Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Đề cương ôn tập môn Chính sách xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.88 KB, 27 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
(số tín chỉ: 03 – Việt Hà)

1. Chính sách xã hội là gì, chức năng cơ cản của chính sách xã hội?
1.1. Khái niệm chính sách xã hội

 Khái niệm xã hội
Xã hội là một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi ích,
mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hóa.

 Khái niệm vấn đề xã hội
“Vấn đề xã hội là những vấn đề phát sinh trong lòng xã hội liên quan đến con người, liên quan đến sự công
bằng, bình đẳng trong xã hội, đến cơ hội tồn tại và phát triển, đến sự hưởng thụ các nhu cầu về vật chất và tinh thần
của con người. Đó là các vấn đề có ảnh hưởng tác động, thậm chí đe dọa sự phát triển bình thường của con người,
của cộng đồng xã hội, tác động xấu đến chất lượng sống của con người, của cộng đồng và do vậy đòi hỏi phải có
những giải pháp, biện pháp kiểm soát, phòng ngừa, ngăn chăn, điều chỉnh hoặc giải quyết theo hướng bảo đảm sự
phát triển bền vững của xã hội”. ( PGS. TS. Phạm Hữu Nghị)
“ Vấn đề xã hội là những tình huống nảy sinh trong đời sống xã hội mà cách thức và những biện pháp giải
quyết của chủ thể (con người, nhóm xã hội) chưa đạt được kết quả mong muốn. Chẳng hạn như là nghèo đói, mại
dâm, thất nghiệp, ma túy…”

 Khái niệm “Chính sách”

1


Theo nhiều nhà nghiên cứu, “chính sách” là hình thức tác động qua lại giữa các nhóm, tập đoàn xã hội gắn
trực tiếp hoặc gián tiếp với tổ chức, hoạt động của nhà nước, của các đảng phái, thiết chế khác nhau của hệ thống
chính trị nhằm thực hiện các lợi ích, các mục tiêu, nhiệm vụ của các nhóm, tập đòan xã hội ấy.
Như vậy, khi nói đến chính sách, luôn có các yếu tố sau:
- Một chủ thể tạo dựng và thực thi chính sách.


- Các nhóm xã hội khác nhau bị tác động bởi chính sách.
- Một chính sách phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội.
- Mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống.
Khoa học chính sách là một ngành khoa học vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và phương pháp để
nghiên cứu hệ thống chính sách và quy trình chính sách, tìm ra thực chất, nguyên nhân và kết quả của chính sách,
cung cấp những kiến thức liên quan đến chính sách nhằm mục đích cải tiến hệ thống chính sách và nâng cao chất
lượng của chính sách.( TS. Lê Chi Mai)
 Chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Nhà nước.
Nếu chính sách kinh tế là những công cụ của Nhà nớc để tác động trực tiếp lên các lĩnh vực hoạt động kinh
tế nhằm xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, làm cho "dân giầu, nước mạnh" thì chính sách xã hội là những giải
pháp, công cụ của Nhà nước tác động trực tiếp lên các quan hệ xã hội nhằm làm cho xã hội phát triển lành mạnh,
đời sống xã hội trở nên hài hoà, bền vững, công bằng và văn minh.
Chính sách xã hội rất đa dạng, bao quát nhiều lĩnh vực hoạt động phong phú của xã hội. Có thể kể ra đây
một số chính sách lớn, có tính chất tiêu biểu. Đó là chính sách về giáo dục và đào tạo, chính sách về văn hoá, chính
sách về việc làm, v...v.
2


Chính sách quản lý nói chung và chính sách kinh tế - xã hội nói riêng là tổng thể các quan điểm, tư tưởng,
các giải pháp và công cụ mà Nhà nớc sử dụng để tác động lên các đối tượng để thực hiện các mục tiêu nhất định,
theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội. Theo đó, chính sách kinh tế - xã hội nói chung, chính sách xã hội nói
riêng, hiện diện như là những công cụ của Nhà nước, được Nhà nước ban hành để thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách kinh tế - xã hội được Nhà nước đề ra trên quan điểm đường lối của Đảng,
nhưng chính sách kinh tế - xã hội không phải là những đường lối chung, cũng không phải là những định hướng lớn,
ngược lại, bao giờ cũng là cái cụ thể. Chính sách kinh tế - xã hội luôn hướng vào việc xử lý những vấn đề cấp bách
đặt ra từ thực tiễn của đời sống xã hội, tập trung vào việc giải quyết những tình huống cụ thể nẩy sinh trong quá
trình hoạt động thực tiễn của một giai đoạn nhất định.
1.2. Chức năng cơ bản của chính sách xã hội
 Chức năng định hướng sự vận động xã hội

Chính sách xã hội với nhiệm vụ khám phá ra các quy luật, các điều kiện và các mối quan hệ qua lại giữa các
quan hệ xã hội, quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế giữa nhu cầu và lợi ích của những nhóm xã hội trong một cơ cấu
xã hội cụ thể. Từ đó chính sách xã hội có thể phát hiện ra tính quy luật của xã hội, tính quy luật của chính trị và sự
vận động của hệ thống chính trị trong xã hội. Tính quy luật của đời sống tinh thần xã hội, nó phản ảnh đời sống văn
hóa và các quan hệ văn hóa xã hội khác. Tất cả các tính quy luật này đều phản ảnh nội dung của chính sách và
đóng vai trò quy định nội dung, phương hướng của chính sách xã hội, nên việc nhận thức nó là điều hết sức quan
trọng của chính sách xã hội.
 Chức năng điều chỉnh các vấn đề xã hội
Chức năng phân tích, dự báo, đề xuất các biện pháp cho công tác quản lý xã hội. Một chính sách xã hội khoa
học gắn liền với thực tiễn xã hội sẽ giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo phân tích, dự báo những vấn đề xã hội trong
một tương lai gần, hoặc xa, làm cơ sở để lượng giá và đề xuất chính sách xã hội.
3


 Chức năng phát triển con người
Chức năng thực tiễn : Chính sách xã hội phản ánh đúng thực tiễn, phù hợp với thực tiễn và xâm nhập vào
thực tiễn một cách thích hợp, nó sẽ làm cho xã hội luôn ở trạng thái ổn định, góp phần hòan chỉnh cơ cấu xã hội,
đẩy mạnh tính tích cực của các thành viên trong xã hội, sử dụng tốt tiềm năng lao động của đất nước. Sự hòan thiện
chính sách xã hội phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nhưng chính sách xã hội không hoàn
tòan phụ thuộc một cách máy móc mà có tính độc lập tương đối
Tóm lại, chính sách xã hội thực hiện những chức năng xã hội khác nhau, và nó thực hiện theo kiểu “ chức
năng kép” tùy theo quan điểm xem xét nó: Bảo đảm liên kết xã hội đồng thời phân tầng xã hội và kiểm soát XH.
Chức năng quản lý xã hội chung đồng thời chức năng chính trị phản ánh lợi ích giai cấp hoặc nhóm.
2. Mối quan hệ giữa chính sách xã hội và vấn đề xã hội
 Khái niệm vấn đề xã hội:
Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng đồng người đến sự tồn
tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội,
đụng chạm đến lợi ích của một cộng đồng.
Các vấn đề xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực như: giải quyết việc làm, thu nhập, bình đẳng xã hội, khuyến
khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, cung ứng dịch vụ công, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội,

chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; giải quyết việc làm; môi trường,...
 Mối quan hệ giữa chính sách xã hội và vấn đề xã hội
- Chính sách xã hội nghiên cứu các vấn đề XH đó, từ đó đề xuất các chính sách hỗ trợ phù hợp với từng lĩnh
vực, vấn đề.
- CSXH giúp đẩy lùi những vấn đề phức tạp và giúp xã hội được cân bằng
4


- CSXH mang lại việc làm cho những người thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp.
- CSXH giúp cân bằng vấn đề về dân số, nghiên cứu sự gia tăng tỷ lệ sinh, tử… từ đó có những chính sách
phù hợp
- CSXH mang lại công bằng nhưng không cào bằng trong xã hội, khi có những sự hỗ trợ cho các gia đình có
công, chính sách, nghèo đói…
3. Khái niệm hoạch định chính sách. Vai trò của hoạch định chính sách?
 Khái niệm hoạch định chính sách
Hoạch định chính sách là một quá trình bao gồm một chuỗi các công việc nghiên cứu, đề ra một chính sách
với các mục tiêu, giải pháp, công cụ nhằm giải quyết vấn đề chính sách và việc thể chế hóa chính sách đó.
Vai trò của hoạch định chính sách
HĐCS có vai trò nâng cao tính khoa học và thực tiễn của CS
HĐCS nhằm tạo ra các chính sách hợp lý, đáp ứng một số yêu cầu nhất định của giải quyết các vấn đề xã hội
Giai đoạn HĐCS là cơ sở, tiền đề để tiến hành các giai đoạn sau của quy trình chính sách xã hội
Sản phẩm của gia đoạn HĐCS XH là thang đo đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện chính sách
Việc HĐCSXH nhằm đáp ứng đói hỏi cần giải quyết những vấn đề xã hội trong từng thời kỳ phát triển của
một quốc gia
- HĐCSXH nhằm tạo ra cơ hội cho người lao động và dân cư tiếp cận được các dịch vụ xã hội và quản lý các
rủi ro xã hội một cách đúng đắn, hiệu quả.
- HĐCSXH giúp tận dụng các cơ hội thuận lợi trong nước và quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội của đất
nước.

-


5


4. Cơ sở của hoạch định chính sách
Thứ nhất, vấn đề trở thành mâu thuẫn ngày càng gay gắt, hoặc trở thành vật cản đối với sự phát triển của đất
nước. Chẳng hạn, ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề như thế có thể là vấn đề đói nghèo, vấn đề nền kinh tế nhiều
thành phần, vấn đề thủ tục hành chính...
Thứ hai, vấn đề đó là mối quan tâm, lo lắng của nhiều người, có ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế - xã hội. Những vấn đề ấy, chẳng hạn: Ở Việt Nam hiện nay là vấn đề thuế, ô nhiễm môi trường, tham
nhũng, tệ nạn xã hội...
Thứ ba, vấn đề có nhiều khả năng trở thành nguy cơ trong tương lai. Môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội
sẽ làm cho vấn đề thay đổi. Vì thế, có những vấn đề tuy chưa biểu hiện tác động tiêu cực rõ ràng trong hiện tại,
nhưng với xu hướng vận động của nó trong môi trường kinh tế - xã hội của đất nước sẽ dẫn đến nguy cơ trong
tương lai. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời bằng một chính sách thì hậu quả của nó sau này không thể
nào khắc phục được. Không vì những hạn chế về nguồn lực hiện tại mà thiếu quan tâm giải quyết những vấn đề có
khả năng bùng nổ, nguy hại cho tương lai. Những vấn đề như thế, chẳng hạn là vấn đề dân số, giáo dục và đào tạo,
đô thị hoá, phát triển nguồn nhân lực...
5. Khái niệm chính sách dân số. Các biện pháp để đạt được mục tiêu chính sách dân số
Chính sách dân số là hệ thống các mục tiêu dân số được đề ra một cách có ý thức và có cơ sở khoa học về
quy mô, tốc độ tăng trưởng dân số và sự phân bố dân cư, cùng hệ thống các biện pháp (tổ chức, giáo dục, thông
tin,truyền thông, kinh tế, xã hội…) nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra.
Mục tiêu của chính sách dân số:
- Nhằm chủ động điều chỉnh quy mô cơ cấu và sự tăng trưởng dân số, được thể hiện trực tiếp bằng việc điều
chỉnh mức sinh, cũng như nâng cao nhận thức của nhân dân về tái sản xuất dân số.
6


- Các mục tiêu của chính sách dân số không phải bất biến
- Mục tiêu của chính sách dân số phải được xác định trong mối qun hệ với môi trường kinh tế, xã hội cụ thể

Các biện pháp để đạt được mục tiêu của chính sách dân số:
-

Nhóm các biện pháp tổ chức, thông tin, giáo dục, tuyên truyền
Nhóm các biện pháp kinh tế xã hội
Các biện pháp kỹ thuật, y tế
Các biện pháp hành chính, pháp luật

Chính sách dân số là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội hiện nay. Đây không chỉ là
vấn đề có tính quốc gia mà còn là vấn đề mang tính toàn cầu. Chính mức tăng trưởng về dân số, cơ cấu dân số và
sự phân bố dân số có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế và mức sống của nhân dân. Chính sách xã hội về dân
số phải tác động vào cả ba quá trình này.
Trước hết là những chính sách xã hội tác động vào quy mô dân số, tạo ra một quy mô dân số hợp lý. Trong
đó với những nước đang phát triển với mức sinh cao, cần khống chế tỷ lệ sinh, còn những nước đã phát triển có
mức sinh thấp thì ngược lại. Ở đây những quy định pháp lý về chế độ nghỉ sinh, tiền trợ cấp sinh đẻ…chính sách
thưởng phạt trong sinh đẻ là những chính sách xã hội cụ thể trực tiêp tác động vào hành vi sinh đẻ của con người
trong từng khu vực khác nhau.
Sau đó cần có chính sách xã hội tác động vào cơ cấu dân số. Điều chỉnh cơ cấu dân số trẻ, già, thành thị nông thôn, vùng núi và cơ cấu dân số nghề nghiệp là những hướng cơ bản mà chính sách xã hội phải hướng vào.
Làm sao tạo được cơ cấu dân số hợp lý, phù hợp với yếu cầu phát triển kinh tế và những chuẩn mực của tiến bộ,
văn minh.
Với quá trình phân bố dân cư cần khuyến khích chuyển dân cư từ nơi có mật độ cao sang những vùng thưa
dân, việc tạo ra điều kiện sống tốt hơn cho những người chuyển cư theo kế hoạch là vấn đề phải quan tâm trước
7


tiên trong chính sách xã hội. Ngoài ra cần có những quy định về nhập cư, xuất cư để bảo đảm quyền lợi chính đáng
cho những người ra đi hoặc nhập vào có tổ chức mà hiện tại quôc tế đang quan tâm chú ý.
6. Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
Để hoạch định chính sách xã hội phải nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách phát triển kinh tế và chính
sách xã hội, tức là làm rõ các vấn đề: Tính chất xã hội, mục tiêu xã hội trong chính sách kinh tế; những điều kiện

đảm bảo, những khả năng của nền kinh tế có thể đầu tư cho chính sách xã hội; sự kết hợp các mục tiêu kinh tế - xã
hội trong hoạch định các chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Thực chất của việc làm này là làm rõ mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Công bằng xã hội là hạt nhân của chính sách xã hội, là mục đích, mục tiêu của chính sách xã hội từng bước
phải đạt tới và cũng chính là một trong những định hướng cơ bản của CNXH. Công bằng xã hội là thái độ xử lý
hợp lý các quan hệ xã hội, nhất là sự công bằng trong phân phối của cải xã hội, điều hoà các lợi ích giữa các nhóm,
các tầng lớp xã hội.
Khi nghiên cứu chính sách xã hội, một mặt phải xem xét tính độc lập tương đối, những đặc trưng khác biệt
của nó để có sự tập trung chú ý, giải quyết thoả đáng các yêu cầu của thực tế trong hoạch định chính sách xã hội,
mặt khác phải khai thác tính thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội để đạt mục tiêu phát triển
chung.
Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội có những biểu hiện sau đây:
- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tuy có mục tiêu riêng, mục tiêu tự thân của nó, song lại có mục tiêu
chung là nhằm phát triển xã hội.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã ghi: "Chính sách xã hội đúng đắn vì
lợi ích con người là động lực to lớn, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng CNXH". Điều đó nói lên chính sách xã hội là yếu tố của sự phát triển và nằm trong yếu tố phát triển,
vì vậy đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển. Một chính sách kinh tế đúng đắn sẽ tạo ra điều
8


kiện, tiền đề vật chất để giải quyết những vấn đề xã hội; ngược lại, giải quyết tốt các vấn đề xã hội bằng
những chính sách phù hợp sẽ tạo ra sự ổn định xã hội làm cơ sở phát triển kinh tế. Đó là biểu hiện cụ thể
của mối quan hệ hữu cơ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế không tự nó giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội, mặc dù các chương trình phát
triển kinh tế được lồng ghép, kết hợp để giải quyết các vấn đề xã hội rất cơ bản như vấn đề việc làm, chống
đói nghèo, tệ nạn xã hội, ...Vì vậy phải có chương trình, chính sách xã hội riêng để giải quyết các vấn đề xã
hội cụ thể, cấp bách nẩy sinh trong những thời điểm nhất định. Chính sách xã hội, chương trình xã hội phải
được thực hiện đồng thời với chính sách kinh tế để tạo sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển.
Tuy nhiên, các vấn đề xã hội, nhất là các vấn đề xã hội gay cấn, thường phát sinh, có nguyên nhân hay nguồn

gốc sâu xa từ kinh tế. Do đó, các chính sách và chương trình xã hội này phải được thực hiện bằng các giải pháp
kinh tế, phải tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội và theo quan điểm phát triển, không làm theo kiểu hành chính, bao
cấp, mang tính cứu tế xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế cũng không tự nó dẫn tới tiến bộ xã hội, mặc dù nó có thể thúc đẩy xã hội phát triển.
Điều này thấy rất rõ ở một số nước theo mô hình kinh tế thị trường tự do. Chạy theo lợi nhuận tối đa, người
ta bất chấp các hậu quả xã hội của nó, cùng với tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng các loại vũ khí giết người,
ma tuý, mại dâm và nhiều tệ nạn xã hội.
- Nói đến tiến bộ xã hội là nói đến chất lượng của sự phát triển xã hội và tính hợp quy luật của sự phát triển
đó. Điều này tuỳ thuộc vào việc lựa chọn mô hình phát triển của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước ta chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường XHCN - một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước - nhằm mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. "Xã hội công bằng, dân chủ và văn minh" là định hướng XHCN, là nội dung
cơ bản của tiến bộ xã hội, còn kinh tế thị trường là phương tiện để đạt tới tiến bộ xã hội. Nhưng, những
chính sách xã hội được xây dựng không tính đến khả năng của nền kinh tế, không quan tâm đến lợi ích kinh
tế thì không những khó đi vào cuộc sống mà sẽ trở thành yếu tố cản trở sự tăng trưởng kinh tế.
9


- Nghiên cứu sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội giúp ta có cơ sở để tìm ra giới hạn
hợp lý giữa chúng, trong đó, chủ yếu là phân tích các dấu hiệu, các yếu tố có tác động tích cực hoặc tiêu cực
của các chính sách kinh tế để có biện pháp kiểm soát, khống chế về quy mô, tính chất hay cường độ, tránh
gây hậu quả xấu về mặt xã hội. Hậu quả do sai lầm trong chính sách xã hội thường để lại trong thời gian lâu
dài hơn nhiều so với những hậu quả do những chính sách kinh tế để lại.
Mối quan hệ hợp lý giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải được xác định trong định hướng chính
sách ở tầm vĩ mô và trong phương án xây dựng chính sách cụ thể. Có 3 phương thức lựa chọn chủ yếu: Chính sách
xã hội đi sau chính sách kinh tế; chính sách xã hội đi trước chính sách kinh tế và chính sách xã hội đi đồng thời,
song song với chính sách kinh tế.
Theo phương thức đầu dễ sa vào quan điểm chạy theo kinh tế thị trường tự do đơn thuần, coi nhẹ vấn đề xã
hội; theo phương thức thứ hai dễ rơi vào chủ quan, duy ý chí và chính sách đề ra không có khả năng thực hiện gây
mất lòng tin, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước. Phương án thứ 3, "kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế

với tiến bộ và công bằng xã hội" là tư tưởng cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Từ sự lựa chọn các phương thức trên, phương hướng kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội là:
- Kết hợp ngay trong mục tiêu và phương hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH.
- Kết hợp trong quy hoạch tổng thể, kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
- Kết hợp trong việc xây dựng và thể chế hoá, luật hoá các chính sách xã hội;
- Kết hợp trong kế hoạch và cân đối ngân sách hàng năm, trong đó xác định rõ tỷ lệ và quy mô đầu tư cho
chính sách xã hội, có sự lựa chọn những vấn đề ưu tiên.
- Kết hợp trong việc lồng ghép các chương trình, dự án kinh tế với các chương trình, dự án xã hội.
Trong quá trình kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở tầm vĩ mô cần chú ý các vấn đề có
tính nguyên tắc sau:
10


- Trong hoạch định chính sách, cùng với việc tuân thủ các quy luật của nền kinh tế hàng hoá để tăng trưởng
kinh tế, phải lường trước những mặt khiếm khuyết có thể xẩy ra về mặt xã hội để chủ động điều chỉnh;
- Xác định rõ vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế và xã hội. Trong kinh tế, Nhà nước không can thiệp
trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, mà chỉ hỗ trợ, tạo điều kiện, môi
trường thuận lợi, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể kinh tế có thể chủ động trong các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của họ. Nhưng đối với các vấn đề xã hội, Nhà nước phải tăng cường đến mức tối đa sự can thiệp
của mình đề giải quyết bằng những chương trình, chính sách với những mục tiêu cụ thể, đặc biệt là đối với
những vấn đề xã hội gay cấn như việc làm, chống đói nghèo, bài trừ tệ nạn xã hội, ...
- Coi trọng việc xã hội hoá, cả trong nhận thức và hành động về mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội; phải quán triệt ở các ngành, các cấp và mọi người, nhất là đối với các cơ quan, tổ chức và
cán bộ hoạch định, thực hiện chính sách.
- Trong việc kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, cần biết chọn ra những chính sách xã hội
gốc, cơ bản (ví dụ, chính sách việc làm, chính sách giáo dục, đào tạo,...), xác định những vấn đề xã hội cấp
bách cần ưu tiên giải quyết trước (ví dụ, vấn đề đói nghèo, vấn đề tệ nạn xã hội,...).
Tóm lại, chính sách xã hội và chính sách kinh tế lập thành một hệ thống thống nhất. Sự thống nhất đó được

xác định ở một giới hạn hợp lý giữa chúng, ở đó sự kết hợp tối ưu giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội có
tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sự kết hợp đó dựa trên nguyên tắc: Chính sách kinh tế
phải tìm được động lực trong xã hội và đảm bảo ổn định xã hội; ngược lại, chính sách xã hội phải thúc đẩy kinh tế
phát triển và phù hợp với điều kiện kinh tế cho phép.
7. Mối quan hệ giữa chính sách xã hội với Công tác xã hội và xã hội học
Với xã hội học:
- Xã hội học nghiên cứu các mối quan hệ trong xã hội giữa người với người, nghiên cứu các thể chế và tiến
trình xã hội, sự phát triển của xã hội với tư cách là một hệ thống tòan vẹn. khoa học chính sách dựa vào lý
11


-

luận, nguyên tắc và phương pháp của xã hội học để hình thành nên căn cứ xã hội cho việc đề ra và thực hiện
các chính sách kinh tế- xã hội. Mặt khác, việc thực thi các chính sách kinh tế - xã hội cũng tạo ra những cơ
sở xã hội mới cho sự phát triển của xã hội học. XHH có nhiều chức năng liên quan tới CSXH:
Thúc đẩy nhận thức mới của con người đối với các hiện tượng xã hội, sự kiện xã hội và quá trình xã hội làm
cho con người nhìn nhận xã hội mọt cách đúng đắn, nhân bản hơn
Góp phần nâng cao vị thế con người, nâng cao tính tích cực của cá nhân thông qua các chính sách xã hội
XHH thực hiện chức năng dự báo sự vận động của xã hội, đây là những cơ ở quan tọng cho hoạch định các
chính sách xã hội trung hạn và dài hạn
XHH góp phần đắc lực vào cải biến hiện thực xã hội
Với Công tác xã hội:

- Công tác xã hội hướng tới nâng cao năng lực, thúc đẩy khả năng tự giải quyết vấn đề của cá nhân, gia đình
và cộng đồng
- Kết nối đối tượng với hệ thống nguồn lực, dịch vụ và những cơ hội trong xã hội
- Thúc đẩy sự hoạt động có hiệu quả và tính nhân văn của các hệ thống cung cấp nguồn lực và dịch vụ xã hội
- Phát triển và cải thiện chính sách xã hội
- Chính sách xã hội được xem xét như những chủ trương hành động của Nhà nước được thực hiện thông qua

các chương trình, dịch vụ liên quan tới thu nhập, bảo hiểm, trợ gúp những đối tượng yếu thế, có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn.
- Mục tiêu của chính sách xã hội là nhằm tạo sự công bằng, bình đẳng xã hội, tạo điều kiện phát triển toàn
diện về đời sống vật chất, tinh thần, trí tuệ…
- Trong quan hệ với chính sách xã hội, thông qua nhân viên công tác xã hội để hoạch định, thực thi chính
sách, cung cấp, triển khai và cung cấp các dịch vụ trợ giúp trên cơ sở các chính sách xã hội hiện có.
- Nhân viên xã hội trực tiếp làm việc với người dân, kết nối với các chính sách xã hội, giúp thân chủ có thên
nguồn lực để giải quyết các vấn đề gặp phải

12


- Công tác xã hội góp phần quan trọng vào sự thành công của một chính sách xã hội, giúp chính sách đến
được với người dân và phát huy tác dụng cao nhất.
- Nhân viên xã hội còn tham gia vào việc đánh giá quá trình thực thi chính sách xã hội.
- Chính sách xã hội là cơ sở, căn cứ pháp lý, là nguồn lực mà công tác xã hội sử dụng nhằm phục vụ mục
đích trợ giúp các đối tượng khó khăn.
8. Các bước trong hoạch định chính sách xã hội
Hoạch định chính sách là một quá trình bao gồm tập hợp các công việc được thực hiện một cách trình tự như
sau:
1.
2.
3.
4.
5.

Xác định vấn đề chính sách
Xác định mục tiêu của chính sách
Xây dựng các phương án chính sách
Lựa chọn phương án chính sách tối ưu

Thông qua và quyết định thực hiện chính sách
Bước 2. Xác định mục tiêu của chính sách xã hội

Mục tiêu chính sách là cái đích mà chính sách đó phải đạt tới. Mục tiêu phải được đề ra dựa trên cơ sở xác
định vấn đề đặt ra và phán đoán việc giải quyết vấn đề đó, trong đó có tính đến nguồn lực và khả năng thục hiện
mục tiêu. Cơ sở để xác định mục tiêu của chính sách là đường lối của Đảng, Nhà nước và những kết quả của công
tác nghiên cứu, dự báo. Cụ thể là, sau khi phân tích tình hình thực tế để nhận thức được nhu cầu hình thành chính
sách và xác định rõ vấn đề của chính sách, cũng như nắm bắt được khả năng về các nguồn lực, các nhà hoạch định
chính sách sẽ đi tới việc xác định mục tiêu của chính sách.
 Nguyên tắc để xác định mục tiêu:
Một số nguyên tắc cơ bản trong việc xác định mục tiêu của chính sách xã hội là:
13


 Xác định mục tiêu của chính sách xã hội:
- Cần phải xác định tất cả các mục tiêu và đối với mỗi mục tiêu cần xác định tất cả các cấp bậc của mục tiêu.
Nhưng trong thực tế người ta sẽ chỉ xác định những mục tiêu cơ bản nhất, những mục tiêu mà người ta thấy
rằng là quan trọng đối với việc giải quyết vấn đề và hướng mục tiêu vào mục đích chung của tổ chức.
- Khi xây dựng một mục tiêu phải dựa trên cơ sở phát triển các nguồn lực và điều kiện hiện tại. Tránh đưa ra
mục tiêu quá cao, mang tính chủ quan duy ý chí, không thể thực hiện cũng như mục tiêu quá thấp, không
cần cố gắng, nỗ lực.
- Bất kì chính sách nào cũng đem lại cái lợi, cái hại cho xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi cần phải xác định mục
tiêu nào mang đến cái lợi nhiều hơn cái hại về mặt xã hội.
 Lựa chọn các mục tiêu ưu tiên cho chính sách xã hội
Vì hệ thống của chính sách xã hội thường là da mục tiêu, trong khi đó luôn luôn tồn tại những giới hạn trong
thục tế bao gồm:
-

Giới hạn của sự cho phép
Giới hạn của các nguồn lực sẵn có

Giới hạn của những cam kết trước đó
Giới hạn của những thông tin sẵn có

Mục tiêu cần:
-

Cụ thể
Lượng hóa được (đo lường)
Hành động
Thực tế
Có thời gian hạn định.

Để lựa chọn được các mục tiêu ưu tiên cần phải xem xét các mô hình phân tích mục tiêu:
14


-

Mô hình cây mục tiêu
Mục tiêu cấp 1 là mục tiêu cao nhất
Việc thực hiện những mục tiêu thấp hơn là công cụ để thực hiện những mục tiêu cao hơn
Mục tiêu cấp thấp hơn hoạt động theo định hướng của mục tiêu cấp cao hơn
Trong việc tiến hành quy trình lập chính sách, người ta sẽ xác định mục tiêu cấp 1 trước.
Mô hình SMART

Mô hình này giúp chúng ta xác định được những mục tiêu dài hạn, ngắn hạn và trung hạn là vô cùng quan
trọng. SMART là viết tắt của những tiêu chí sau:
- S (specific – cụ thể): mục tiêu phải chính xác, rõ ràng. Mục tiêu càng cụ thể, càng dễ có khả năng đạt được
mục tiêu đó.
- M (Measurable – lượng hóa được): các chỉ tiêu của mục tiêu chính sách xã hội càng lượng hóa được cụ thể

càng có giá trị đối với tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện chính sách xã hội.
- A (Actions – hành động): đề ra những việc phải thực hiện để đạt được mục tiêu.
- R (Realistic – thực tế): Mục tiêu phải có tính khả thi
- T (Timing – thời gian): phân bổ khoảng thời gian hợp lí cho từng mục tiêu

15


9. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức hoạch định chính sách
Khái niệm: Tổ chức thực hiện chính sách xã hội là quá trình tổ chức và thức đẩy các hoạt động áp dụng
của chính sách xã hội vào cuộc sống nhằm tạo ra kết quả thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức của các cơ
quan chức năng nhà nước về quản lý xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu mà chính sách xã hội đưa ra.
Tổ chức thực hiện chính sách xã hội có vai trò quan trọng, quyết định để đưa chính sách vào cuộc sống, đạt
được kết quả của một chính sách xã hội.
Tổ chức thực hiện chính sách xã hội nếu yếu kém dẫn tới việc không chấp hành, áp dụng chính sách hoặc
chấp hành không đầy đủ.
Nhờ có tổ chức thực hiện mới phát hiện ra những hạn chế, thiếu xót của chính sách xã hội từ đó có thể bổ
sung
Việc đánh giá một chính sách xã hội chỉ đạt hiệu quả khi chính sách đó được thực hiện qua thực tiễn
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách xã hội
- Tính phức tạp của vấn đề xã hội cần giải quyết: thực tế cho thấy khi một chính sách xã hội nhằm giải quyết
một vấn đề xã hội phức tạp, quy mô đối tượng lớn, có liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau
như: khắc phục hậu quả chất độc da cam, xóa đói giảm nghèo hoặc một vấn đề có nhiều nguyên nhân đa
dạng…, thì quá trình thực hiện chính sách xã hội mất nhiều thời gian và công sức. Bởi khi thực hiện chính
sách xã hội đó đòi hỏi nhiều chủ thể cùng tham gia.
- Trình độ dân trí xã hội: xã hội càng văn minh hiện đại, nhận thức con người càng tiến bộ, trình độ dân trí
càng cao, mức sống cư dân cao, thì càng thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách xã hội.

16



- Khả năng kinh tế của quốc gia: với quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh, tăng trưởng kinh tế cao, thì Chính
phủ sẽ có khả năng lớn hơn, bớt khó khăn hơn trong việc thực hiện các chính sách xã hội, nhất là các chính
sách giảm nghèo, bảo trợ xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội…
- Trình độ công nghệ của quốc gia: trình độ công nghệ của quốc gia phát triển, hiện đại cũng có tác động thúc
đẩy việc thực hiện chính sách xã hội. ví dụ: công nghệ thông tin có vai trò quan trọng trong phổ biến chính
sách xã hội đến các đối tượng, tính toán tài chính trong trợ cấp xã hội, bảo hiểm xã hội, hỗ trợ cho việc thực
hiện chính sách giáo dục từ xa,…
- Tình hình quốc tế tác động tới thực hiện chính sách xã hội: trong bối cảnh toàn cầu hóa, các biến động kinh
tế, chính trị, xã hội của khu vực và thế giới ngày càng có tác động đáng kể đến việc thực hiện chính sách xã
hội của một quốc gia. Ví dụ: khi chiến tranh xảy ra giữ các cường quốc thì Việt Nam cũng chịu sự ảnh
hưởng không nhỏ. Việc thực thi chính sách tiền tệ, chính sách giao lưu buôn bán, chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài… sẽ hầu như không khả thi, điều đó còn có tác động đến việc thực hiện các chương trình việc
làm, chương trình xóa đói giảm nghèo giảm sút,…
- Yếu tố bộ máy và đội ngũ công chức, viên chức làm nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách xã hội: việc thực
hiện một chính sách xã hội vào cuộc sống đạt kết quả phụ thuộc nhiều vào yếu tố tổ chức bộ máy và năng
lục hoạt động của các cơ quan chức năng và các công chức, viên chức thực thi chính sách xã hội. Ví dụ: bộ
máy hành chính mà quan liêu, hoạt động kém hiệu lực và kém hiệu quả, nếu các công chức, viên chức thiếu
năng lực, thiếu trách nhiệm thì sẽ gây ra những cản trở cho việc thực hiện chính sách, không phát huy được
tác dụng của chính sách xã hội trên thực tế, làm sai lệch các mục tiêu của chính sách hoặc không thực hiện
được mục tiêu của chính sách…
- Yếu tố thủ tục hành chính: thủ tục hành chính thuận lợi tạo ra môi trường thực thi chính sách xã hội dạt kết
quả cao, tạo ra trình tự thủ tục hành chính khoa học, thuận lợi cho việc triển khai thực hiện các chính sách
xã hội. Ví dụ: thủ tục hành chính trong bảo hiểm xã hội, trong vay tín dụng giảm nghèo, trong trợ cấp xã
hội, …vẫn còm lạc hậu, rườm rà gây khó khăn cho các đối tượng khi tiếp cận với các chính sách xã hội.
- Yếu tố khả năng tài chính cho tổ chức thực hiện chính sách xã hội: trên thực tế, nếu thiếu hoặc không đủ tài
chính thì không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ các mục tiêu của chính sách xã hội.
17



- Yếu tố đồng thuận của nhân dân: chính sách xã hội đáp ứng đúng những đòi hỏi bức xúc của nhân dân thì sẽ
nhận được sự đồng tình ủng hộ và sẽ thực hiện được hiệu quả nhất.
10. Chính sách phòng chống tệ nạn xã hội
Có nhiều cách hiểu khác nhau về tệ nạn xã hội. Hiểu theo nghĩa chung nhất, Tệ nạn xã hội là những hiện
tượng xã hội mang tính phổ biến bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội gây ảnh hưởng xấu về đạo đức
và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với dời sống kinh tế - văn hóa – xã hội.
Bản chất của tệ nạn xã hội:
Các tệ nạn xã hội trước hết là những hiện tượng xã hội, nó không phải là những hành vi đơn nhất mang tính
cá nhân mà có nguồn gốc nảy sinh từ xã hội, có nguyên nhân từ xã hội và tồn tại phát triển của như cũng mang tính
chất xã hội. Những điều kiện xã hội về kinh tế, lối sống . . . là điều kiện nảy sinh và nuôi dưỡng tệ nạn xã hội. Điều
đó nói lên mối liên hệ tác động qua lại của các hiện tượng xã hội, với các quá trình đang diễn ra xung quanh đời
sống con người. Vì vậy khi nghiên cứu tệ nạn xã hội phải gắn với những sự kiện, hiện tượng xã hội khác mới hiểu
được bản chất của vấn đề, đồng thời phòng chống tệ nạn xã hội cũng phải xem xét giải quyết hàng loạt những vấn
đề xã hội khác nhau, những hiện tượng tiêu cực khác nhau trong xã hội.
Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, nó không tồn tại bất biến mà thay đổi cùng với sự thay
đổi của xã hội, mang màu sắc xã hội. Bản chất, hành vi, sự thể hiện, cả những dấu hiệu của tệ nạn xã hội cũng luôn
thay đổi cùng với mô hình, cơ cấu xã hội ở mỗi giai đoạn nhất định.
Đặc trưng của tệ nạn xã hội:
Thứ nhất, đây là những hiện tượng nguy hiểm đối với con người và xã hội. Tệ nạn xã hội làm hại đến các giá
trị xã hội cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, gây thiệt hại lớn về kinh tế, đạo đức, niềm tin trong nhân dân, gây mất an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…
18


Thứ hai, tệ nạn xã hội là những hành vi vỉ phạm pháp luật, tức là làm trái với những quy định của pháp luật.
Hành vi này ảnh hưởng lớn đến môi trường thực thi pháp luật trong xã hội, ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội dược
pháp luật điều chỉnh và bảo vệ.
 Tệ nạn ma túy
Khái niệm ma túy
Theo WHO: Ma tuý là thực thể hoá học hoặc thực thể hỗn hợp; khác với tất cả những cái được đòi hỏi để

duy trì tình trạng bình thường của cơ thể người, việc sử dụng những chất đó sẽ làm thay đổi chức năng sinh học
của con người”.
Luật phòng, chống ma tuý được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 9/12/2000 quy định (điều 2) xác định:
“Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”.
Ma túy là một số chất tự nhiên hoặc tổng hợp, khi đưa vào cơ thể sống dưới bất kì hình thức nào sẽ có tác
dụng ức chế hoặc kích thích hệ thần kinh, làm giảm đau hoặc có thể gây ảo giác.
Tệ nạn ma túy là tình trạng nghiện ma túy, tội phạm về ma túy và các hành vi trái phép khác về ma túy.
Người nghiện ma túy là những người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ
thuộc vào chất này.
Thực trạng nghiện ma túy ở Việt Nam
Nghiện ma tuý ở Việt Nam có xu hướng gia tăng cả về số lượng, địa bàn và thành phần người nghiện. Theo
báo cáo của Bộ Công an, đến tháng 12/2017 cả nước có trên 222.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý. Trong
đó, trên 67,5% người đang sinh sống ngoài xã hội; 13,5% người trong cơ sở cai nghiện, 19% người đang trong trại
tạm giam, tạm giữ, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Người nghiện cũng đã xuất hiện ở mọi thành phần xã hội:
19


học sinh, sinh viên, cán bộ công chức, người lao động... Trong tổng số người nghiện ma túy: 96% là nam giới, 4%
là nữ giới, 74% ở độ tuổi 18-35, có 1% dưới 18 tuổi.
Xu hướng chuyển từ sử dụng heroin sang ma tuý tổng hợp tăng dần. Tỷ lệ người sử dụng ma túy trong nhóm
kích thích dạng ma túy tổng hợp (ATS) ngày càng gia tăng chiếm 60 -70% trong số người nghiện.
Tính dến tháng 6/2018, cả nước có 120 cơ sở cai nghiện, trong đó có 105 cơ sở cai nghiện công lập và 15 cơ
sở cai nghiện dân lập với 34.620 học viên. Đến nay, tổng số người đang được điều trị cai nghiện tại các cơ sở là
34.620 học viên.
Như vậy, có thể thấy tình hình sử dụng ma túy ở Việt Nam vẫn đang diễn biến phức tạp và có xu hướng gia
tang, cùng với việc xuất hiện nhiều loại ma túy mới, hình thức sử dụng ma túy không an toàn làm tăng nguy cơ lây
nhiễm nhiều căn bệnh xã hội. Đa số người nghiện ma túy có trình độ văn hóa thấp, chưa được đào tạo nghề và
không có việc làm ổn định, thường gặp các vấn đề về sức khỏe, kinh tế khó khăn, nhiều người không được sự hỗ
trợ của người thân, gia đình. Do vậy, việc cần thiết nhất là hỗ trợ điều trị nghiện nhằm giúp họ từ bỏ sự lệ thuộc ma
túy, phục hồi các chức năng xã hội để đảm bảo hòa nhập xã hội bền vững. Hiệu quả của công tác điều trị nghiện

ma túy phụ thuộc vào nhiều yếu tố và sự trợ giúp của toàn xã hội.
 Tệ nạn mại dâm:
Khái niệm mại dâm
Theo Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, mại dâm được xác định “là hành vi mua dâm, bán dâm”.
Hiểu theo nghĩa chung nhất, mại dâm là hành vi trao đổi có tính chất mua bán ngoài phạm vi hôn nhân, trong
đó người bán dâm lấy cơ thể của mình và các hình thức làm tình để làm phương tiện thực hiện mục đích kiếm tiền
hoặc các giá trị vật chất khác nhằm thỏa mãn tình dục cho khách hàng. Mại dâm là hoạt động dùng dịch vụ tình dục
ngoài hôn nhân giữa người mua dâm và người bán dâm để trao đổi với tiền bạc, vật chất hay quyền lợi.
Tình hình mại dâm ở Việt Nam
20


Về mại dâm, cả nước có khoảng 200.000 gái mại dâm với 2000 chủ chứa. Có gần 15% phụ nữ bắt đầu đi vào
con dường mại dâm khi chưa đủ 18 tuổi, khoảng 68% phụ nữ ở lứa tuổi tử 18 – 30 tuổi.
Tình hình mại dâm xuất hiện trên tất cả các địa phương của cả nước, đặc biệt là các khu du lịch, các thành
phố lớn và các khu công nghiệp, các vùng giáp gianh dọc các tuyến của khẩu, biên giới. Tại các thành phố lớn như
Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có khoảng trên 70% số gái mại dâm là từ các tỉnh khác, từ vùng nông thôn.
Mại dâm trá hình trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, chủ yếu tập trung vào các loại hình mát xa, tẩm quất,
karaoke, cắt tóc gội đầu thư giãn, quán bar... lợi dụng để môi giới, dẫn dắt và tổ chức mua bán dâm. Hiện tượng
này cũng diễn ra ở một số cơ sở lưu trú như khách sạn, nhà nghỉ và thường là điểm đến để thực hiện hành vi giao
cấu.
Đối tượng tham gia mại dâm đa dạng về thành phần. Đa số là những thanh niên không nghề nghiệp ăn chơi
đua đòi còn có cả sự tham gia của Hoa hậu, người mẫu, diễn viên và cả những người có trình độ, có nghề nghiệp…
 Định hướng hoàn thiện chính sách về phòng, chống tệ nạn xã hội và ma túy, mại dâm
- Tệ nạn xã hội trong đó có ma túy, mại dâm là những hiện tượng xã hội gây nên hậu quả nghiêm trọng trong
đời sống kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội, trái với chuẩn mực đạo đức xã hội. Để giải quyết tận gốc nó
là một vấn đề rất phức tạp và khó khăn, đòi hỏi thái độ của xã hội, Đảng và Nhà nước phải kiên trì phòng,
chống tệ nạn mại dâm, nghiện hút và các tệ nạn khác.
- Con đường cơ bản để phòng ngừa, hạn chế và xóa bỏ tệ nạn xã hội là xây dựng một xã hội lành mạnh, duy
trì phong trào quàn chúng và tích cực phổ biến pháp luật về phòng chống TNXH và phòng chống tội phạm.

- Phát triển hình thức kết hợp giáo dục, cảm hóa, chữa bệnh, dạy nghề và đào tạo việc làm để hòa nhập đối
tượng xã hội vào cộng đồng.
- Nhà nước phải tiếp tục có chương trình quốc gia bài trừ hủ tục, phòng chống tệ nạn xã hội và tội phạm.
chương trình này được kết hợp với các chương trình khác như: chương trình quốc gia xúc tiến việc làm,
chương trình chống mù chữ, chương trình phòng chống HIV – AIDS… nội dung chương trình chủ yếu là
21


-

-

-

-

phát hiện, phân loại đối tượng, giám sát về sức khỏe, dạy nghề, tạo việc làm và tái hòa nhập đối tượng vào
cộng đồng.
Đa số các đối tượng tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm có hoàn cảnh kinh tế khó khăn vì vậy các đối tượng này
(đặc biệt là phụ nữ và trẻ em) càn được sự trợ cấp, giúp đỡ của xã hội. cần tiếp tục xây dựng thực hiện các
chương trình, dự án việc làm để ưu tiên cho các đối tượng tệ nạn xã hội.
Đưa nội dung giáo dục phòng chống ma túy, mại dâm và bệnh AIDS vào chương trình giảng dạy phổ thông.
Đồng thời, thúc đẩy nâng cao dân trí cho mọi tầng lớp nhân dân thông qua những hệ thống tuyên truyền,
giáo dục phù hợp và đa dạng, nâng cao nhận thức về nhân cách, có lối sống văn minh hướng tới các giá trị
tốt đẹp, kế thừa các phẩm chất đạo đức truyền thống.
Mở rộng các hình thức khám chữa bệnh cho các đối tượng mắc tệ nạn xã hội hoặc các đối tượng có nguy cơ
cao thông qua các cơ sở y tế Nhà nước, dịch vụ tư nhân. Bắt buộc kiểm tra, khám chữa bệnh cho các đối
tượng nghiện ma túy, mại dâm.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các hình thức tư vấn pháp lí, trong đó có tư vấn về pháp
luật phòng, chống tệ nạn xã hội, giáo dục trong xã hội.

Xây dựng và củng cố cơ quan chuyên trách phòng chống tệ nạn xã hội, tăng cường sự phối kết hợp giữa các
Bộ, ngành đoàn thể dể có các giải pháp tích cực nhằm phòng chống, dẩy lùi các TNXH
Coi trọng công tác quản lí Nhà nước trên từng địa bàn, mở rộng xây dựng xã, phường, cơ quan, tổ chức
không có tệ nạn xã hội gắn với vận động toàn dân doàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới.
Huy động nguồn lực của cộng đồng cho công tác cai nghiện, phòng, chống tệ nạn xã hội.
Thực hiện tốt cơ chế thi đua khen thưởng để động viên kịp thời các tập thể, cá nhân, xã, phường có nhiều
thành tích trong phòng chống tệ nạn xã hội…

11. Chính sách việc làm
Theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Người có việc làm là người làm việc trong các lĩnh
vực, ngành, nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn câm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và
gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội”.
22


Theo bộ Luật Lao dộng của nước ta: “việc làm là tất cả những hoạt động lao động tạo ra ngườn thu nhập mà
pháp luật không cấm”.
Việc làm là vấn đề xã hội bức xúc của mỗi quốc gia, là mối quan tâm thường trực của nhà nước và hàng triệu
người lao động để cải thiện thu nhập và mức sống của dân cư. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và
bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, thất nghiệp là một trong những nguyên nhân hang đầu dẫn đến tiêu cực xã
hội, làm gia tang csc tệ nạn xã hội và quan trọng hơn là nguyên nhân gây nên cuộc sống không ổn định, nghèo đói.
Có thể nói, Chính sách việc làm là tổng thể quan điểm, mục tiêu, giải pháp và công cụ nhằm tạo việc làm và
sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực xã hội. Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hóa pháp luật của nhà
nước trên lĩnh vực việc làm, là hệ thống quan điểm, phương hướng mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm cho
người lao động.
Vị trí, vai trò của chính sách việc làm:
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo
an toàn, ổn định và phát triển của xã hội.
Chính sách việc làm tác động đến một vấn đề rất nhạy cảm, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội khác. Ví

dụ: thực hiện tốt chính sách việc làm, nguồn lao động được sử dụng có hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm
đi, như vậy chính sách bảo hiểm xã hội sẽ giảm chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính sách việc
làm chưa được giải quyết tốt, nhất là vào thời kì suy thoái kinh tế thì nạn thất nghiệp sẽ tăng lên, và kéo theo nó là
tình trạng nghèo và các tệ nạn xã hội dễ dàng phát sinh. Khi đó, gánh nặng đối với các chính sách về bảo trợ xã hội,
an sinh xã hội sẽ tăng lên, thậm chí còn gây ra bất ổn định về chính trị, xã hội.
Tình hình việc làm ở Việt Nam hiện nay:
23


Theo thống kê năm 2018, lực lượng trong độ tuổi lao động của cả nước ước tính là 48,4 triệu người. Lực
lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 16,1 triệu người (chiếm 33,3%), lực lượng lao động nữ trong
độ tuổi là 22,1 triệu người (chiếm 45,8%) tổng số lao động trong độ tuổi của cả nước.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm có xu hướng giảm dần trong những năn gần đây. Số người thất nghiệp
trong quý 1/2018 là 1,1 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn quốc khoảng 2,01%. Tỷ lệ thất nghiệp của
thanh niên là trên 7%.
Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản và tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ. Hiện nay, cả nước có
38,6% số người làm việc trong khu vực nông lâm nghiệp, 26,7% trong khu vực công nghiệp, xây dựng và 34,7%
trong khu vực dịch vụ.
Quan điểm, giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm:
Trong bối cảnh thời đại toàn cầu hóa - tự do hóa, liên kết, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với
những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra mạnh mẽ với
công nghệ và trí tuệ quyết định sự thành công của mỗi quốc gia, doanh nghiệp; xu thế mở rộng và phát triển các
ngành sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao từng bước thay thế các ngành công nghệ thấp, giá trị gia tăng
thấp và thâm dụng lao động; những thách thức trong việc tạo cơ hội việc làm có năng suất cao hơn ở khu vực nông
thôn; nâng cao chất lượng nguồn lao động hướng tới việc làm năng suất, chất lượng cao… vừa đem lại những cơ
hội nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn đối với nước ta trong giải quyết việc làm cho người lao động. Để đảm
bảo phát triển hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, ổn định và nâng cao mức sống của người
dân, Cục Việc làm đã và đang tham mưu giúp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tập trung thực hiện đồng bộ
một số giải pháp chính sau:


24


- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về việc làm, thị trường lao động phù hợp với định hướng phát triển
KT-XH của đất nước trong bối cảnh hội nhập: nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách
nhằm hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động lớn tuổi, nhất là trong bối cảnh tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; các chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho các đối tượng yếu thế, các nhóm
đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội.
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, hoạt động hỗ trợ tạo việc làm như Chương trình
mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp - Việc làm và An toàn lao động giai đoạn 2016-2020; hoạt động hỗ trợ tạo
việc làm qua Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội; lồng ghép
chính sách việc làm công trong các chương trình, dự án phát triển KT-XH...;
- Hoàn thiện hệ thống thông tin TTLĐ; đẩy mạnh thu thập, cập nhật và phân tích thông tin TTLĐ và thông
tin về tình hình biến động, nhu cầu việc làm tại các doanh nghiệp; nâng cao chất lượng dự báo TTLĐ trong
ngắn hạn và dài hạn nhằm cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, chỗ việc làm trống, các khoá đào tạo...
giúp NLĐ, nhất là thanh niên, sinh viên lựa chọn và quyết định học nghề, tiếp cận việc làm phù hợp;
- Nâng cao năng lực hệ thống Trung tâm DVVL trong tư vấn, giới thiệu việc làm cho NLĐ và định hướng
nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên; phối hợp hoạt động của Trung tâm với các cơ sở đào tạo, các doanh
nghiệp; nâng tần suất phiên giao dịch việc làm, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm, hướng tới tổ
chức các hoạt động giao dịch việc làm phù hợp tại cơ sở; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động DVVL.
- Thực hiện có hiệu quả chính sách BHTN theo hướng cải cách thủ tục hành chính, tăng cường tư vấn, giới
thiệu việc làm và đào tạo nâng cao tay nghề cho NLĐ khi thất nghiệp để sớm quay trở lại TTLĐ; tổ chức
thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho
NLĐ; mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHTN…
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tuyên truyền, phổ biến việc thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc làm nhằm nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm. Cải
cách hành chính, tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý
Nhà nước về việc làm; thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về chính sách, chế độ đối với người dân.

25


×