch định phải trãi qua một quá trình
nghiên cứu, tìm kiếm công phu để có được một chính sách tốt, Nhưng nếu
chính sách không được đưa vào thực hiện thì chính sách cũng trở thành vô
nghĩa.
Chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở là một tập hợp các quyết
định chính trị có liên quan của nhà nước về ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở
nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ chính sách để giải
quyết vấn đề về ĐTBD theo mục tiêu tổng thể của Đảng và Nhà nước đã xác
định. Chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở gồm có các bộ phận hợp
thành quan trọng là: những đường hướng, hành động hay còn gọi là những
quan điểm, định hướng, mục tiêu và biện pháp thực hiện nhằm trang bị kiến
thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của
15


CBCT cấp cơ sở, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả
ĐTBD góp phần xây dựng đội ngũ CBCT mang tính chuyên nghiệp, có đủ
phẩm chất, trình độ và năng lực thực hiện định hướng phát triển nền hành
chính tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát
triển đất nước và hội nhập quốc tế theo mục tiêu đã xác định.
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối
với cán bộ chuyên trách cơ sở là tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà
nước nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ chính sách để đào tạo, bồi
dưỡng đối với cán bộ chuyên trách cơ sở, góp phần nâng cao khả năng thực
thi công vụ, năng lực lãnh đạo quản lý một cách có hiệu quả, từng bước đào
tạo, bồi dưỡng phát triển kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng khiếu cá
nhân, các yếu tố tiềm năng để nâng cao năng lực làm việc.
Thực hiện chính sách ĐTBD đối với cán bộ chuyên trách cơ sở là toàn
bộ quá trình chuyển hóa ý chí của Nhà nước về ĐTBD đối với cán bộ chuyên
trách cơ sở thành hiện thực đến với các đối tượng quản lý CBCT cơ sở nhằm

đạt mục tiêu ĐTBD đối với cán bộ chuyên trách cơ sở, góp phần nâng cao khả
năng thực thi công vụ, năng lực lãnh đạo quản lý một cách có hiệu quả, từng
bước ĐTBD phát triển kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng khiếu cá nhân,
các yếu tố tiềm năng để nâng cao năng lực làm việc.
1.1.2. Nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách
cơ sở
Thực hiện chính sách ĐTBD cán bộ để xây dựng đội ngũ CBCC nói
chung, cán bộ chuyên trách cơ sở nói riêng có năng lực, có chuyên môn giỏi,
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ quản lý xã hội là vấn đề cần thiết và cấp
bách. Nếu không tập trung thực hiện chính sách ĐTBD năng lực của chủ thể
này, chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công việc, mất lòng tin của
người dân. Đặc biệt khi Việt Nam đã bước vào và đang hòa nhịp cùng sự vận
16


hành của nền kinh tế thế giới (WTO), khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đang phát triển, mở ra cho Việt Nam những cơ hội mạnh mẽ và
toàn diện. Điều đó, đòi hỏi lực lượng CBCT cơ sở đủ mạnh để thực hiện
nhiệm vụ để nâng cao chất lượng cả về năng lực, phẩm chất đạo đức tương
xứng, đáp ứng được sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội là vấn đề
cần thiết. Do vậy, nội dung thực hiện chính sách ĐTBD cần được tiến hành
trên tất cả các mặt:
1.1.2.1. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị
Trình độ chính trị là mức độ hiểu biết về lý luận chính trị của người cán
bộ, tạo nên phẩm chất của người cán bộ. Hiện nay, trình độ chính trị của
người cán bộ được đánh giá chủ yếu bằng 3 mức độ: Sơ cấp, trung cấp, cao
cấp. Trình độ chính trị là cơ sở để người cán bộ giác ngộ lý tưởng cộng sản,
có bản lĩnh chính trị vững vàng. Nhận thức được tầm quan trọng của những lý
luận chính trị cơ bản trong giai đoạn hiện nay, nội dung ĐTBD về lý luận
chính trị cần quan tâm thực hiện nhằm nâng cao hiểu biết cho đội ngũ CBCT

về lý luận chính trị cũng như về Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong quá trình làm việc cũng như trong thực tế cuộc sống. Cán bộ một
mặt phải giỏi chuyên môn, mặt khác phải am tường về lý luận bởi đây là
những người gần dân, sát dân, trực tiếp triển khai đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước đến Nhân dân; trực tiếp là cầu nối giữa hệ thống
chính trị với Nhân dân, giữ vai trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh quần
chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, xây dựng nội bộ vững
mạnh toàn diện.
1.1.2.2. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người cán bộ là mức độ kiến thức
và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của chức danh công việc theo quy
định. Thể hiện qua bằng cấp chuyên môn được đào tạo, bao gồm: đào tạo
17


trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học cho CBCT cơ sở phù hợp
với điều kiện và yêu cầu phát triển của địa phương gắn với quy hoạch sử dụng
lâu dài đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, sự nghiệp
CNH-HĐH và hội nhập quốc tế. Cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước
luôn đòi hỏi có một trình độ, năng lực cũng như phẩm chất cao hơn so với
làm việc trong các lĩnh vực khác. Bởi nhà nước ta là một nhà nước của dân,
do dân và vì dân, đó là công bộc của dân, phải vì lợi ích của dân mà hoạt
động. Để làm được như vậy, cần thường xuyên ĐTBD về chuyên môn nghiệp
vụ để CBCT được rèn luyện từ đó không gặp khó khăn trong quá trình làm
việc. Công tác ĐTBD cũng giúp cho người CBCT linh hoạt, chủ động hơn
trong việc xử lý những vấn đề phát sinh trong công việc.
1.1.2.3. Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước
Mặc dù số lượng CBCT những năm gần đây được ĐTBD tăng lên,
nhưng chất lượng và hiệu quả thực thi công vụ nhìn chung chưa đáp ứng với
yêu cầu mới; Tình trạng CBCT làm việc không theo chuyên môn đào tạo còn

nhiều. Thêm vào đó, việc ĐTBD đối với CBCT chưa được thực hiện đồng bộ,
mới chỉ đào tạo về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú ý
bồi dưỡng về trình độ quản lý nhà nước, kỹ năng “mềm”, kỹ năng quản lý
điều hành, tổ chức thực hiện, nhất là xử lý những tình huống trong thực tiễn.
Mức độ hài lòng của công dân đối với hoạt động bộ máy nhà nước vẫn bị
đánh giá là chưa cao. Vì thế, nội dung chính sách ĐTBD phải bồi dưỡng
những kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn chức danh CBCT,
tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, cập nhật kiến thức kỹ năng, phương pháp quản
lý, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao, cập nhật kiến thức
pháp luật, văn hóa công sở, nâng cao ý thức đạo đức công vụ, đạo đức nghề
nghiệp.
1.1.2.4. Thực hiện đào tạo bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ
18


Chúng ta đang sống trong một thời đại mà nhịp độ thay đổi diễn ra với
tốc độ chóng mặt – đó là thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, tiến tới Chính
phủ điện tử và hội nhập quốc tế. Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm và đầu
tư mạnh cho công tác ĐTBD về tin học và ngoại ngữ cho đội ngũ CBCT, việc
sử dụng thành thạo tin học và ngoại ngữ là một lợi thế rất lớn đối với CBCT.
Việc ĐTBD tin học và công nghệ thông tin cần có kế hoạch phương pháp
riêng cho CBCT. Do vậy nội dung chính sách ĐTBD, cụ thể là việc ĐTBD
ngoại ngữ, tin học cần được chú trọng thực hiện và ngày càng đi vào chiều
sâu, đặc biệt là đối với CBCT cơ sở.
1.1.3. Vai trò của thực hiện chính sách sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chuyên trách cơ sở
Trong nền hành chính nhà nước, chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp
cơ sở có vai trò rất quan trọng, là nền tảng trọng yếu của thể chế hành chính,
là cơ sở chi phối các yếu tố khác cấu thành của nền hành chính như: bộ máy
hành chính, đội ngũ CBCC, tài chính công… Ở nước ta, với hoạt động quản

lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
thì chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở là công cụ tiền đề đưa đất nước
phát triển, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Điều đó lý
giải tại sao trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước luôn đặt quan tâm
đến việc nâng cao vai trò của thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp
cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng, đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới nói chung.
1.1.3.1. Thực hiện chính sách nhằm biến ý đồ chính sách thành hiện thực
Chính sách công là chính sách của nhà nước nhằm thực hiện chức năng
quản lý các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước vì
mục tiêu bảo vệ địa vị thống trị. Do vậy, việc thực hiện chính sách công là
chuyển tải ý đồ của giai cấp cầm quyền, giai cấp lãnh đạo thông qua nhà nước
19


bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong quá trình quản lý, điều hành nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, nhà nước phải đối xử với nhiều đối tượng, nhiều
thành phần, nhiều giai cấp tầng lớp khác nhau. Trong hàng loạt các đối tượng
có quan hệ với nhà nước là hoàn toàn không giống nhau: có những đối tượng
quan hệ với nhà nước là đồng sở hữu như các đối tượng thuộc thành phần
kinh tế nhà nước; có những đối tượng mà tính chất sở hữu gần với sở hữu nhà
nước, được nhà nước kết hợp với thành phần kinh tế nhà nước để xây dựng
thành nền tảng của nền kinh tế; có đối tượng mang tính chất kinh tế tư hữu,
liên doanh liên kết đan xen tạo nên sự chằng chịt của nền kinh tế quốc gia.
Trong hệ thống các thành phần hiện có, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
mang đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội. Để phát huy tác dụng của các đối
tượng trong quá trình vận động đến mục tiêu, nhà nước phải có thái độ ứng xử
một cách thích hợp với mỗi vấn đề phát sinh thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau. Trong quản lý xã hội, công cụ được nhà nước dùng để biểu hiện
thái độ ứng xử của mình đến các đối tượng quản lý là chính sách. Tùy theo

yêu cầu quản lý phát triển nền kinh tế ở từng thời kỳ, nhà nước chủ động ban
hành các chính sách để thể hiện ý chí trong quan hệ với các thành phần kinh
tế theo mục tiêu.
Thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCT cấp cơ sở là cách để Nhà
nước xây dựng, nâng chất, phát triển đội ngũ CBCT cơ sở, xây dựng được đội
ngũ CBCT thực sự có năng lực, biết giải quyết các vấn đề được giao trên
nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước.
1.1.3.2. Thực hiện chính sách nhằm từng bước thực hiện các mục tiêu chính
sách và mục tiêu chung
Mục tiêu chính sách công có liên quan đến nhiều hoạt động chính trị,
kinh tế, xã hội theo những cấp độ khác nhau, nên không thể cùng một lúc giải
20


quyết tất cả các vấn đề có liên quan và cũng không thể đốt cháy giai đoạn của
mỗi quá trình. Thực hiện chính sách ĐTBD để giải quyết các vấn đề, để thúc
đẩy quá trình vận động của cả hệ thống đến mục tiêu đề ra. Xuất phát từ quan
điểm cán bộ là nhân tố quyết định thành công hay thất bại của sự nghiệp cách
mạng, “cán bộ là cái gốc của mọi việc”, là nhân tố quyết định hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và chăm lo
xây dựng đội ngũ CBCC nói chung và CBCT cơ sở nói riêng gắn với giải
quyết nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt trong giai
đoạn CNH-HĐH và hội nhập quốc tế cũng như trong thời kỳ cách mạng công
nghiệp 4.0 hiện nay.
Để phấn đấu cho mục tiêu này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách, trong đó có chính sách ĐTBD đối với CBCT cơ sở. Thực tế đó cho thấy,
mục tiêu chính sách công chỉ có thể đạt được thông qua thực hiện chính sách,
đồng thời giữa các mục tiêu chính sách công có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng
rất lớn đến nhau và đến mục tiêu chung. Như vậy, mục tiêu của quốc gia

mang lại là mục tiêu chiến lược, lâu dài thì mục tiêu của các chính sách công
là mục tiêu chiến thuật, ngắn hạn. Mục tiêu của các chính sách công phải từng
bước thực hiện mục tiêu của quốc gia, góp phần thực hiện mục tiêu quốc
gia. Tùy theo từng mục tiêu, từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của đất
nước mà trong triển khai thực hiện chính sách ĐTBD hiện nay Đảng và Nhà
nước ta đã sử dụng phong phú, linh hoạt các loại công cụ nhằm thực hiện tốt
nhất các giải pháp đã đặt ra cũng như có sự thay đổi, điều chỉnh các chính
sách, qua đó định hướng, tập trung ĐTBD trang bị những trình độ, kiến thức,
đạo đức công vụ, kỹ năng cần thiết cho CBCT cơ sở để ngày càng nâng cao,
thích nghi với yêu cầu quản lý, điều hành của từng địa phương cũng như thích
nghi cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
1.1.3.3. Thực hiện chính sách nhằm khẳng định tính đúng đắn của chính sách
21


Một khi chính sách ĐTBD được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời
sống xã hội, thì tính đúng đắn của chính sách được khẳng định ở mức cao
hơn, được cả xã hội thừa nhận, nhất là các đối tượng thực hiện chính sách,
chủ thể chính sách, các đối tượng thụ hưởng chính sách. Qua việc thực hiện
chính sách sẽ góp phần hoàn chỉnh mục tiêu, các nội dung chính sách đề ra.
1.1.3.4. Thực hiện chính sách nhằm góp phần hoàn thiện chính sách
Chính sách ĐTBD được hoạch định bởi nhiều chủ thể, một tập thể
trong những điều kiện nhất định. Đặc biệt chính sách ĐTBD khi triển khai bị
tác động rất lớn bởi yếu tố: yếu tố bên trong, yếu tố bên ngoài, yếu tố môi
trường, do đó khi thực hiện nó có thể không đảm bảo với mục tiêu ban đầu.
Khi chính sách ĐTBD hoạch định còn bị tác động bởi các yếu tố như: lợi ích
của các chủ thể hoạch định, ý chí chủ quan của chủ thể đứng đầu, cơ chế của
hệ thống cơ quan hoạch định, thể chế chính trị của quốc gia, tác động của các
nhóm lợi ích… những yếu tố này không phải chỉ ảnh hưởng đến quá trình
hoạch định chính sách, mà còn tác động qua nhiều quá trình như: phân tích,

dự báo, lựa chọn để có được mục tiêu, biện pháp chính sách. Đồng thời, các
quá trình kinh tế, xã hội lại thường xuyên vận động, phát triển, trong khi
chính sách được hoạch định lại dựa chủ yếu vào thực trạng của môi trường
sống và có khoảng cách khá lớn về thời gian kể từ khi hoạch định đến lúc tổ
chức thực hiện. Để việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCT đáp ứng đúng
trong thực tế cần kịp thời có những thay đổi, điều chỉnh cũng như có những
biện pháp thực hiện phù hợp.

22


1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với
cán bộ chuyên trách cấp cơ sở
1.2.1. Mục tiêu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ
chuyên trách cấp cơ sở
Mục tiêu thực hiện chính sách ĐTBD CBCT cấp cơ sở là nhằm nâng
cao chất lượng của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở; bên
cạnh những kiến thức về chuyên môn, CBCT cần phải trang bị kiến thức, kỹ
năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ, góp phần xây dựng đội ngũ
CBCT cơ sở chuyên nghiệp có đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên tiến,
hiện đại.
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả, qua ĐTBD
góp phần xây dựng đội ngũ CBCT cơ sở có đủ tiêu chuẩn chức danh CBCT,
đủ trình độ, bản lĩnh lãnh đạo, quản lý và thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ
trên các lĩnh vực ở cơ sở, khả năng giải quyết công việc nhanh nhạy nhằm
hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ CNHHĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ
chuyên trách cấp cơ sở
1.2.2.1.Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở phải dựa trên nguyên tắc vì cộng đồng người dân

Đội ngũ CBCT cơ sở có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, cán bộ càng
giỏi, càng có trình độ thì khả năng giải quyết công việc càng hiệu quả. Bởi
đây là những người gần dân, sát dân, trực tiếp triển khai đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước đến Nhân dân, vận động nhân dân cùng
thực hiện; trực tiếp là cầu nối giữa hệ thống chính trị với Nhân dân, giữ vai
trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng thực hiện nhiệm vụ
chính trị của địa phương, xây dựng nội bộ vững mạnh toàn diện. Một thực tế
23


khác cho thấy CBCT cơ sở hàng ngày phải tiếp xúc với nhân dân, giải quyết
những công việc sát với quyền lợi của người dân, thường xuyên nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân. Để xây dựng được đội ngũ CBCT có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao,
tận tụy phục vụ nhân dân, bên cạnh các khía cạnh khác nhau của công tác tổ
chức cán bộ còn cần phải có các hình thức ĐTBD phù hợp, hiệu quả. Có thể
thấy mục đích của chính sách ĐTBD nhằm xây dựng được đội ngũ CBCT
thực sự có năng lực, biết giải quyết các vấn đề được giao trên nguyên tắc kết
quả, hiệu quả và chất lượng. Đây là điều kiện quan trọng, mang tính quyết
định đến khả năng phân tích, luận giải những vấn đề thực tiễn từ những chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào
thực tiễn của đơn vị, của lĩnh vực mà cá nhân đang được phân công phụ trách.
Thông qua ĐTBD giúp cán bộ có thể xử lý các tình huống, hình thành phương
pháp nhận thức khoa học và giải quyết các vấn đề nhanh nhạy và đạt hiệu quả
cao nhất, phục vụ tốt nhất cho người dân, cho cộng đồng - đối tượng được thụ
hưởng từ chính sách.
Do vậy, thực hiện chính sách ĐTBD CBCT cơ sở phải dựa trên nguyên
tắc lợi ích cộng đồng, lợi ích nhân dân để có kế hoạch, lộ trình, cách thức thực
hiện hiệu quả, từng bước nâng cao được mức độ hài lòng của công dân về chỉ
số cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng.

1.2.2.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở phải dựa trên nguyên tắc quản lý và bắt buộc
Ở nguyên tắc này là nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chính sách
ĐTBD đạt được mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Việc chế tài cũng được cân
nhắc theo nguyên tắc này để đảm bảo thực hiện chính sách ĐTBD CBCT là
một chương trình có ích đối với đối tượng thụ hưởng và các đối tượng có liên
quan đến chính sách. Tuy nhiên, cũng có một số đối tượng được hưởng lợi từ
24


chính sách không chấp hành, ảnh hưởng đến mục tiêu của chính sách và cần
áp dụng nguyên tắc này trong thực hiện chính sách.
1.2.2.3. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở phải dựa trên nguyên tắc hệ thống
Chính sách luôn là một tập hợp các quyết định kèm theo hành động của
các bên: nhà nước, người dân, doanh nghiệp mà không phải là một quyết định
đơn lẻ. Chính sách ĐTBD CBCT được xây dựng theo hệ thống đó là: Xuất
hiện nhu cầu của CBCT trong ĐTBD để nâng cao trình độ; các cơ quan nhà
nước cấp trên ra quyết định chính sách khi thấy hợp lý và hợp pháp; sau khi ra
quyết định sẽ công bố chính sách; tổ chức triển khai thực hiện là bước tiếp
theo; cuối cùng là đánh giá, xác định hiệu quả chính sách ĐTBD CBCT.
1.2.2.4. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở phải dựa trên nguyên tắc tập hợp các quyết định
Các quyết định trong chính sách có liên quan và gắn bó mật thiết với
nhau, trong quá trình xây dựng chính sách ĐTBD CBCT, đã có rất nhiều
những quyết định liên quan nhằm làm cho chính sách có sự ràng buộc lẫn
nhau về mặt pháp lý, đảm bảo được trách nhiệm của các bên liên quan trong
khâu thực hiện chính sách trong thực tiễn.
1.2.2.5. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở phải dựa trên nguyên tắc liên đới

Chính sách ĐTBD CBCT là một nội dung trong chính sách phát triển
cán bộ chuyên trách cơ sở, chính vì vậy mà nó liên quan đến rất nhiều các
chính sách khác nên khi xây dựng chính sách các nhà hoạch định chính sách
cũng cần quan tâm đến việc tham khảo những nội dung trong chính sách khác
nhằm bổ sung, khắc phục những nhược điểm của chính sách.
1.2.2.6. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách
cấp cơ sở phải dựa trên nguyên tắc kế thừa lịch sử
25


×