Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Khái quát về biện pháp tạm giam trong Tố tụng Hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.08 KB, 14 trang )

Mục lục

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Biện pháp ngăn chặn tạm giam là một trong 6 biện pháp thuộc hệ
thống các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS ( bắt, tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm
bảo). Và trong các biện pháp ngăn chặn trên thì biện pháp ngăn chặn tạm
giam được coi là biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhất bởi sự ảnh
hưởng của nó tới các quyền cơ bản của công dân. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu
về biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự đồng thời đề ra một số giải pháp
trong việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Khái quát về biện pháp tạm giam trong Tố tụng Hình sự.
1. Khái niệm về biện pháp tạm giam.
Từ Điều 88 BLTTHS ta có thể hiểu về tạm giam là biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng đối với
bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

1


Đây là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc
nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện
pháp tạm giam bị cách li với xã hội trong một thời hạn nhất định, bị hạn chế một
số quyền cơ bản của công dân.
2.Mục đích tạm giam.
- Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tạo điều kiện


thuận lợi cho quá trình điều tra xử lý tội phạm . Giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng ngăn chặn, nhanh chóng làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm
tội. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam sẽ đảm bảo sự có mặt của bị
can, bị cáo trong các hoạt động tố tụng khi cần thiết, bảo đảm để bản án tuyên có
điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp luật cũng như đảm bảo tính chính xác,
khách quan của các hoạt động tố tụng.
- Thứ hai, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam góp phần nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Người bị áp dụng biện pháp này sẽ bị cách ly khỏi xã hội trong một khoảng thời
gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân như quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, quyền tự do đi lại. Biện pháp ngăn chặn này mang tính cưỡng chế
nghiêm khắc, sử dụng quyền uy của nhà nước để bắt buộc những người có hành
vi phạm tội phải tuân thủ các mệnh lệnh của cơ quan nhà nước hoặc những
người có thẩm quyền theo luật định với mục đích ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội
hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như thi hành án.
- Thứ ba, không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của nhà nước đối với người
có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà biện pháp ngăn chặn tạm giam
còn là một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị
xâm hại hoặc đang bị xâm hại, từ đó tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần đảm
bảo và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp,
tuy nó hạn chế một số quyền của công dân đối với bị can, bị cáo nhưng mặt khác
2


lại bảo vệ lợi ích của nhà nước , lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân khác.
- Thứ tư, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Nhà nước ta là
nhà nước của dân, do dân, vì dân nên những hoạt động của nhà nước không
nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động. Bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa không cho phép một hành vi trái pháp luật nào xâm

phạm đến các quyền và lợi ích của công dân dù đó là hành vi của cơ quan nhà
nước hay người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 88 BLTTHS ta có thể chia ra các trường hợp
bị can, bị cáo phạm tội ở các mức khác nhau như:
a. Trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm
trọng.
Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt áp dụng đối
với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng) hoặc tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm
tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường
hợp này cần hai điều kiện:
+ Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị
thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo;
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
b. Trường hợp phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng.
Trường hợp này quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ để cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội.
- Để tạm giam trong trường hợp này cần có 3 điều kiện:
+ Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo
3


+ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà
BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm
tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 2 năm tù. Trong một điều luật có
nhiều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt tù từ hai năm trở xuống
thì không được tạm giam;

+ Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều
tra, truy tố , xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Hành vi gây cản trở việc điều tra, truy tố , xét xử thể hiện qua việc sau khi
thực hiện hành vi phạm tội , người thực hiện tội phạm có thể tiêu hủy, làm giả
hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án,.. dẫn đến việc gây khó khăn ,
phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật khách quan vụ án. Còn việc bị can, bị
cáo tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện qua yếu tố phản ánh về nhân thân bị
can, bị cáo. Ngoài ra còn được thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa
trả thù người làm chứng , người bị hại và sự đe dọa đó có khả năng trở thành
hiện thực.
- Và để thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền
con người, bảo vệ quyền trẻ em. Bởi với điều kiện trong các trại giam thì không
thể đảm bảo đầy đủ những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi
con dưới 36 tháng tuổi , người già yếu và người bị bệnh nặng. Đối với bị can, bị
cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kì nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già
yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà phải áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp sau đây:
+ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
+ Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục
phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;

4


+ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho
rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
c. Trường hợp tạm giam để đảm bảo thi hành án.`
Công tác thi hành án hình sự là vấn đề vô cùng quan trọng. Các bản án,
quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật cần phải được đưa ra thi
hành, có nhu vậy mới nâng cao được tính hiệu quả của pháp luật trong đời sống

thực tế. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để thi hành án là vấn đề rất quan trọng
và cần thiết.
Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất cụ thể của từng vụ án, tùy
theo nhân thân của người bị kết án, tòa án có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn
thích hợp trong đó Tòa án có thể sử dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với
bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án
4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định cho
nhiều chủ thể khác nhau tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. Khoản 3 Điều 88
BLTTHS quy định những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
giam thì có quyền ra lệnh tạm giam (những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị
cáo để tạm giam được quy định tại Khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003).
Lệnh tạm giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải
được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn mà viện
kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh
tạm giam của cơ quan điều tra là ba ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam.
Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc
việc xét phê chuẩn hay không
5. Thủ tục thực hiện biện pháp tạm giam.
Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do
của người bị áp dụng trong một khoảng tạm giam nhất định, việc áp dụng biện
5


pháp ngăn chặn tạm giam cần phải tuân theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ.
Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giam phải
ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của
người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm
giam một bản.
Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn

cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam , tránh
trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo
ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia
đình họ cũng như cơ quan tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành
những thủ tục tìm kiếm không cần thiết, gây tốn kém. Điều này là cần thiết bởi
tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do
và danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến thân nhân của họ.
6. Thời hạn tạm giam.
a. Thời hạn tạm giam để điều tra.
Căn cứ theo Điều 120 BLTTHS quy định thời hạn tạm giam để điều tra
thì thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn
tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời
gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện
pháp tạm giam thì có thể gia hạn thời hạn tạm giam theo quy định của pháp luật.
b. Thời hạn tạm giam để truy tố.
Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 2 Điều 166 BLTTHS thì thời hạn tạm
giam để truy tố là không quá 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng; 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc
6


biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, nếu
trong trường hợp cần thiết, việc gia hạn tạm giam có thể được thực hiện theo quy
định của pháp luật.
c. Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm.
Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm được quy định tại Điều 177
BLTTHS. Theo đó, thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm là không quá 30 ngày

đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng; 2
tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng; và 3 tháng đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án.
Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn
theo quy định của pháp luật.
d. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm.
Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 243
BLTTHS, theo đó thì thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm là không quá 60
ngày đối với phiên tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp
quân khu và không quá 90 ngày đối với phiên tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án quân sự trung ương.
e. Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án.
- Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo Điều 228 BLTTHS quy định
nếu bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa
thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để
bảo đảm việc thi hành án. Trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt
tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực
pháp luật. Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm, Điều 243 BLTTHS quy định nếu bị
cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc thời hạn tạm giam đã

7


hết thì hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi
hành án, thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
7. Chế độ tạm giam.

Tạm giam không phải là hình phạt mà là một biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải là để nhằm trừng trị

người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây
khó khăn trong việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Vì vậy theo Điều 89
BLTTHS quy định chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang
chấp hành hình phạt tù. Người bị tạm giam không phải chấp hành chế độ của
người thi hành hình phạt tù mà chỉ chấp hành các quy định của Chính phủ về chế
độ đi lại, sinh hoạt, nhận quả, liên hệ với gia đình trong thời hạn bị tạm giam.
Điều này thể hiện sự tiến bộ trong công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm và
vi phạm pháp luật.
8. Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản
của người bị tạm giam.
Căn cứ theo Điều 90 BLTTHS quy định khi áp dụng biện pháp tạm giam,
nếu người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân
thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra lệnh
tạm giam giao những người đó cho người thân thích khác chăm nom. Trường
hợp người bị tạm giam không có người thân thích khác thì cơ quan ra lệnh tạm
giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp
người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom , bảo
quản thì cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom,
bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản,
cơ quan ra lệnh tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện
pháp đã được áp dụng. Việc pháp luật quy định về chế độ chăm nom người thân
8


và bảo quản tài sản của người bị tạm giam thể hiện tính nhân đạo của nhà nước
ta, khi người bị tạm giam là người có trách nhiệm đối với người thân và những
người này lại không thể tự mình chăm sóc được cho chính mình; khi tài sản của
họ không có người trông nom, bảo quản. Điều này sẽ giúp đảm bảo cuộc sống
cho người phụ thuộc vào người bị tạm giam cũng như tài sản của người bị tạm

giam được trông nom, bảo quản.

II. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Xuất phát từ thực trạng quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam trong tạm giam qua chúng ta thấy rằng biện pháp ngăn chặn tạm giam đã
mang lại những kết quả khả quan , góp phần to lớn trong công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm song cũng đã bộc lộ những yếu kém vướng mắc bất cập
cần phải được giải quyết, tháo gỡ.
1. Cần phải bổ sung khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam vào
trong điều luật.
Trong BLTTHS hiện hành chưa có quy định về khái niệm biện pháp ngăn
chặn tạm giam. Tại Điều 88 BLTTHS chỉ nêu ra được đối tượng bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam vì vậy cần đưa khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm
giam vào theo hướng như sau:
“Tạm giam là biện pháp ngăn chặn do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng,
phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ trên 2 năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội ; người phạm tội quả tang hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
và người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đang trong thời gian chờ

9


thi hành án nhằm mục đích ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”
2. Việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên tòa cần có quy định theo hướng
là phải có lệnh tạm giam.

Bởi nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục
tạm giam bị cáo do bản sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra
thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay theo quy định tại
Khoản 2 Điều 255 BLTTHS.
3. LTTHS nên quy định các mức thời hạn phê chuẩn lệnh của Viện
kiểm sát theo từng loại vụ án đơn giản hay phức tạp.
Kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án.
Nếu vụ án đơn giản , hồ sơ tài liệu đầy đủ thì chỉ cần 1 ngày nhưng với những vụ
án mà hồ sơ, tài liệu nhiều và phức tạp thì cần phải có nhiều thời gian hơn để
Viện kiểm sát nghiên cứu trước khi phê chuẩn.
Với quy định như hiện nay tại Khoản 3 Điều 88 thì thời hạn để Viện
kiểm sát xem xét đó là 3 ngày. Và trong vòng 3 ngày kể từ ngày nhận được lệnh
tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam;
Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì có lẽ 3 ngày là một khoảng
thời gian quá ngắn.
4. Cần quy định một cách rõ ràng trách nhiệm của người đề xuất,
người ra lệnh và người phê chuẩn.
Nếu tạm giam trái pháp luật, điều tra viên phải chịu trách nhiệm của người
đề xuất, thủ trưởng cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh còn
nếu việc tạm giam sau đó lại được Viện kiểm sát phê chuẩn thì người đã đề xuất
phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người đã phê chuẩn.

10


5. Nên quy định thời hạn tạm giam để điều tra bằng với thời hạn để
điều tra.
Bởi thực tế có rất nhiều trường hợp mà thời hạn điều tra vẫn còn nhưng
thời hạn tạm giam để điều tra đã hết (do vụ án có nhiều tình tiết phức tạp) , điều

này gây khó khăn cho cơ quan điều tra cũng như quá trình xét xử, thi hành án.
6. Nên thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền áp dụng biện pháp
tạm giam.
Để phù hợp với nội dung của chiến lược cải cách tư pháp của nước ta đến
năm 2020 theo hướng không giao cho người có thẩm quyền của cơ quan điều tra
(Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra) được quyền ra lệnh tạm giam mà
những chủ thể này chỉ có quyền đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp xem xét, quyết
định việc tạm giam bị can, bị cáo nếu có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật.
Khi đó quyền ra lệnh tạm giam sẽ chỉ giao cho cấp trưởng là Viện trưởng Viện
kiểm sát, Chánh án tòa án. Trong trường hợp cấp trưởng vắng mặt thì cấp phó
được cấp trưởng ủy quyền mới có thẩm quyền này.
Khi đó, điều luật có thể quy định như sau về thẩm quyền ra lệnh tạm
giam:
“Trong giai đoạn tố tụng trước khi xét xử (giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng viện kiểm sát quân sự
các cấp tự mình hoặc trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của thủ trưởng cơ quan
điều tra cùng cấp có quyền ra lệnh tạm giam. Trong trường hợp Viện trưởng
viện kiểm sát vắng mặt thì phó viện trưởng Viện kiểm sát được viện trưởng ủy
quyền thực hiện thẩm quyền này.
Trong giai đoạn xét xử, Chánh án Tòa án nhân dân , Chánh án tòa án
quân sự các cấp có quyền ra lệnh tạm giam. Trong trường hợp Chánh án Tòa án
vắng mặt thì một phó chánh án tòa án được Chánh án ủy quyền thực hiện thẩm

11


quyền này.. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam bị cáo tại phiên tòa do Hội đồng xét
xử xem xét, quyết định ,…”.
7. Hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về các trường hợp áp dụng
biện pháp tạm giam.

Có thể thấy rằng tạm giam không phải là một hình phạt mà chỉ là một biện
pháp ngăn chặn được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng chủ yếu để ngăn
chặn việc bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có
thể tiếp tục phạm tội nên việc nhà làm luật chỉ thuần túy dựa vào sự phân loại tội
phạm theo các quy định của BLHS (tức là dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội được thực hiện) mà không cần tính đến việc bị
can, bị cáo có khả năng trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội hay không để dùng làm căn cứ để tạm giam bị can, bị cáo là
chưa phù hợp và chưa đúng với tính chất của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
này. Vì vậy cần coi khả năng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản trở điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết
định việc tạm giam. Điều đó có nghĩa là nên bổ sung vào Điểm a Khoản 1 Điều
88 BLTTHS thêm một căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo
hướng như sau:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những
trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm
trọng và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội…..”
Ngoài ra, thiết nghĩ pháp luật về tố tụng hình sự cũng cần có những giải
thích về việc hiểu thế nào là già yếu và thế nào sẽ coi là bệnh nặng,… để có thể

12


áp dụng quy định về các trường hợp ngoại trừ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam một cách chính xác hơn.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Trên đây là những phân tích của em về biện pháp ngăn chặn tạm giam

cũng như một số giải pháp được nêu ra trong việc hoàn thiện pháp luật nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng biện pháp này trong hoạt động tố tụng hình
sự. Chúng ta cũng cần phải hiểu rằng để biện pháp này thực sự hữu hiệu khi áp
dụng thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật không phải là điều cần làm
duy nhất, bên cạnh đó chúng ta còn phải nâng cao năng lực và phẩm chất đạo
đức của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này hay hoàn
thiện cơ sở vật chất kỹ thuật trong hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam.
Bài làm trên đây của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cô để bài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

13


Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Tố tụng Hình sự Việt Nam, Trường ĐH Luật Hà Nội,
Nxb.CAND, Hà Nội, năm 2009.
2. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
3. www.tailieu.vn

14



×