Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn tạm giam trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.77 KB, 89 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
luận, số liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ tin cậy./.

Xác nhận của giảng viên
hướng dẫn

1

Tác giả


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Luật Hà
Nội, các thầy cô Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ, nhân
viên Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội- những người đã tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu và viết luận văn tại
Trường.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
đến Cô giáo- Tiến sỹ ….- người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện công
trình nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè- những người đã
luôn ở bên động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2016
Tác giả

2


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………01
Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM…………………………………………………..07
1.1.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam……………………………...07

1.2.

Ý nghĩa của tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam………………...10

Kết luận chương 1………………………………………………………………..14
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TẠM GIAM...........................................……………………………………..15
2.1. Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về tạm giam
trước khi có BLTTHS.............................................................................................15
2.2. Quy định của BLTTHS năm 1988 về tạm giam.........................................17
2.3. Quy định của BLTTHS năm 2003 về tạm giam.........................................20
2.4. Quy định của BLTTHS năm 2015 về tạm giam.........................................23
Kết luận chương 2………………………………………………………………..47
Chương 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HOÀN THIỆN BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG
TTHSVN.................................................................................................................48
3.1. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam..................................48
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam..................................................................................................................71
Kết luận chương 3………………………………………………………………..80
KẾT LUẬN………………………………………………………………………81

3



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ:
Quyền tự do dân chủ của công dân là một quyền năng bất khả xâm phạm. Với
bản chất là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta
đã ban hành rất nhiều đạo luật để bảo vệ quyền năng này. Tuy nhiên, để đảm
bảo cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay, đồng
thời, nhằm đảm bảo cho quá trình tiến hành tố tụng cũng như giải quyết vụ án
được kịp thời, nhanh chóng, đảm bảo sự công bằng trong xã hội thì việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự là
một hoạt động hết sức quan trọng, góp phần đảm bảo cho hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án được tiến hành một cách thuận lợi; hạn chết tình trạng trốn tránh pháp luật
cũng như cản trở hoạt động điều tra của những đối tượng đang bị tình nghi
thực hiện hành vi phạm tội cũng như của bị can, bị cáo.
Trong số các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS thì tạm
giam là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc nhất. Chính vì lẽ đó mà
việc áp dụng biện pháp này cần hết sức thận trọng vì nếu tạm giam không có
căn cứ hoặc oan sai thì có thể dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng,
xâm phạm trực tiếp đến quyền tự do, bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân đã được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Ngược lại, nếu không tạm giam
bị can, bị cáo mà để họ được tự do ngoài vòng pháp luật, họ sẽ gây cản trở
cho các hoạt động tố tụng, hoặc cá biệt hơn nữa, họ lại tiếp tục phạm tội. Điều
này không những ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án mà còn gây ảnh
hưởng đến tình hình trị an toàn xã hội.
Thực tiễn cho thấy, kể từ khi BLTTHS ra đời, biện pháp ngăn chặn tạm
giam đã được quy định một cách khá cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi
cho người áp dụng luật. Từ đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng dễ dàng


4


hơn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Nhưng một thực
trạng đáng phải suy ngẫm rằng tình trạng vi phạm các quy định pháp luật về
tạm giam như tạm giam không đúng đối tượng dẫn đến trả tự do vì không
phạm tội, tạm giam sai thủ tục, sai thẩm quyền … vẫn đang diễn ra hết sức
phức tạp, nó là nguyên nhân làm giảm chất lượng hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nguyên
nhân của vấn đề trên phải kể đến trước hết là do các quy định của BLTTHS
còn nhiều kẽ hở, chưa chặt chẽ, dẫn đến các cách hiểu chưa đúng trong việc
áp dụng biện pháp này. Bên cạnh đó phải nói đến trình độ năng lực của những
người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam…
Xuất phát từ thực tiễn nói trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tạm giam trong
tố tụng hình sự Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ luật học,
nhằm đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của
BLTTHS về biện pháp ngăn chặn này. Đồng thời, để thực hiện tốt nhiệm vụ
đấu tranh phòng chống tội phạm mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra thì việc
nghiên cứu một cách đồng bộ và toàn diện biện pháp ngăn chặn tạm giam về
mặt lý luận cũng như thực tiễn là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn nhằm đảm
bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong
các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, góp phần giải quyết nhanh chóng, kịp
thời các vụ án hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để phục vụ cho công cuộc cải cách tư pháp cũng như nâng cao hiệu quả
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, trong những năm qua đã có rất
nhiều các sách báo đề cập đến biện pháp ngăn chặn này, có thể kể tới như hệ
thống các giáo trình luật: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của trường Đại học
Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Khoa Luật – Đại học Quốc

gia Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Khoa Luật – Học viện An
ninh… hay cuốn “ Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề nâng cao hiệu quả của

5


chúng” của tác giả Nguyễn Vạn Nguyên (Nhà xuất bản Công an nhân dân,
1995)… Ngoài ra còn có nhiều bài viết về các biện pháp ngăn chặn nói chung
và biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng trên các Tạp chí Luật học, Tạp chí
Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Khoa học pháp lý như: “Sửa đổi,
bổ sung các quy định của BLTTHS về những biện pháp ngăn chặn” của tác
giả Mai Bộ (2007), “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn” của tác giả Vũ Gia
Lâm (2012), “Những vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo quy định của BLTTHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung” của tác giả Phùng
Văn Tài (2012)… Bên cạnh đó, không thể không kể đến các công trình
nghiên cứu khoa học chuyên sâu đề cập đến biện pháp ngăn chặn tạm giam
như: Luận án Tiến sỹ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong
Tố tụng hình sự Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” (năm
2005) của tác giả Nguyễn Văn Điệp; Khóa luận tốt nghiệp “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt
Nam” (năm 2011) của tác giả Đàm Thị Trang….
Có thể nói rằng, những công trình nghiên cứu trên đã đóng góp một phần
đáng kể trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về
biện pháp ngăn chặn tạm giam, đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng cách quy
định này trên thực tiễn. Tuy nhiên, những vấn đề chung về các biện pháp ngăn
chặn đã được nhiều tác giả nghiên cứu, còn việc đi sâu nghiên cứu về mặt lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng chỉ riêng biện pháp ngăn chặn tạm giam
trong tố tụng hình sự Việt Nam, để từ đó tìm ra những hạn chế, thiếu sót trong
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này dưới góc độ của một luận văn Thạc sỹ

thì chưa có công trình nào nghiên cứu. Trong phạm vi luận văn của mình, tác
giả chủ yếu nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn tạm giam dưới góc độ là một
chế định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, chỉ ra những điểm mới về
biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định trong BLTTHS năm 2015, so

6


sánh với quy định của các BLTTHS trước đó; chỉ ra những vướng mắc, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật về biện pháp ngăn chặn tạm giam, nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp này trong thực tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn đưa ra
một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp
ngăn chặn này trong thực tiễn.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần hoàn thiện những nhiệm vụ
sau:
Một là: Phân tích bản chất, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Hai là: Phân tích quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn tạm giam
trước và sau khi có BLTTHS. Đặc biệt là phân tích những điểm mới của biện
pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015, so sánh với
các BLTTHS trước đó.
Ba là: Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật,
đưa ra nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam trong những năm gần đây (2011-2015).
Bốn là: Đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong thực tiễn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và những quy
định của BLTTHS về biện pháp ngăn chặn tạm giam; thực trạng áp dụng
những quy định này trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề chung và các quy định
của BLTTHS về biện pháp ngăn chặn tạm giam; thực trạng áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam trên cả nước trong những năm gần đây (2011-2015).

7


5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, luận văn đã vận dụng các phương pháp luận của triết
học Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan
điểm của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Bên cạnh đó, luận văn được hoàn thành dựa trên các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp,
thống kê số liệu; tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu lý luận và các cán
bộ làm thực tiễn. Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của khoa
học Luật Hình sự, Luật TTHS, tham khảo các công trình nghiên cứu của các
tác giả…Đồng thời, tác giả còn nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết của Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về công tác tư
pháp, việc thực hiện các hoạt động TTHS về biện pháp ngăn chặn tạm giam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu sâu những vấn đề chung liên quan đến biện pháp
ngăn chặn tạm giam, luận văn sẽ xây dựng khái niệm khoa học về biện pháp
ngăn chặn này, chỉ ra những ý nghĩa quan trọng của biện pháp ngăn chặn tạm
giam đối với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam trong những năm gần đây, luận văn chỉ ra những kết quả và theo đó
là những bất cập, tồn tại trong thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này, từ

đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị phù hợp nhất. Từ đó, tạo tài liệu tham
khảo trong quá trình lập pháp tố tụng hình sự, cũng như trong quá trình áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm hai chương:
Chương I- Khái niệm và ý nghĩa của tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt
Nam.

8


Chương II- Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về tạm
giam.
Chương III- Thực trạng áp dụng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện
biện pháp ngăn chặn tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam.

9


CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA TẠM GIAM TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam

Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất và có tầm
quan trọng đặc biệt. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này tạo điều kiện

thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án,
ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời gian qua, việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn này đã góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn
tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật và gây khó khăn cho
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, đây là biện pháp ngăn chặn tác
động trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người, vì vậy,
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đòi hỏi phải tuân thủ chặt chẽ các
quy định của pháp luật, nhằm tránh gây ra những hậu quả xấu trong việc bảo
đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, đồng thời tránh ảnh hưởng đến
hiệu lực pháp luật, làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp
luật.
Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nói chung cũng như biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng vừa đảm bảo
tính hợp pháp, tránh tình trạng lạm quyền, oan sai nhưng đồng thời cũng phải
đảm bảo không gây ra khó khăn, cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Để đạt được mục đích
này, trước hết cần làm rõ khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố
tụng hình sự.
Hiện nay, tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm biện pháp
ngăn chặn tạm giam nhưng chưa thực sự đầy đủ, nội hàm của các khái niệm
đó vẫn chưa bảo hàm được hết đối tượng áp dụng, thầm quyền áp dụng, căn

10


cứ áp dụng cũng như mục đích của biện pháp ngăn chặn này. Tác giả có thể
đưa ra ba khái niệm thể hiện ba quan điểm điển hình như sau:
Khái niệm 1: “Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất để
cách ly người bị tạm giam với xã hội trong một thời gian nhất định, hạn chế
một số quyền công dân, do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng

đối với bị can, bị cáo phạm tội trong những trường hợp nghiêm trọng hoặc bị
can, bị cáo phạm tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên một năm
và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội”1. Tác giả cho rằng, đây là một khái niệm diễn
giải khá đầy đủ về biện pháp ngăn chặn tạm giam, đã bao gồm bản chất, đối
tượng, thẩm quyền, căn cứ áp dụng về biện pháp ngăn chặn này. Tuy nhiên,
về mặt thẩm quyền áp dụng, khái niệm này cho rằng chủ thể có thẩm quyền
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án là chưa chính xác, bởi lẽ, các cơ quan tiến hành tố tụng đều thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua những chủ thể cụ thể nhất định chứ
bản thân các cơ quan này không thể thực hiện được. Đồng thời, khái niệm
trên bám khá sâu vào các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Vậy đặt ra vấn đề là khi có sự sửa đổi, bổ sung về các căn cứ áp dụng để phù
hợp với thực tiễn thì vô hình chung khái niệm này không còn phù hợp nữa.
Khái niệm 2: “Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội
trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thuận lợi”2. Đây là một
khái niệm tương đối ngắn gọn, tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này đã nêu
lên được khá nhiều vấn đề, trong đó có nêu được bản chất và đối tượng áp
1 Nguyễn Duy Lãm (chủ biên), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo dục, năm
1998.
2 PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học Luật hình
sự, Luật tố tụng hình sự, Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 1999.

11


dụng của tạm giam là “biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời
gian nhất định” và mục đích của tạm giam là “nhằm ngăn chặn hành vi trốn
tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thuận

lợi”. Mặc dù không đề cập một cách rõ ràng nhưng có thể hiểu rằng khái niệm
trên đã gián tiếp đề cập đến cả thẩm quyền áp dụng tạm giam đó là những
người có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và cả thi hành
án. Tuy nhiên, khái niệm trên vẫn chưa đề cập đến thủ tục và căn cứ áp dụng
biện pháp tạm giam. Theo tác giả, việc khái niệm trên không đề cập đến các
căn cứ, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam là để tránh hạn chế đã phân tích
tại khái niệm 1, đó là việc các căn cứ áp dụng sẽ không còn phù hợp khi có
luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung. Nếu như khái niệm trên có đề cập đến thủ tục
và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam được quy định trong BLTTHS thì khái
niệm gần như hoàn hảo.
Khái niệm 3: “Tạm giam là biện pháp tước bỏ sự tự do có thời hạn do Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội
trong trường hợp nghiêm trọng hoặc về tội có hình phạt tù trên một năm và
có căn cứ để cho rằng nếu bị can, bị cáo được trả tự do họ có thể trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội”3. Khái niệm này
cũng chỉ ra bản chất của tạm giam là “biện pháp tước bỏ sự tự do có thời
hạn”, đối tượng áp dụng là “bị can, bị cáo” thẩm quyền áp dụng “do Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”, căn cứ áp dụng “phạm tội trong trường hợp
nghiêm trọng hoặc về tội có hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho
rằng nếu bị can, bị cáo được trả tự do họ có thể trốn hoặc cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội”. Nội hàm khái niệm này cũng tồn
tại những hạn chế như khái niệm 1. Theo đó, việc đưa ra thẩm quyền áp dụng

3 Tiến sĩ Đào Trí Úc (chủ biên), Tội phạm học, luật Hình sự và luật Tố tụng hình sự, Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, năm 1999.

12


chưa chính xác, việc đưa căn cứ áp dụng cụ thể vào trong khái niệm sẽ tạo ra

sự không phù hợp khi luật sửa đổi, bổ sung hoặc thay mới.
Tác giả cho rằng, để đưa ra một khái niệm đầy đủ về biện pháp ngăn chặn
tạm giam cần đưa ra được đầy đủ bản chất, thẩm quyền, căn cứ và mục đích
áp dụng của biện pháp này. Theo đó, tác giả đưa ra quan điểm của mình về
biện pháp ngăn chặn này như sau: “Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có những căn cứ do Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định, nhằm ngăn chặn việc họ có thể gây cản trở
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội”.
Tác giả cho rằng đây là một khái niệm hợp lý hơn cả vì đã khắc phục được
những hạn chế của những khái niệm đã nêu ở trên. Cụ thể là khái niệm đã nêu
được bản chất của tạm giam là “một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự”, chỉ ra đầy đủ đối tượng áp dụng của biện pháp ngăn chặn này là “bị can,
bị cáo”; thẩm quyền áp dụng phải là “người có thẩm quyền của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án”; căn cứ áp dụng là những căn cứ do BLTTHS quy
định đồng thời cũng khái quát được mục đích áp dụng của biện pháp ngăn
chặn này. Việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về biện pháp ngăn chặn tạm
giam tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng
pháp luật, giam đúng đối tượng, tránh giam giữ hình sự chuyển xử lý hành
chính, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền tự do
của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Đồng thời góp phần giải
quyết kịp thời, nhanh chóng vụ án hình sự, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
1.2.

Ý nghĩa của tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam

Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nên những hoạt động
của Nhà nước không nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân
dân. Với ý nghĩa là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam có ý nghĩa rất lớn
trong việc đấu tranh, phòng và chống các loại tội phạm cũng như việc đảm


13


bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho
thấy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung đều nhằm mục đích
chung là kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc gây ra khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án cũng như ngăn chặn không cho
tội phạm tiếp tục xảy ra. Theo đó, việc áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng
cũng bao hàm các mục đích kể trên, từ đó, có thể thấy được ý nghĩa quan
trọng của biện pháp này trong Tố tụng hình sự, cụ thể là:
Thứ nhất: Việc áp dụng biện pháp tạm giam góp phần đảm bảo cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Để góp phần tìm ra
sự thật của vụ án cũng như xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam là rất cần thiết. Các biện pháp ngăn chặn được
áp dụng nhằm đảm bảo các điều kiện pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án theo đúng các quy định của pháp luật; bảo đảm cho sự
có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng khi cần thiết; bảo đảm để
bản án đã tuyên có điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp luật cũng như đảm
bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng đó 4. Khi tiến hành các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, các cơ quan tiến hành tố
tụng không chỉ dựa vào các biện pháp nghiệp vụ của mình mà còn cần có sự
hợp tác từ phía bị can, bị cáo nhằm góp phần phát hiện kịp thời, nhanh chóng
tìm ra sự thật của vụ án, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì thế,
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, cũng như biện pháp ngăn chặn
tạm giam nói riêng không chỉ tạo điều kiện cho việc nhanh chóng xác định sự
thật của vụ án mà còn góp phần hạn chế việc bị can, bị cáo có ý định bỏ trốn,
che giấu, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc xử lý vụ án. Đồng thời,
việc áp dụng biện pháp tạm giam cũng góp phần quan trọng vào công tác đấu
tranh chống tội phạm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt

4 Dương Tuyết Miên, “Tội phạm học đương đại”, NXB chính trị - hành chính Hà Nội, năm
2013.

14


hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật hình
sự bảo vệ. Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh chống tội phạm được coi là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta, đòi hỏi phải được tiến hành
kiên quyết, triệt để, đấu tranh không khoan nhượng, không bỏ lọt tội phạm và
làm oan người vô tội. Trong giai đoạn đầu của quá trình tố tụng, để góp phần
tìm ra sự thật của vụ án, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc như
tạm giam trong tố tụng hình sự không những nâng cao hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm, mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thay mặt Nhà nước áp dụng
nhằm đạt được mục đích cuối cùng của tố tụng hình sự.
Thứ hai: Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đảm bảo cho việc
ngăn ngừa tội phạm. Khi có căn cứ cho rằng một người đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm hay đang thực hiện một tội phạm xâm hại đáng kể đến các quan
hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thì việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nói chung và biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng là vô cùng cần thiết,
góp phần ngăn ngừa tội phạm tiếp tục xảy ra, đồng thời góp phần làm giảm
bớt hậu quả do tội phạm gây ra.
Thứ ba: Tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng
cố, tăng cường pháp chế XHCN. Là biện pháp cưỡng chế thể hiện sự kiên
quyết của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, việc áp dụng
biện pháp tạm giam đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, trật tự pháp luật
được giữ vững, chế độ XHCN được bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích hợp
pháp của công dân được tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh
khám phá tội phạm, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

Bên cạnh đó, tạm giam còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm bảo đảm sự tôn
trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Đó là biện pháp dảm bảo cho mọi công dân được sống trong một xã hội mà
quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người được tôn trọng và bảo vệ, tránh

15


được sự tấn công và xâm hại từ phía các đối tượng nhất định đảm bảo cho
mọi người yên tâm sinh sống, học tập, làm việc, tham gia vào công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất.

Kết luận chương I

16


Tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhất trong Tố
tụng hình sự Việt Nam, thể hiện quyền lực cưỡng chế của nhà nước đối với
các hành vi bị coi là tội phạm và cần phải được ngăn chặn kịp thời. Việc đưa
ra một khái niệm đầy đủ và hợp lý nhất về biện pháp ngăn chặn này góp phần
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng biện
pháp này một cách chính xác, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người
vô tội.
Có thể thấy rằng, đây là biện pháp tác động trực tiếp đến quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của bị tạm giam đã được Hiến pháp và pháp luật ghi
nhận và bảo vệ, nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn
tránh pháp luật, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Để thấy được ý
nghĩa và tầm quan trọng của tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, cần
nghiên cứu và tìm hiểu về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng của biện pháp

ngăn chặn này, từ đó rút ra được bản chất của tạm giam, những tác động đáng
kể mà tạm giam đã đóng góp vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội
phạm. Tuy nhiên, để nhận thức một cách sâu sắc về tạm giam trong Tố tụng
hình sự Việt Nam, tại Chương II tác giả xin đi sâu phân tích về lịch sử hình
thành và phát triển của tạm giam qua các giai đoạn.

CHƯƠNG II

17


QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TẠM GIAM
Kể từ khi được thành lập, nước ta đã ban hành rất nhiều đạo luật nhằm
xây dựng một chính quyền dân chủ theo định hướng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Từ thời xa xưa, các quy định về bắt người đã được hình thành
một cách sơ khai, đây cũng là những quy định đầu tiên về tạm giam và đã
được các nhà làm luật thay đổi, phát triển để phù hợp hơn với thực tiễn.
Thông qua quá trình phát triển của pháp luật Tố tụng hình sự, ta có thể phần
nào nắm bắt được những sự thay đổi của biện pháp ngăn chặn tạm giam.
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tạm giam
trước khi có BLTTHS
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 02/9/1945 đã đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử, theo đó, các Luật, Sắc lệnh hình
thành trong thời kì này cũng là một bước phát triển lớn, ghi nhận những quy
định sơ khai ban đầu của buổi đầu dựng nước và giữ nước. Trong thời kì này,
các nhà làm luật đã ban hành nhiều văn bản quy phạm quy định về Tố tụng
hình sự, trong đó có biện pháp ngăn chặn tạm giam. Hiến pháp năm 1946
Điều 11 quy định: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ giam cầm
công dân Việt Nam”. Quy định này đã đặt nền móng cho sự ra đời và phát

triển của chế định tạm giam, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành các quy
định về bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân. Tuy nhiên, quy định này chỉ mang tính nguyên tắc, tạm
giam trong giai đoạn này chưa được ghi nhận trong một văn bản pháp luật
riêng mà chỉ được ghi nhận trong các văn bản về tổ chức (các Sắc lệnh).
Ngoài ra, thẩm quyền ra lệnh tạm giam và thủ tục tạm giam cũng bước
đầu được ghi nhận. Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 của Nhà nước ta về bảo
đảm quyền tự do cá nhân đã đề cập về trình tự, thủ tục áp dụng hai biện pháp
ngăn chặn là bắt người và giam người. Tiếp đó, tại Sắc lệnh số 131/SL ngày

18


20/7/1946 về tổ chức bộ máy tư pháp Công an và Sắc lệnh số 85/SL ngày
07/11/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng có quy định cụ thể hơn
về giam người. Tại phần VI Sắc lệnh số 131/SL còn quy định: “…đề đảm bảo
quyền tự do thân thể của người dân, nghiêm cấm việc bắt giam trái pháp
luật…”. Trong luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do
thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân
dân, đã đề cập ba biện pháp ngăn chặn là: bắt người, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự như khám người, khám đồ vật,
khám nhà ở và thư tín. Đây có thể coi là văn bản pháp luật Tố tụng hình sự
đầu tiên quy định một cách có hệ thống và tương đối đầy đủ về các biện pháp
cưỡng chế trong Tố tụng hình sự, trong đó có tạm giam. Tại Điều 3 Luật này
quy định quy định: “Bắt người phạm đến pháp luật phải có lệnh viết của cơ
quan tư pháp cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên nếu là thường dân phạm pháp
hoặc Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự nếu là quân nhân phạm pháp”.
Luật số 103 còn quy định về người có thẩm quyền ra lệnh bắt giam như: Viện
trưởng, phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố, đặc khu
trực thuộc Trung ương trở lên. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, Viện kiểm

sát nhân dân từ cấp huyện trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội;
Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân có quyền ra lệnh bắt
giam người phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý; Trưởng và Phó
cơ quan Công an nhân dân từ cấp tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người
phạm tội, lệnh phải được sự phê chuẩn chính xác của Viện kiểm sát.
Có thể thấy rằng, ngay từ khi mới giành được chính quyền, Nhà nước
ta đã rất chú trọng đến việc xây dựng các quy định về tạm giam, các quy định
về đối tượng áp dụng, thầm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng đã được manh
nha hình thành. Điều này đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến bảo vệ
quyền tự do dân chủ của công dân. Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh
năm 1975 dẫn đến sự thống nhất của cả nước về mặt Nhà nước, điều này cũng

19


mang lại sự thống nhất về hệ thống pháp luật trên phạm vi cả hai miền đất
nước. Trong thời kì này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật, từng bước hoàn thiện các chế định pháp luật trong đó có chế định tạm
giam. Cụ thể là Sắc lệnh số 02-SL/76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chánh
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định về một số
biện pháp ngăn chặn như bắt bình thường, bắt khẩn cấp, bắt phạm tội quả
tang, tạm giam; Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 1981 và nhiều văn bản pháp
lý khác. Tại Hiến pháp năm 1982 cũng ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, không ai có thể bị bắt nếu không có lệnh của Tòa án
nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt và
giam giữ người phải theo đúng pháp luật”.
Tuy rằng các văn bản tố tụng nêu trên mới chỉ quy định một cách
chung chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam chứ chưa quy định cụ thể, chi
tiết về từng trường hợp bị áp dụng biện pháp này nhưng đã phần nào thể hiện
sự quan tâm của Nhà nước ta về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của

công dân. Qua quá trình phát triển của kinh tế, xã hội, những quy định về các
biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng không còn
phù hợp nữa. Vì thế, ngày 25/8/1988, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho những vấn đề liên
quan đến các quy định trong tố tụng hình sự nói chung và biện pháp tạm giam
nói riêng.
2.2. Quy định của BLTTHS năm 1988 về tạm giam
Ngày 01/01/1988, Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước Việt Nam
có hiệu lực thi hành đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc pháp điển hóa
pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong cả nước. Theo đó, các biện pháp
ngăn chặn nói chung cũng như biện pháp tạm giam nói riêng được quy định
tại các điều luật cụ thể, đầy đủ, rõ ràng và có hệ thống. Có thể thấy rằng,

20


BLTTHS năm 1988 ra đời, các quy phạm pháp luật về tạm giam đã được
pháp điển hóa thành những quy định trong một văn bản pháp luật có giá trị
pháp lý cao, những quy định này đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng
trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động điều tra, giải quyết vụ án một cách nhanh chóng trong
thời gian vừa qua.
Tại Chương V của Bộ luật đã quy định hệ thống các biện pháp ngăn
chặn bao gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Nếu như các văn bản pháp luật
trước đây chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa biện pháp tạm giam với các biện
pháp ngăn chặn khác thì đến BLTTHS năm 1988, biện pháp tạm giam được
quy định cụ thể tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 BLTTHS năm 1988, bao
gồm nội dung về đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ

tục áp dụng, cũng như những vấn đề khác về chế độ tạm giam như thời hạn
tạm giam, chế độ tạm giam, việc chăm nom thân nhân và bảo quản tài sản của
người bị tạm giam.
Thứ nhất: Về đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, điều
luật đã chỉ rõ “tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo…”, tức là
người đã bị khởi tố về hình sự hoặc là người đã bị Tòa án quyết định đưa vụ
án mà họ bị khởi tố ra xét xử để tạm giam. Tại khoản 1 Điều 70 BLTTHS
1988 quy định tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội “trong
những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng hoặc….về tội mà Bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”. Có thể
thấy rằng BLTTHS 1988 đã quy định khá rõ ràng về căn cứ áp dụng biện
pháp này, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng
áp dụng một cách chính xác pháp luật, tránh oan sai. Bên cạnh đó, điều luật
cũng chỉ ra được mục đích của biện pháp tạm giam là nhằm tránh tình trạng

21


người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội.Việc quy định cụ thể và rõ ràng đối tượng có thể bị tạm giam
góp phần áp dụng biện pháp ngăn chặn này được chính xác, đúng đắn, tránh
tình trạng lạm dụng, áp dụng tùy tiện dẫn đến việc xâm phạm một cách trái
pháp luật đến quyền tự do thân thể, quyền tự do đi lại của công dân.
Thứ hai: Về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, tại Điều 70
BLTTHS 1988 không đề cập đến căn cứ cụ thể để áp dụng biện phạm tạm
giam. Do đó, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này thường dựa vào các căn cứ
được quy định tại Điều 61 (căn cứ chung để áp dụng các biện pháp ngăn
chặn) và xem xét các điều kiện như đã nêu tại khoản 1 Điều 70 BLTTHS
1988.

Thứ ba: Về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam, điều luật đã dẫn
chiếu đến thẩm quyền được quy định tại Điều 60 BLTTHS 1988, theo đó,
những người sau có thẩm quyền ra lệnh tạm giam:
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm
sát quân sự các cấp.
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp.
- Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân
khu trở lên chủ tọa phiên tòa.
- Trưởng Công an, Phó thủ trưởng Công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó
thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên. Điều luật cũng
quy định rõ trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo
hiệu lực thực tế của lệnh tạm giam, đồng thời đảm bảo tính chính xác của việc
áp dụng, tránh tình trạng tạm giam người tràn lan, oan sai, xâm phạm đến
quyền tự do thân thể của công dân.
Việc BLTTHS 1988 quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam
như trên là hoàn toàn phù hợp, đảm bảo được sự độc lập và chủ động cho các

22


cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình ở các
giai đoạn tố tụng nhất định, góp phần giải quyết nhanh chóng, kịp thời vụ án
hình sự.
Biện pháp tạm giam đã được quy định một cách rõ ràng và cụ thể trong
BLTTHS 1988 đã tạo cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Mặc dù đã trải qua ba lần sửa đổi, bổ sung
(năm 1990, năm 1992, năm 2000) nhưng qua quá trình áp dụng trong thực
tiễn, những quy định này đã bộc lộ những hạn chế nhất định như: Trình tự,
thủ tục áp dụng biện pháp này vẫn chưa được ghi nhận trong một điều luật cụ

thể nên dẫn đến tình trạng không thống nhất trong việc tiến hành áp dụng.
Bên cạnh đó, thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam còn được quy định quá
chung chung, dẫn đến tình trạng lạm quyền khi áp dụng… Những tồn tại này
đòi hỏi phải có những thay đổi trong việc xây dựng pháp luật, chính vì thế,
BLTTHS 2003 ra đời đã khắc phục được những hạn chế nêu trên.
2.3. Quy định của BLTTHS năm 2003 về tạm giam
Từ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng BLTTHS năm
1988 về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung cũng như biện pháp
ngăn chặn tạm giam nói riêng, BLTTHS năm 2003 đã ra đời, quy định chặt
chẽ hơn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn; đồng thời có những sửa đổi,
bổ sung cần thiết một số vấn đề cơ bản trong trường hợp tạm giam. Cụ thể:
Một là: BLTTHS 2003 đã quy định một cách chặt chẽ, hợp lý hơn
những đối tượng có thể được áp dụng biện pháp này. Tại Điều 88 BLTTHS
2003 quy định: “Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong
những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm
trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà
Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng

23


người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội.”
Có thể thấy rằng BLTTHS 2003 đã quy định về đối tượng có thể được
áp dụng biện pháp tạm giam cụ thể và rõ ràng so với quy định tại BLTTHS
1988, theo đó, bị can, bị cáo phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt
tù trên hai năm đều có thể bị áp dụng biện pháp này. Ngoài ra, tại BLTTHS

2003 còn quy định thêm “cản trở việc truy tố”, đây là một quy định mới mà
BLTTHS 1988 chưa đề cập đến. Việc bổ sung quy định này là hoàn toàn hợp
lý vì không chỉ trong giai đoạn điều tra, xét xử, các bị can, bị cáo mới có thể
được áp dụng biện pháp này, mà ngay cả trong giai đoạn truy tố, họ cũng có
thể được áp dụng biện pháp tạm giam. Quy định này đã khắc phục được sự
bất hợp lý của BLTTHS 1988 khi quy định về thẩm quyền tạm giam bao gồm
có Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát
quân sự các cấp nhwung lại không đưa vào giai đoạn truy tố khi nói đến đối
tượng áp dụng.
Hai là: Biện pháp tạm giam trong BLTTHS 2003 có những quy định
mang tính chất nhân đạo hơn so với BLTTHS 1988. Cụ thể là: Tại Điều 88
Khoản 2 BLTTHS 2003 quy định không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam đối với “bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba
mươi sáu tháng tuổi”. Biện pháp tạm giam trong BLTTHS 1988 quy định áp
dụng biện pháp tạm giam với phụ nữ đang nuôi con từ 12 tháng tuổi trở lên.
Như vậy, quy định tại BLTTHS 2003 có phần nhân đạo hơn trong trường hợp
này, bởi lẽ, những người phụ nữ mặc dù đã bị khởi tố về hình sự nhưng để
thiên chức làm mẹ của họ được đảm bảo, BLTTHS 2003 đã tăng thời gian
nuôi con của họ lên đến 36 tháng, điều này nhằm đảm bảo sức khỏe cho họ và
cũng nhằm đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của pháp luật nước ta.

24


Ba là: BLTTHS 2003 đã quy định rõ ràng về các trường hợp đặc biệt dù
có nằm trong bất kì đối tượng nào vẫn phải bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam, đó là:
- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
- Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục
phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;

- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ
cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc
gia.
Việc ghi nhận những trường hợp đặc biệt này trong luật có ý nghĩa quan
trọng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, giúp pháp luật được áp dụng một
cách thống nhất, tránh tình trạng lạm quyền, oan sai khi thi hành luật.
Bốn là: BLTTHS 2003 quy định rõ ràng hơn về thẩm quyền áp dụng
biện pháp tạm giam.
BLTTHS 2003 đã khắc phục được hạn chế của BLTTHS 1988 về thẩm
quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó, thay vì quy định chung chung
những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này, tại Điều 80 BLTTHS
2003 đã quy định rõ “Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra các cấp” mới có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm
giam. Quy định như vậy đã tránh được tình trạng lạm quyền, lấn quyến của
các cơ quan tiến hành tố tụng, tránh được tình trạng oan sai, xâm phạm trái
phép quyền tự do của công dân.
Năm là: BLTTHS 2003 đã quy định chặt chẽ hơn về thời gian phê
chuẩn lệnh tạm giam của Viện kiểm sát (trong thời hạn ba ngày) và phải hoàn
trả ngay hồ sơ cho cơ quan điều tra sau khi phê chuẩn xong. Ngoài ra, điều
luật còn quy định thêm về việc “kiểm tra căn cước của người bị tạm giam”
nhằm đảm bảo việc thi hành lệnh giam được chính xác.

25


×