Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Tiến tới xây dựng một từ điển động từ với kết trị cú pháp (dùng cho người nước ngoài) (luận văn thạc sỹ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 62 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===================

PHẠM THỊ HỒNG NHUNG

TIẾN TỚI XÂY DỰNG
MỘT TỪ ĐIỂN ĐỘNG TỪ VỚI KẾT TRỊ CÚ PHÁP
(DÙNG CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====================

PHẠM THỊ HỒNG NHUNG

TIẾN TỚI XÂY DỰNG
MỘT TỪ ĐIỂN ĐỘNG TỪ VỚI KẾT TRỊ CÚ PHÁP
(DÙNG CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Chủ tịch Hội đồng



GS.TS ĐINH VĂN ĐỨC

PGS.TS NGUYỄN VĂN CHÍNH

Hà Nội – 2017


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... 5
A. PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 6
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 6
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................................ 8
3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................................... 8
4. Nô ̣i dung nghiên cứu ........................................................................................................ 9
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................ 10
B. NỘI DUNG .................................................................................................................... 13
Chương 1: Cơ sở lý luận..................................................................................................... 13
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 13
2. Cơ sở lý thuyết ............................................................................................................... 15
2.1 Động từ trong hệ thống từ loại tiếng Việt ................................................................ 15
2.2 Cƣơng vị của động từ trong các phát ngôn giao tiếp .............................................. 16
2.2.1 Vị trí của động từ ....................................................................................................... 16
2.2.2 Cách xác định ............................................................................................................ 17
2.2.3 Cách phân loại ........................................................................................................... 19
2.2.4 Trong phương diện chức năng thành phần câu ......................................................... 21
2.3 Lý thuyết về kết trị ..................................................................................................... 23
2.3.1 Lịch sử nghiên cứu kết trị .......................................................................................... 23
2.3.2. Khái niệm kết trị ....................................................................................................... 26
2.3.3. Khái niệm kết trị của động từ ................................................................................... 27

2.3.4 Các khái niệm diễn tố(argument), chu tố (satellite), nút........................................... 28
2.3.5. Các kiểu kết trị của động từ ..................................................................................... 29
2.3.5.1 Kết trị nội dung và kết trị hình thức ....................................................................... 29
2.3.5.2. Kết trị bắt buộc và kết trị tự do.............................................................................. 31
2.4 Lý thuyết từ điển ........................................................................................................ 32
2.4.1 Khái niệm từ điển và từ điển học ............................................................................... 32
2.4.2 Vị trí của nghiên cứu từ điển học trong ngôn ngữ học .............................................. 33
2.4.3 Phân loại từ điển........................................................................................................ 34
3


2.5 Từ điển động từ dành cho ngƣời nƣớc ngoài .......................................................... 37
Chương 2: Mô tả tư liệu ..................................................................................................... 38
1. Nguyên tắc lập danh sách động từ tiếng Việt ................................................................ 38
1.1 Khái niệm bảng từ và các đơn vị từ ngữ trong bảng từ ......................................... 38
1.1.1 Khái niệm bảng từ...................................................................................................... 38
1.1.2 Các đơn vị từ ngữ trong bảng từ ............................................................................... 39
1.2 Khái niệm và đặc điểm của định nghĩa .................................................................... 39
1.2.1 Khái niệm về định nghĩa ............................................................................................ 39
1.2.2 Đặc điểm của định nghĩa ........................................................................................... 40
1.3 Khái niệm và đặc điểm của ví dụ.............................................................................. 41
1.3.1 Khái niệm ................................................................................................................... 41
1.3.2 Đặc điểm và vai trò của ví dụ .................................................................................... 41
2. Nguyên tắc giải nghĩa (ví dụ) .................................................................................... 42
Chương 3: Bảng đô ̣ng từ tiế ng Viê ̣t dưới da ̣ng mô ̣t từ điể n ............................................... 51
C. Kế t luâ ̣n .......................................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 61

4



LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học với đề tài “Tiến tới xây dựng
một từ điển động từ với kết trị cú pháp

(dùng cho ngƣời nƣớc ngoài )” là kết

quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động viên
khích lệ của các thầy cô, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Qua trang viết này tác
giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập nghiên cứu khoa học vừa qua.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với GS.TS Đinh Văn Đức,
người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa học
cần thiết cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ học, trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc
nghiên cứu khoa học của mình.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè đã giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn.
TÁC GIẢ

Phạm Thị Hồng Nhung

5


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Hiện nay, nhu cầu học tiếng Việt của người nước ngoài ngày càng tăng. Đó
là một hệ quả tất yếu của sự hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa. Nước ta đang
từng bước khẳng định vị trí của mình trên toàn thế giới với một nền kinh tế tăng

trưởng mạnh và là một thị trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, hàng năm lượng người
nước ngoài đến sinh sống học tập và làm việc ở nước ta ngày càng tăng. Phần lớn
họ đều có nhu cầu học tiếng Việt. Việc này giúp họ phá vỡ rào cản ngôn ngữ để
giao tiếp và hiểu rõ hơn về con người, văn hóa Việt Nam. Đáp ứng nhu cầu đó,
hoạt động dạy tiếng Việt cũng ngày càng đa dạng hơn, cả về đối tượng học và về
người dạy học. Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài đã có khá nhiều, tuy nhiên chưa thực sự triệt để và chuyên
nghiệp.
Việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài đã diễn ra từ nhiều năm nay . Dạy
tiế ng Viê ̣t cho người nước ngoài đã và đang dầ n dầ n trở thành mô ̣t phong trào trong
nước và ngoài nước . Trong điề u kiê ̣n hô ̣i nh ập, phong trào da ̣y và ho ̣c tiế ng Viê ̣t
đang có xu hướng phát triể n ngày mô ̣t ma ̣nh mẽ hơn . Vì vậy, nô ̣i dung và phương
pháp dạy tiếng Việt đang từng bước được cải tiến , trên cả ba phương diê ̣n ngữ âm ,
từ vựng, ngữ pháp.
1.2 Từ thập niên 90 cho đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã và đang áp
dụng “tiến trình giao tiếp” (the Communicative Language Teaching Approach) để
giảng dạy ngôn ngữ. Sở dĩ tiến trình giao tiếp được toàn cầu hóa như vậy là do
những công trình nghiên cứu và kết quả những cuộc thử nghiệm và áp dụng giảng
dạy.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, và mục đích của việc học ngôn ngữ là để
giao tiếp. Theo quan điểm truyền thống, dạy ngôn ngữ theo tiến trình cấu trúc
6


(structural approach), việc dạy ngôn ngữ chú trọng dạy cho học sinh nhiều kiến
thức về từ pháp và cú pháp, đặc biệt chú trọng về từ loại. Trái lại, quan điểm của
tiến trình giao tiếp là dạy cho người học biết về đặc điểm cấu trúc của ngôn ngữ
nhưng là để dùng trong giao tiếp chứ không phải biết nhiều mà không dùng được.
Riêng về phương diê ̣n ngữ pháp , trong việc giảng dạy ngoại ngữ nói chung,
việc dạy và học tiếng Việt nói riêng, ngày nay người ta đang có xu thế chuyển dần

từ da ̣y ngữ pháp mô tả sang ngữ pháp giao tiế p

, với các phát ngôn là đố i tươ ̣ng

chính. Hạt nhân của các phát ngôn là các sự tình (state affairs). Trong tiế ng Viê ̣t, đa
phầ n các sự tin
̀ h đươ ̣c biể u thi ̣bằ ng Vi ̣ngữ – Động từ. Như vâ ̣y, nế u muố n đa ̣t hiê ̣u
quả trong dạy và học tiế ng Viê ̣t t hì viê ̣c ho ̣c và rèn luyê ̣n đô ̣ng từ cũng như cách
dùng động từ tất yếu cần được ưu tiên.
1.3 Để bắt đầu học bất kì một ngoại ngữ nào người ta cũng đều bắt đầu từ “từ”
– đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, mà trong đó, vị từ được coi là loại từ có tính phổ quát
nhất, có vai trò thiết yế u nhất trong việc tạo câu (đơn vị giao tiếp cơ bản nhất của
con người). Vị từ là những từ có khả năng tự mình làm vị ngữ hoặc hạt nhân ngữ
nghĩa của một vị ngữ biểu thị nội dung sự tình của thế giới đươ ̣c nói đế n trong câu.
Động từ là loại từ có số lượng rất lớn và có đặc tính hết sức phức tạp. Về vai trò
ngữ pháp, động từ là trung tâm của phần lớn câu tiếng Việt. Trong tiếng Việt,
người ta đã thống kê được, số câu mà có vị ngữ là động từ chiếm 88% (theo
Nguyễn Kim Thản, 1977). Do có địa vị quan trọng trong hệ thống từ loại mà động
từ luôn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Qua một số công trình nghiên
cứu như: Từ loại tiếng Việt I & II của Đinh Văn Đức, Cụm động từ tiếng Việt của
Nguyễn Phú Phong, Các động từ chỉ hướng trong tiếng Việt của Nguyễn Kim
Thản, Kết trị của động từ Tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc... ta thấy diện mạo của
động từ ngày càng trở nên rõ ràng hơn.

7


Bên cạnh đó, lí thuyết kết trị (theory of valence) là một lí thuyết ngôn ngữ học
quan trọng. Sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã có ảnh hưởng lớn và được vận dụng
rộng rãi vào việc nghiên cứu ngữ pháp, ngữ nghĩa của các ngôn ngữ, trong đó có

các ngôn ngữ đơn lập.
1.4 Cho đế n nay , chưa có bấ t kì mô ̣t tài liê ̣u nào lâ ̣ p danh sách đô ̣ng từ với tư
cách là một hướng dẫn cho người học

. Bởi vâ ̣y , ở luận văn này , chúng tôi chủ

trương bù đắ p vào sự thiế u hu ̣t đó , bằ ng cách tiế n tới xây dựng mô ̣t từ điể n đô ̣ng từ
với mu ̣c đić h hướng đế n người học, hướng dẫn và phu ̣c vu ̣ nhu cầ u da ̣y và ho ̣c
tiế ng Viê ̣t.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn “Tiến tới xây dựng một từ điển động từ dưới kết trị cú pháp (dành
cho người nước ngoài)”, dưới góc độ ngôn ngữ học, mà cụ thể ở đây chúng tôi vận
dụng những kiến thức, hiểu biết về động từ và các kết trị, bước đầu mô tả các động
từ tiếng Việt khi đứng cạnh các kết trị cú pháp của nó (bổ ngữ, trạng ngữ)
Bên cạnh đó, qua luận văn này, chúng tôi cũng có tham vọng đặt nền móng xây
dựng một từ điển động từ, phục vụ mục đích dạy tiếng với đối tượng chính là
người nước ngoài học tiếng Việt. Từ đó góp phần đưa tiếng Việt trở thành một
ngoại ngữ được giảng dạy một cách bài bản, có hệ thống, từng bước nâng cao vị
thế của ngôn ngữ này so với các ngoại ngữ khác.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu quan trọng nhất của luận văn này là động từ tiếng Việt.
Chúng tôi nhận diện động từ tiếng Việt, từ đó lập danh sách miêu tả dưới các
phương pháp phân tích từ vựng ngữ pháp trên phương diện từ loại, phương pháp
phân loại,…

8


Tiế p đó , chúng tôi mong muốn lập được danh sách những động từ thường gặp ,
với những đă ̣c trưng ngữ pháp quan yế u (về phương diê ̣n kế t hơ ̣p và phương diê ̣n

chức năng thành phầ n câu).
4. Nô ̣i dung nghiên cƣ́u
4.1 Nhận diê ̣n đô ṇ g từ thông qua mô ̣t từ điể n phổ du ̣ng , đươ ̣c nhiề u người biế t .
Ở đây, chúng tôi lựa chọn từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, chỉnh lý và tái
bản năm 2010. Công trình khoa học từ điển giải nghĩa tiếng Việt được biên soạn và
cách thức tổ chức làm việc quy mô rất công phu, từ ngữ được giải thích chính xác,
trình bày khoa học, hợp lý với khối lượng ngữ liệu đồ sộ và hệ thống lý luận từ
điển học. Các mục từ được xử lý hợp lý, đầy đủ và chính xác trên hê ̣ thố ng tư liê ̣u
đồ sô ,̣ có độ tin cậ y cao đưa ra nhiều thí dụ phong phú, đa dạng, chuẩn mực và
mang tính điển hình rất cao.
4.2 Lập danh sách các động từ. Trong cuốn từ điển tiếng Việt, mà trong luận văn
này chúng tôi xin phép được gọi là từ điển Hoàng Phê, động từ được đánh dấu một
cách rõ ràng bằng ký hiệu đg.
4.3 Lập danh sách động từ. Công việc này được tiến hành dựa chủ yếu trên
nguồn tài liệu sơ cấp là cuốn từ điển Hoàng Phê. Chúng tôi xem xét và lập danh
sách tất cả những động từ thường gặp với các đặc trưng ngữ pháp quan yếu, cả về
phương diện kết hợp lẫn chức năng thành phân câu, phục vụ cho mục đích dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài.
4.4 Phân loại động từ. Như đã khẳng định, động từ chiếm một khối lượng lớn
trong hệ thống từ loại tiếng Việt (hơn 88%). Trong luận văn này, chúng tôi chia
động từ ra thành các nhóm sau: nhóm động từ tình thái, nhóm động từ ngôn hành,
nhóm động từ cảm nghĩ nói năng, nhóm động từ chỉ hướng, nhóm động từ hành
động, nhóm động từ tư thế trạng thái, nhóm động từ quá trình. Dựa vào sự phân
loại này, chúng tôi mong muốn đưa lại cái nhìn đa chiều hơn về động từ tiếng Việt.
9


4.5 Mô tả những đặc trưng lớn trong việc sử dụng. Những đặc trưng này được
chúng tôi xem xét dưới đầy đủ các khía cạnh về mặt ý nghĩa, cách sử dụng thông
thường và trong các ngữ cảnh cụ thể (mà ở đây nó được thể hiện qua các ví dụ

minh họa).
4.6 Tổ chức danh sách động từ dưới dạng một bản từ điển. Nội dung bản từ điển
này được trình bày rất rõ ràng, mạch lạc theo thứ tự bảng chữ cái ở chương 3. Có
thể nói, đây là nền móng cho một cuốn từ điển hướng đến đối tượng và mục đích sử
dụng rõ ràng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn này được tiến hành dựa trên tài liệu sơ cấp là cuốn Từ điển tiếng Việt
của Viện Ngôn ngữ học, do Hoàng Phê chủ biên (NXB Từ điển Bách khoa, tái bản
năm 2010) với 10660 động từ tiếng Việt.
Để tiến hành nghiên cứu nguồn tài liệu này, chúng tôi sử dụng các thủ pháp
thống kê các động từ lần lượt theo thứ tự xuất hiện; liệt kê, phân loại động từ trong
hệ thống từ loại đa dạng và phong phú của tiếng Việt. Các thủ pháp liệt kê, thống
kê, phân loại sẽ giúp chúng tôi có tư liệu rõ ràng và đầy đủ để phân tích định lượng
dựa trên mẫu tài liệu sơ cấp này. Phương pháp miêu tả chủ yếu được dùng để miêu
tả kết trị cú pháp của các động từ tiếng Việt. Phương pháp phân tích dựa trên khung
lý thuyết về kết trị, tính nội động/ngoại động của động từ tiếng Việt,… giúp miêu
tả làm rõ phương thức hoạt động của chúng.
Cơ sở lý luận của khóa luận dựa vào lý thuyết về động từ của các tác giả
Nguyễn Kim Thản (Động từ trong tiếng Việt, 1977), Nguyễn Thị Quy (Ngữ pháp
chức năng tiếng Việt – Vị từ hành động, 2002), Lê Kính Thắng (Phạm trù nội
động/ngoại động trong tiếng Việt, 2009),… cùng những tài liệu quan trọng khác về
ngữ pháp tiếng Việt như tác giả Đinh Văn Đức (Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại I &
II, 2015)…
10


Các tài liệu lưu trữ, chính sách, giáo trình…về vấn đề biên soạn và xuất bản từ
điển dành cho người nước ngoài cũng được thu thập.
Luận văn này được thực hiện theo các bước sau:
Bước một, chúng tôi thu thập tài liệu tham khảo mang tiń h chấ t tư liê ̣u là Từ

điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Hoàng Phê chủ biên (NXB Từ điển
Bách khoa, tái bản năm 2010) và các tài liệu về mă ̣t lý thuyế t bao gồ m lý thuyết về
động từ của các tác giả Nguyễn Kim Thản (Động từ trong tiếng Việt, 1977),
Nguyễn Thị Quy (Ngữ pháp chức năng tiếng Việt – Vị từ hành động, 2002), Lê
Kính Thắng (Phạm trù nội động/ngoại động trong tiếng Việt, 2009),… cùng những
tài liệu khác về ngữ pháp tiếng Việt như tác giả Đinh Văn Đức (Ngữ pháp tiếng
Việt – Từ loại I & II, 2015)… Ngoài ra còn có các tài liệu tham khảo thêm như một
số từ điển Tiếng Việt phổ biến trên thị trường, bao gồm cả từ điển giấy và từ điển
trực tuyến (tratu.coviet.vn, vietlex.com,…)
Bước hai, đối với tài liệu sơ cấp, chúng tôi đọc, phân loại và liệt kê hệ thống
10660 động từ tiếng Việt, được ghi chú với từ viết tắt đg.
Bước ba, đối với tài liệu thứ cấp: xác định được yêu cầu luận văn đặt ra “Tiến
tới xây dựng một từ điển động từ dưới kết trị cú pháp (dành cho người nước
ngoài)”, chúng tôi thực hiện phân tích các khái niệm để xác lập khung lý thuyết
cho nghiên cứu của mình. Các khái niệm về động từ, từ điển và kết trị cú pháp lần
lượt được nêu rõ dựa trên các nghiên cứu của Nguyễn Kim Thản (1977), Nguyễn
Thị Quy (2002), Đinh Văn Đức (2015), Lý Kính Thắng (2009), Nguyễn Mạnh Tiến
(2015),…
Bước bốn, xử lý tư liệu và tiến hành soạn thảo từ điển động từ.
Bước năm, xác lập nguyên tắc giải nghĩa thông qua hệ thống lý luận về phương
pháp biên soạn từ điển, định nghĩa về từ điển giải thích

11


Cuối cùng, chúng tôi tiến hành miêu tả các kết trị cú pháp của động từ trong từ
điển này.
Luận văn chưa thể khẳng định hay đưa ra một kết quả mang tính đột phá,
nhưng chúng tôi bước đầu hiện thực hóa việc xây dựng một từ điển động từ dưới
kết trị cú pháp trong tương lai, đồng thời xác định rõ đối tượng mà nó hướng đến là

dành cho người nước ngoài học tiếng Việt, với tham vọng chuyên nghiệp hóa việc
giảng dạy tiếng Việt.

12


B. NỘI DUNG
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về sự tồn tại của động từ tiếng Việt, từ trước đến nay luôn có rất nhiều ý kiến
nhưng có hai ý kiến trái ngược nhau. Ý kiến thứ nhất phủ nhận sự tồn tại của động
từ và ý kiến thứ hai thừa nhận sự tồn tại của động từ. Những người có ý kiến thứ
nhất như M. Grammont và Lê Quang Trinh phủ nhận khả năng phân định các loại
từ trong tiếng Việt. Do đó, các tác giả cũng phủ nhận sự tồn tại của động từ. Các
tác giả này cho rằng trong tiếng Việt, không có mạo từ, danh từ, đại từ, động từ,
cũng không có giống, số mà chỉ có những từ không thôi; những từ này đều là đơn
âm tiết, nói chung không biến đổi, ý nghĩa của chúng thay đổi hay được xác định
nhờ những từ đặt trước hay theo sau, nghĩa là nhờ chức năng, vị trí của chúng ở
trong câu.
Ý kiến thứ hai thừa nhận sự tồn tại của động từ, nhưng những người theo ý kiến
này lại khác nhau về điểm xuất phát cũng như về kết quả đạt được. Trong loại ý
kiến thừa nhận sự tồn tại của động từ tiếng Việt, Nguyễn Kim Thản có phân ra làm
bốn loại: loại thứ nhất có sự lẫn lộn giữa động từ và vị ngữ bắt nguồn từ thời cổ Hi
Lạp; loại thứ hai xuất phát từ ý nghĩa; loại thứ ba xuất phát từ hình thức ngữ pháp
(hiểu theo nghĩa rộng), chủ yếu là khả năng kết hợp của từ, loại thứ tư chú ý tới cả
đặc điểm ý nghĩa và đặc điểm hình thức của từ. Những tác giả chủ trương xuất phát
từ ý nghĩa để xác định loại từ là Đinh Văn Đức, Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh,
Nguyễn Lân,…
13



Người chủ trương dựa vào hình thức ngữ pháp (khả năng kết hợp) - tương
đương loa ̣i thứ ba theo phân loa ̣i của Nguyễn Kim Thản

để xác định từ loại là Lê

Văn Lý. Ông chỉ ra: người chức năng chủ nghĩa tốt nhất là làm việc không dựa vào
ý nghĩa của các từ, mà dựa vào chức năng của chúng, sự ứng phó của chúng và kết
cấu của chúng… không phải là nhìn vào bản thân từ để tìm ra cái quy định đặc tính
của nó, mà phải nhìn vào hoàn cảnh của nó, tức là khả năng kết hợp với các từ khác
trong ngôn ngữ. Bằng cách dựa vào khả năng kết hợp và không kết hợp với những
từ chứng, Lê Văn Lý chia từ trong tiếng Việt làm ba loại chính A, B, C. Trong loại
B có hai loại nhỏ hơn: loại B theo tác giả tương đương với động từ và B’ thì tương
đương với tính từ. Theo ông, loại B gồm tám đặc điểm như sau:
 Có khả năng đặt trước nhiều, lắm, bao nhiêu và không thể đặt sau những từ này.
 Đặt sau những từ chỉ loại như người, kẻ, đồ, việc, cái, con thì trở thành loại A
(danh từ).
 Có thể đặt trước một từ chỉ định, một từ chỉ phẩm chất, qua các từ trung gian,....
 Có thể đặt sau những từ chỉ vị trí, nhưng phải có một từ môi giới như lúc, khi,
chỗ, nơi...
 Có thể đặt sau những từ chỉ ngôi và những từ nghi vấn.
 Có thể đặt sau những từ hãy, cứ, hẵng, kẻo, chớ, gì, ước gì, vẫn vốn, đang,
đương, sẽ, sắp, đã, chỉ, bị, chịu, đều, thà, đành.
 Có thể đặt sau những hình vị phủ định: không, chưa, chẳng, đừng, chớ.
 Có thể đặt trước những hình vị phủ định, khi đó, câu được tạo ra là câu nghi
vấn.
Loại ý kiến thứ tư theo phân chia của Nguyễn Kim Thản chủ trương phân định
từ loại dựa vào cả ý nghĩa lẫn hình thức ngữ pháp. Các tác giả chứng minh sự tồn
tại của danh từ và động từ tiếng Việt bằng cách đối lập khả năng kết hợp của hai từ
loại, như khả năng kết hợp với những từ chỉ định( này, kia…), với từ chỉ sở thuộc,

14


với đại từ (có là và không có là), với định ngữ tính từ (danh từ thì kết hợp trực tiếp,
động từ thì có thể có từ cho), với những từ phủ định. Gần đây, qua một số công
trình nghiên cứu như của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy, Nguyễn Văn Lộc...việc
nghiên cứu động từ nói chung cũng như động từ chủ động nói riêng đã có phần rõ
nét hơn.Tuy nhiên, về động từ chủ động đến nay hầu như chưa có công trình nào
nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1 Động từ trong hệ thống từ loại tiếng Việt
Theo định nghĩa của Đại từ điển (Nguyễn Như Ý chủ biên): “Động từ là từ loại
thực từ biểu thị hành động, trạng thái như một quá trình, chủ yếu làm chức năng vị
ngữ trong câu. Trong ngôn ngữ biến hình, động từ có các phạm trù ngữ pháp để chỉ
ra các quan hệ của phát ngôn với thời điểm nói năng, với thực tế: nêu rõ những
người tham gia vào một hành vi ngôn ngữ,… các phạm trù ngữ pháp đó là: thời,
thể, thức, dạng, ngôi, số, giống. Động từ trong ngôn ngữ biến hình thường có hệ
hình thái và mô hình cấu tạo từ riêng”.
Theo Nguyễn Lân (Ngữ pháp lớp 7 (1956), NXB Giáo dục): “Động từ là thứ từ
dùng để biểu diễn một động tác hoặc một hành vi, một ý nghĩa hoặc một cảm xúc,
một trạng thái hoặc sự phát triển, sự biến hóa của một trạng thái”.
Theo Đinh Văn Đức (1986): “Cùng với danh từ, động từ là một trong hai loại từ
cơ bản. Động từ thì gắn với các từ thuộc phạm trù vận động”.
Theo Diệp Quang Ban: “Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá
trình – Ý nghĩa thể hiện trực tiếp đặc trưng vận động của thực thể. Đó là ý nghĩa
hành động, ý nghĩa trạng thái được khái quát hóa trong mối liên hệ với vận động
của thực thể trong không gian và thời gian”.

15



Như vậy, qua các định nghĩa trên, có thể rút ra được cách hiểu về động từ như
sau: Động từ là thực từ, có chức năng biểu thị hành động và trạng thái của sự vật,
hiện tượng.

2.2 Cƣơng vị của động từ trong các phát ngôn giao tiếp
2.2.1 Vị trí của động từ
Động từ là một từ có chức năng tự mình làm thành một vị ngữ hoặc làm trung
tâm ngữ pháp, hay làm hạt nhân ngữ nghĩa của một vị ngữ biểu hiện nội dung của
sự thể. Vai trò của động từ đã được Nguyễn Kim Thản khẳng định: “Trong câu,
động từ gần như là trung tâm của các mối quan hệ của các từ, nó không những có
quan hệ tường thuật với từ chỉ chủ thể, mà còn có quan hệ chính-phụ với những từ
chỉ đối tượng, chỉ hoàn cảnh, trạng thái… đặt sau nó”.
Chức năng biểu hiện nội dung của sự thể (tức của phần Thuyết của câu đơn)
không phải chỉ do Vị ngữ (ngữ đoạn vị từ) đảm nhiệm. Nhưng câu có vị ngữ làm
trung tâm cho phần Thuyết chính là các loại tiêu biểu nhất, có xác suất sử dụng cao
nhất (chiếm khoảng 72% các loại văn bản nghệ thuật)
Động từ là loại từ được dùng làm vị ngữ một cách vô điều kiện nhất, nghĩa là
không cần dùng đến sự hỗ trợ của bất kỳ phương tiện đánh dấu nào, trong khi các
từ khác (nhất là danh từ) đều không thể tự mình làm vị ngữ mà phải được dẫn nhập
bằng một lượng từ chỉ số, một giới từ hay một hệ từ như là hay có. Ví dụ như:
Cháu này hai bốn tuổi rồi.; Xe này bốn bánh.;…
Bên trong các ngữ đoạn, động từ hay danh từ, đại từ có thể dùng ở một chức
năng phụ, làm phụ ngữ cho trung tâm động từ hay danh từ của ngữ đoạn. Dĩ nhiên,
lúc bấy giờ, nó không biểu hiện nội dung của sự thể nữa mà chỉ dùng để xác dịnh
16


hoặc miêu tả sự vật được trung tâm của ngữ đoạn biểu thị. Ở chức năng này, vị từ
thường có thể còn là thành phần thứ hai của một tiểu cú bị xuống cấp, biểu hiện

một nhận định được tiền giả định. Ở đây, hầu như không có sự phân biệt giữa các
từ loại; bất cứ từ loại nào – danh từ, động từ, đại từ, phó từ và thậm chí cả những
tiểu cú (những kết cấu thường gọi là “chủ vị”) – cũng đều có thể làm phụ ngữ cho
một hạt nhân danh từ hay động từ, và như vậy, địa vị phụ ngữ có thể coi là một
trường hợp trung hòa hóa chức năng, một “vị trí yếu” theo thuật ngữ của trường âm
vị học Moskva, không thể sử dụng để xét đặc tính phân định từ loại. Chính điều
này củng cố thêm nhận định nói rằng chức năng tiêu biểu của động từ là làm hạt
nhân của vị ngữ hay tự nó làm thành một vị ngữ, biểu hiện nội dung của sự thể
được phản ánh trong câu.
2.2.2 Cách xác định
Trên thực tế, có rất nhiều phương diện có thể dựa vào đó để xác định động từ
tiếng Việt.
a. Dựa vào ý nghĩa
Động từ là thực từ, dùng để chỉ hành động, trạng thái của sự vật, hiện tượng.
Nghĩa hoạt động đặc trưng cho động từ là nghĩa ngữ pháp. Hoạt động mà động từ
biểu thị hiểu theo nghĩa ngữ pháp có thể không trùng với hoạt động cụ thể. Ví dụ
như các động từ trở thành, trở nên, bị, được,… không chỉ hoạt động cụ thể nào
trong thực tế của sự vật, hiện tượng mà chỉ các hoạt động trừu tượng, hoạt động
hiểu theo nghĩa ngữ pháp. Vì vậy, nghĩa ngữ pháp hoạt động được coi là nghĩa đặc
trưng cho tất cả các động từ, kể cả các động từ thực từ lẫn động từ ngữ pháp.
b. Dựa vào khả năng kết hợp
Động từ có khả năng kết hợp với các phụ từ hay phó từ để biểu thị các ý nghĩa
quan hệ có tính tình thái giữa quá trình với các thức và quá trình với các đặc trưng

17


vận động của quá trình trong không gian, thời gian và trong hiện thực. Cụ thể như
sau:
Động từ có khả năng kết hợp về phía trước với các phụ từ thời thể như: đã, sẽ,

đang, đừng, chớ, hãy… Ví dụ trong câu: Anh đừng nói nữa!
Động từ có khả năng kết hợp về phía sau với các phụ từ khác để tạo thành
nhóm động từ, bao gồm:
Nhóm thành tố phụ chỉ phương hướng: ra, vào, lên, xuống,… vd: Thằng bé trèo
lên cây
Nhóm thành tố phụ chỉ kết quả: xong, rồi,… vd: Làm xong bài tập rồi. Ăn xong
rồi.
Động từ kết hợp với các thực từ để phản ánh các quan hệ trong nội dung vận
động của quá trình. Ví dụ như: cô ấy chạy, em bé nằm.
c. Dựa vào chức năng cú pháp
Động từ có khả năng giữ nhiều chức năng ngữ pháp khác nhau, nhưng chức
năng quan trọng nhất của động từ là chức năng làm vị ngữ. Ngoài ra, động từ còn
tham gia đảm nhiệm nhiều chức năng khác trong câu như: bổ ngữ, chủ ngữ, định
ngữ, trạng ngữ. Xét các ví dụ dưới đây:
(1a) Mẹ cấm nó xem tivi.

(2a) Lao động là vinh quang.

(1b) Tôi muốn nghỉ ngơi.

(2b) Bỏ phiếu là quyền và nghĩa vụ của
công dân.

 Động từ có khả năng làm bổ ngữ

 Động từ có khả năng làm chủ ngữ
(3a) Ngày lên đƣờng đã cận kề.

(4a) Nghe bà ta nói, máu nóng chị dồn
lên đầu.


(3b) Hàng mới về chưa niêm yết giá.
 Động từ có khả năng làm định

(4b) Nhìn bạn bè trang lứa lần lượt đi
lấy chồng, trong lòng nó không giấu nổi

18


ngữ

nỗi buồn phiền.
 Động từ có khả năng làm trạng
ngữ

Như vậy, động từ là loại thực từ cơ bản trong kho từ vựng của bất kỳ ngôn ngữ
nào. Ý nghĩa khái quát của động từ là chỉ hoạt động, trạng thái của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan cũng như trong đời sống tinh thần của con người.
Động từ có khả năng kết hợp về phía trước với các phụ từ thời thể, về phía sau với
csc phụ từ chỉ hướng, chỉ sự hoàn thành, kết thúc để tạo nhóm. Chức năng ngữ
pháp cơ bản của động từ là làm vị ngữ trong câu.
2.2.3 Cách phân loại
Động từ là một nhóm từ loại lớn, bao gồm hàng vạn từ và rất không đồng nhất,
có nhiều các tiểu loại, các nhóm đối lập nhau theo những đặc trưng nhất định. Vấn
đề phân loại động từ đã có nhiều nghiên cứu chuyên sâu của các tác giả lớn. Trong
luận văn này, chúng tôi xin chỉ nêu ra một vài ý kiến khái quát nhất về phân loại
động từ.
a. Phân loại dựa vào ý nghĩa và hình thức ngữ pháp
Cách phân loại này còn có thể hiểu là dựa vào khả năng kết hợp và chức năng

cú pháp của động từ. Với cách phân loại này, động từ có thể được chia thành hai
nhóm lớn: động từ - thực từ và động từ ngữ pháp (bán thực từ).
Động từ - thực từ là những động từ có ý nghĩa cụ thể, chân thực, có khả năng
thay thế bằng từ nghi vấn (làm gì?, làm sao?,…), độc lập làm vị ngữ (đi, chạy,
nhảy, ăn, đọc, viết, vẽ,…). Các động từ - thực từ được phân chia thành động từ chủ
động (chỉ hoạt động có chủ ý, xuất phát từ chủ thể có thể điều khiển được theo ý
muốn của mình như: đi, ăn, chạy, đứng, ngồi,…) và động từ không chủ động (chỉ
hoạt động không xuất phát từ chủ thể và chủ thể không điều khiển được theo ý
muốn của mình như: cháy, tan, vỡ, rơi,…)
19


Động từ ngữ pháp là những động từ không có ý nghĩa cụ thể, chân thực (trở
thành, trở nên, bị, được,…). Đây là nhóm động từ đã bị hư hóa, rất trống nghĩa từ
vựng, chỉ các hoạt động trừu tượng, khái quát. Do đó, các động từ này không có
khả năng thay thế bằng từ nghi vấn hay khả năng độc lập trả lời câu hỏi. Động từ
ngữ pháp cũng được chia thành động từ tình thái (có thể, nên, cần, toan, định…) và
động từ quan hệ (là, khiến, bị, được, trở nên,…)
Căn cứ vào ý nghĩa và hình thức cú pháp, có thể chia động từ thành nhiều tiểu
loại với những đặc trưng riêng ứng với nó.
b. Phân loại dựa vào đặc điểm chi phối
Sự chi phối của động từ, nói chung, là khả năng của động từ đòi hỏi sự có mặt
và quy định đặc tính về ý nghĩa và hình thức của các bổ ngữ. Sự chi phối này được
cho là áp dụng cung đối với cả ngôn ngữ biến hình và không biến hình.
Theo cách phân loại này, động từ được chia thành hai loại chính là động từ nội
hướng (nội động) và động từ ngoại hướng (ngoại động).
Động từ nội động là động từ không chi phối bổ ngữ, như các động từ: nằm,
ngủ, đứng, thức,… Động từ ngoại động là các động từ có khả năng chi phối bổ ngữ
như: ăn, đánh, vẽ, viết, đọc, đào,…
Tuy nhiên, sự đối lập giữa hai nhóm động từ nội động và ngoại động chưa hẳn

đã rõ ràng, bởi lẽ vẫn tồn tại một nhóm các động từ trung tính như: có, còn, tan,
cháy, lắc,…
c. Phân loại dựa vào đặc điểm kết hợp
Trong những năm gần đây, việc phân loại động từ không chỉ dừng lại ở những
đặc điểm cú pháp của động từ, mà chủ yếu là tính chất chi phối của động từ mà còn
chú ý tới những đặc điểm kết hợp của động từ. Trong cách phân loại này, dựa vào
kết trị của động từ chính là xem xét thuộc tính kết hợp của động từ về mặt cú pháp.

20


Theo cách phân loại này, có thể chia động từ ra thành động từ vô trị (động từ
không đòi hỏi diễn tố: mưa, nắng, sáng, tối,…), động từ đơn trị (động từ đòi hỏi
một diễn tố: thực, ngủ, đi, đứng, ngồi, nằm), động từ song trị (động từ đòi hỏi hai
diễn tố: ăn, đọc, đánh,…), động từ tam trị (đòi hỏi ba diễn tố: trao, tặng, biếu,
cho,…)

2.2.4 Trong phương diện chức năng thành phần câu
2.2.4.1 Từ và ngữ sẽ tạo nên thành phần câu – những yếu tố cấu thành nên một
câu hoàn chỉnh. Phạm trù ngữ pháp thành phần câu trong hệ thống phân loại lấy
cấu trúc chủ - vị làm cơ sở phân biệt các thành phần câu: thành phần chính và thành
phần phụ. Thành phần phụ có loại chứa trong thành phần nòng cốt, có loại đứng
ngoài hay biệt lập với nòng cốt câu. Các thành phần phụ chứa trong thành phần của
nòng cốt: định ngữ, bổ ngữ,... Các thành phần phụ ngoài nòng cốt: trạng ngữ, đề
ngữ, phụ ngữ câu... Các thành phần phụ biệt lập với nòng cốt câu: hô ngữ, liên ngữ,
chú ngữ, ...
Vị ngữ là một thành phần chính của câu và có tác động đến toàn câu. Nó là
trung tâm tổ chức của câu và do vậy, vị ngữ có nhiều vấn đề phức tạp hơn chủ ngữ.
Là trung tâm của tổ chức câu nên rất hiếm câu có vị ngữ bị lược bỏ. Dựa vào hệ từ
và từ loại trong vai trò vị ngữ để chia thành hai kiểu: vị ngữ có hệ từ và vị ngữ

không có hệ từ. Chẳng hạn, (a.) Nhân dân ta rất anh hùng; (b.) Anh ấy ngoài 30
tuổi; (c.) Đây là giờ sinh tử.
Các ví dụ (a), (b) có vị ngữ không hệ từ. Ví dụ (c) có vị ngữ có hệ từ cùng với
các tổ hợp danh từ, kết cấu chủ - vị.
Về ý nghĩa, vị ngữ biểu hiện sự hoạt động, tính chất, trạng thái của người, hiện
tượng, sự vật được nêu ở chủ ngữ. Nghĩa của vị ngữ bao giờ cũng ở trong mối quan
21


hệ với nghĩa của chủ ngữ. Đó là qua hệ đề - thuyết. Tuy nhiên, nghĩa của vị ngữ đa
dạng hơn và tùy thuộc vào các kiểu câu khác nhau mà có những vị ngữ khác nhau.
Về tổ chức, vị ngữ được tổ chức bằng các động từ đơn, tính từ đơn hoặc nhóm
động từ, nhóm tính từ và một số từ loại khác nhau như đại từ, số từ, danh từ, ...Giá
trị chức năng của các yếu tố trước và sau vị ngữ là khác nhau. Mối liên hệ của các
yếu tố biên với vị ngữ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Các vị trí của các yếu tố
biên là khả năng có thể có của vị ngữ, còn trong thực tế sử dụng các vị trí kết hợp
với nhau rất linh động. Nhưng các yếu tố biên này được sắp xếp theo vị trí gốc của
mình. Qua luận văn này, chúng tôi xem xét vị ngữ là động từ. Ví dụ: Tôi trông cậy
ở ông.
2.2.4.2 Tuy nhiên, cũng cần phân biệt rõ động từ làm vị ngữ trong câu với bổ
ngữ, trạng ngữ hay các thành phần khác trong câu.
Bổ ngữ là thành phần phụ đứng trước hay sau một động từ hay tính từ, bổ
nghĩa cho động hay tính từ đó, tạo nên cụm từ làm thành phần câu. Một số loại bổ
ngữ thường gặp như bổ ngữ tình thái, bổ ngữ đối tượng, bổ ngữ miêu tả.
a. Bổ ngữ tình thái, thường đứng trước động từ hay tính từ, biểu thị các tình thái
khẳng định, thời gian, thể thức diễn biến của hành động và của trạng thái, tính chất,
quan hệ,... được nêu ở động từ hay tính từ trung tâm đó. Bổ ngữ tình thái do các
tiểu loại phụ từ tạo thành. Khi cụm từ có bổ ngữ tình thái làm vị ngữ, thì các phụ từ
bổ ngữ đồng thời biểu thị các ý nghĩa tình thái vị ngữ, có tác dụng đánh dấu vị
ngữ.Ví dụ: Hồi còn trẻ, Hải // rất say mê hội họa.

b. Bổ ngữ đối tượng, biểu thị các sự vật có quan hệ với động từ hay tính từ
trung tâm. Bổ ngữ đối tượng xuất hiện trong câu do yêu cầu diễn đạt “cái thông
báo” và do ý nghĩa của từ trung tâm đòi hỏi hoặc chi phối. Bổ ngữ đối tượng
thường do danh từ, danh ngữ, đại từ tạo thành. Bổ ngữ đối tượng có thể kết nối với

22


động từ hoặc tính từ theo lối trực tiếp (không dùng quan hệ từ) hoặc gián tiếp (có
dùng quan hệ từ).
Bổ ngữ trực tiếp trả lời cho câu hỏi ai? cái gì?. Nó thường được sử dụng không
có giới từ, thường đứng trực tiếp sau vị ngữ và được phản ánh bằng danh từ, danh
ngữ (Tôi // đã đọc những quyển sách này); đại từ (Tôi // đọc chúng vào buổi sáng);
mệnh đề (Cô ấy // nói rằng anh có thể đến lúc 5 giờ).
Bổ ngữ gián tiếp được phản ánh bằng danh từ hoặc đại từ, trả lời cho câu hỏi
kiểu cho ai? cho cái gì?. Ví dụ: Tôi // định đi mua ít đồ cho gia đình.
c. Bổ ngữ miêu tả, đứng sau động từ, biểu thị cách thức, trạng thái, tính chất,
mục đích, nơi chốn,… bổ nghĩa cho động từ hay tính từ trung tâm. Ví dụ: Cỏ dại //
cao lút đầu.
Bổ ngữ miêu tả do từ hay cụm từ tạo thành. Bổ ngữ miêu tả có thể nối với từ
trung tâm bằng quan hệ từ hoặc không dùng quan hệ từ.
Trạng ngữ là thành phần của câu được xét trong chỉnh thể của câu nói chung.
Trạng ngữ là thành phần phụ biểu thị hoàn cảnh được nêu ở nòng cốt câu. Trạng
ngữ do từ, cụm từ hay kết cấu chủ vị tạo thành. Có thể có các loại trạng ngữ sau:
trạng ngữ thời gian, trạng ngữ nơi chốn, trạng ngữ nguyên nhân, trạng ngữ mục
đích, trạng ngữ cách thức. Ví dụ: Buổi tối anh ấy mới học; Để học tiếng Anh giỏi
bạn phải học chăm chỉ; Họ, những người nông dân ấy, đang làm việc ở ngoài
đồng.
2.3 Lý thuyết về kết trị
2.3.1 Lịch sử nghiên cứu kết trị

Thuật ngữ kết trị (còn được gọi là hoá trị, ngữ trị) vốn được dùng đầu tiên
trong hoá học, để đánh dấu khả năng của các nguyên tử làm hình thành các mối liên
kết hoá học. Thuật ngữ này được dùng trong ngôn ngữ học vào những năm 40 của
thế kỉ XX để “đánh dấu khả năng kết hợp của từng kí hiệu ngôn ngữ có thể có với
23


các kí hiệu khác để tạo thành giá trị chung nhiều hơn hoặc ít hơn giá trị của các yếu
tố đó cộng lại”. Không nằm ngoài quy luật của sự phát triển, lí thuyết kết trị cũng
trải qua quá trình phát triển để hoàn thiện. Khuynh hướng phát triển lí thuyết kết trị
là đi theo hướng mở rộng từ cấp độ từ sang các cấp độ khác của ngôn ngữ như âm
vị , hình vị, cấu tạo từ… Theo cách hiểu hẹp, kết trị chỉ là thuộc tính kết hợp của
động từ hoặc một số từ loại nhất định. Như vậy, lí thuyết kết trị ban đầu chỉ được
sử dụng ở phạm vi hẹp, nói cách khác, mới chỉ được dùng để nghiên cứu thuộc tính
kết hợp của từ.
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ kết trị theo cách hiểu hẹp là nhà ngôn ngữ
học người Pháp L.Tesnière. Lí thuyết kết trị được ông nói đến trong cuốn Các yếu
tố của cú pháp cấu trúc. Khác với ngữ pháp học truyền thống, L.Tesnière cho rằng,
động từ trong vai trò mà ngữ pháp truyền thống gọi là vị ngữ chính là thành tố hạt
nhân, tạo thành cái nút chính của câu. Trong vai trò đó, động từ quy định số lượng
và đặc tính của các thành tố có quan hệ với nó. Các thành tố này được chia thành
hai loại dựa trên mức độ gắn bó với động từ trong câu: các thành tố bắt buộc (diễn
tố) và các thành tố tự do (chu tố). Trong đó, các thành tố bắt buộc tương ứng với
thành phần chủ ngữ và bổ ngữ truyền thống, còn các thành tố tự do tương ứng với
thành phần trạng ngữ truyền thống.
Các nhà ngôn ngữ học Liên Xô (cũ) đã phát triển lí thuyết này, mà tiêu biểu là
S.D Kaselson. Trong bài Về khái niệm các kiểu kết trị, tác giả đưa ra cách hiểu khái
niệm kết trị như sau: Kết trị là thuộc tính của lớp từ nhất định kết hợp vào mình
những từ khác. Trong công trình nghiên cứu trên, ông khẳng định: “ Mỗi từ về
nguyên tắc đều có khả năng kết hợp với một từ nhất định nào đó, thế nhưng cũng

không có nghĩa tất cả các từ đều có kết trị mà trên thực tế, chỉ những từ có khả
năng tạo ra các “ô trống” đòi hỏi làm đầy trong các phát ngôn mới có kết trị”. Từ
quan điểm đó, S.D Kaselson nghiên cứu các vị trí mở bên của động từ để xác định
24


kết trị của từ loại này. Căn cứ vào số lượng các vị trí mở (các ô trống) bên động từ,
tác giả chia động từ thành động từ một vị trí, động từ hai vị trí, động từ ba vị trí.
Ngoài ra, cũng trong tác phẩm này, S.D Kaselson còn chú ý phân biệt kết trị nội
dung (tức là mối quan hệ ngữ nghĩa gắn với mặt nghĩa của từ) và kết trị hình thức
(tức là mối quan hệ về hình thức gắn với mặt hình thái của từ).
Như vậy, có thể nói, đến S.D Kaselson, lí thuyết kết trị đã được mở rộng và
phát triển sâu hơn một bước trên cứ liệu của tiếng Nga. Không chỉ dừng lại ở cấp
độ từ, lí thuyết kết trị tiếp tục được phát triển và mở rộng sang phạm vi cú pháp.
Trong bài báo Câu động từ trong các ngôn ngữ đơn lập, N.I.T Japkna đã đề cập
đến kết trị của từ ở phạm vi rộng. Bà cho rằng, kết trị của động từ được xác định
dựa toàn bộ vào các mối quan hệ cú pháp có thể đối với nó. Cùng quan điểm với
N.I.T Japkna, A.M.Mukhin cũng cho rằng, ngoài khả năng kết hợp của động từ với
các thành tố bắt buộc, cần tính đến khả năng kết hợp của động từ với các thành tố
tự do (trạng ngữ truyền thống). Xuất phát từ quan điểm đó, theo A.M.Mukhin, khi
xác định kết trị của động từ, không những cần xác định kết trị bắt buộc mà còn phải
xác định các kiểu kết trị tự do (kết trị nguyên nhân, kết trị mục đích, kết trị phương
tiện).
Trong quá trình phát triển lí thuyết kết trị, không dừng lại ở cấp độ từ và ở mặt
khả năng kết hợp cú pháp, một số tác giả còn chủ chương mở rộng khái niệm kết trị
sang cả các cấp độ và các bình diện khác của ngôn ngữ. Theo hướng đó, thuật ngữ
kết trị lúc này cũng được dùng với nghĩa rộng hơn rất nhiều. Tiêu biểu cho khuynh
hướng này là quan điểm của M.B.Stepanova được trình bày trong cuốn Lý thuyết
kết trị và việc phân tích kết trị. Theo bà, ngoài kết trị của từ còn có kết trị của các
đơn vị ngôn ngữ thuộc các cấp độ khác (kết trị của các thân từ - kết trị cấu tạo từ);

ngoài kết trị chủ động còn có kết trị bị động; ngoài kết trị cú pháp còn có kết trị
ngữ nghĩa và kết trị logic.
25


×