Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm và thực tiễn thực hiện tại tòa án (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.34 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------***-------

TẠ THỊ THÙY LINH

ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở TÒA ÁN CẤP
SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------***-------

TẠ THỊ THÙY LINH

ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở TÒA ÁN CẤP
SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dƣơng

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Tạ Thị Thùy Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLLĐ

: Bộ luật lao động

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự


HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

HĐXX

: Hội đồng xét xử

NQ

: Nghị quyết

PLTTGQCTCLĐ

: Pháp lệnh tố tụng giải quyết các vụ
án lao động

PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh tố tụng giải quyết các vụ
án dân sự

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh tố tụng giải quyết các vụ
án kinh tế

QLNVLQ

: Quyền lợi nghĩa vụ liên quan


SL

: Sắc lệnh

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBTVQH

: Ủy ban thường vụ quốc hội

XXST

: Xét xử sơ thẩm


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
Chƣơng 1 ....................................................................................................................5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT ..............................5

VỤ ÁN DÂN SỰ ........................................................................................................5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .........5
1.1.1. Khái niệm về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ..........................................5
1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ........................................8
1.1.3. Ý nghĩa của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ..................................11
1.2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự .......................................................................................12
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự .................................................................................................................12
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự .................................................................................................................17
1.3. Sơ lƣợc các quy định về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam từ 1945 đến nay .........................................................20
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959 ........................................................20
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến 1989 ........................................................21
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến 2004 ........................................................22
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến 2011 ........................................................22
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2011 đến nay ...........................................................24
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................26
Chƣơng 2 ..................................................................................................................27
NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở TÒA
ÁN CẤP SƠ THẨM ................................................................................................27
2.1. Các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự..............................................27
2.1.1. Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ
không được thừa kế; ..........................................................................................27


2.1.2. Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ

chức đó; .............................................................................................................28
2.1.3. Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử
vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan; ........................30
2.1.4. Đã có quyết định của toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên
quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; ..........................32
2.1.5. Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố
tụng khác theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản
tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền
tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ
luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; ........................................33
2.1.6. Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra
bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết; ...................34
2.1.7. Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa
án đã thụ lý; .......................................................................................................36
2.1.8. Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định .....................................45
2.2. Các quy định về thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc
đình chỉ vụ án dân sự ..........................................................................................46
2.2.1. Thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo
thủ tục sơ thẩm ......................................................................................................46
2.2.2. Thủ tục ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục sơ thẩm .........................................................................................................47
2.2.3. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ...................48
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................51
Chƣơng 3 ..................................................................................................................52


THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở TÒA
ÁN CẤP SƠ THẨM VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................52
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự .........................................................................................................52
3.1.1. Kết quả thực hiện các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự ............................................................................................................52
3.1.2. Những vướng mắc hạn chế khi áp dụng quy định pháp luật tố tụng dân
sự

.................................................................................................................55

3.1.3. Những nguyên nhân, vướng mắc và hạn chế trong việc thực hiện các
quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .............................64
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .........................65
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự .......................................................................................................65
3.2.1.1. Về căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.........................................65
3.2.1.2. Về thủ tục ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ......68
3.2.1.3. Về hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ...........69
3.2.1.4. Về mẫu ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án ......................72
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việc Toà án giải quyết vụ án dân sự là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp do thiếu thận trọng nên Tòa án
đã thụ lý cả những vụ việc không đảm bảo các điều kiện thụ lý mà pháp luật quy
định. Ngoài ra, cũng có những trường hợp việc thụ lý vụ việc của Tòa án là đúng
pháp luật nhưng trong quá trình giải quyết đã phát sinh một số sự kiện làm cho đối
tượng của vụ việc cần phải giải quyết tại Tòa án không còn tồn tại hoặc được suy
đoán là không tồn tại. Trong những trường hợp như vậy, Tòa án phải ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án để giải phóng cho các bên đương sự, đặc biệt là bị
đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khỏi việc tham gia tố tụng vốn bị coi
là một nghĩa vụ bắt buộc đối với họ. Tuy nhiên, nếu việc đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự không đúng có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn, người yêu
cầu sẽ không được Tòa án xem xét giải quyết và quyền khởi kiện, quyền yêu cầu
của họ sẽ bị mất nếu như các quy định về quyền khởi kiện, quyền yêu cầu lại không
được pháp luật ghi nhận.
Trong lịch sử lập pháp, vấn đề đình chỉ vụ án dân sự đã được quy định
trong các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao và sau này tiếp tục được
quy định trong các pháp lệnh về thủ tục tố tụng như: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế (PLGQCVAKT) năm 1994, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
tranh chấp lao động (PLGQCVATCLĐ) năm 1996….
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và đáp ứng yêu cầu của xã hội, tại
kỳ họp thứ 5 ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Việc ban hành
Bộ luật Tố tụng dân sự đã đánh dấu một bước phát triển mới của hệ thống pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam, khắc phục tình trạng tản mạn trong các quy định của pháp
luật về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trước đó. Cụ thể là, trước đây vấn đề về
đình chỉ vụ án dân sự đối với mỗi tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động được quy
định ở các văn bản riêng biệt, thiếu tính hệ thống. Bộ luật Tố tụng dân sự đã pháp
điển hóa các quy định về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong một văn bản chung,



2

đảm bảo sự thống nhất trong áp dụng. Qua một thời gian thực hiện, ngày 29 tháng 2
năm 2011, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự đã cơ bản khắc phục
những được hạn chế, vướng mắc của Bộ luật Tố tụng dân sự nói chung và quy định
về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nói riêng. Đây là một sự đổi mới có ý nghĩa
quan trọng của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam. Tuy vậy qua một số
năm thực hiện cho thấy, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vẫn chưa thực sự rõ ràng, cụ thể dẫn đến những
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được
Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015 thay thế cho Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/7/2016. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 được ban hành dựa trên cơ sở kế
thừa và phát triển các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004; bên cạnh đó Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015 ghi nhận nhiều quy định mới lần đầu được quy định theo
hướng bảo đảm tính công khai minh bạch trong tố tụng, bảo đảm quyền tranh tụng,
mở rộng thẩm quyền xét xử, nâng cao vị trí của Tòa án trong công cuộc cải cách tư
pháp. Việc nghiên cứu, phân tích những quy định mới, những quy định được sửa
đổi, bổ sung của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng
trong thực tiễn xét xử góp phần nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ tốt quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Với lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự ở Tòa án cấp sơ thẩm và thực tiễn thực hiện tại Tòa án” làm đề tài luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, từ trước khi Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được ban hành đến nay
đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu độc lập về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
được công bố trong các cuốn sách chuyên khảo, tham khảo hoặc được đăng tải trên các

Tạp chí chuyên ngành khoa học pháp lý. Tiêu biểu là công trình của các tác giả: Nguyễn
Triều Dương (2005)-“Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”- Tạp chí Luật học số đặc san về
Bộ luật Tố tụng dân sự; Trần Anh Tuấn (2005)- “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”- Tạp
chí nghiên cứu lập pháp; Tống Công Cường (2007)-“Quy định về đình chỉ trong Bộ luật


3

TTDS”- Tạp chí khoa học pháp lý; Tưởng Duy Lượng (2012)-“Những vấn đề cơ bản về
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”- Tòa án nhân dân tối cao số 07/2012,…
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
như đã đề cập ở trên thấy rằng, các công trình nghiên cứu của các tác giả đã rất thành
công trong việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản. Kết quả của các
công trình nghiên cứu về đình chỉ đã đóng góp rất to lớn trong việc xây dựng, phát triển
và hoàn thiện chế định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Tuy nhiên, vẫn có một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đình chỉ cần được tiếp tục
nghiên cứu và hoàn thiện.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần bổ sung và từng bước hoàn thiện lý luận
về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm.
- Ý nghĩa thực tiễn: Phác họa thực trạng đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án
cấp sơ thẩm để có đánh giá đúng thực tiễn hoạt động này, góp phần cung cấp chỉ dẫn về
trình tự, thủ tục đình chỉ…có thể vận dụng vào thực tiễn công tác giải quyết vụ án dân
sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận, pháp lý
về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm cũng như thực tiễn thực hiện
hoạt động đình chỉ ở Tòa án Việt Nam. Qua đó đối chiếu, so sánh để đưa ra những giải
pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và tăng cường hiệu quả của việc giải
quyết vụ án dân sự ở nước ta hiện nay.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Củng cố, phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về đình chỉ.
+ Nghiên cứu các quy định về đình chỉ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
+ Đánh giá thực trạng đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm, từ
đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự ở Việt
Nam.


4

5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối
tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự với trọng tâm là ở Tòa án cấp sơ thẩm.
- Phạm vi nghiên cứu: Về pháp luật Việt Nam, phạm vi nghiên cứu của luận văn là
các quy định về đình chỉ trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Ngoài ra phạm vi nghiên cứu của
luận văn còn là những số liệu, báo cáo tổng hợp…về thực trạng đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự tại Việt Nam được thu thập, viện dẫn từ các Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao
và các Tòa án quận, huyện thành phố Hà Nội.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin
về nhà nước và pháp luật, quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta về Chiến lược cải
cách tư pháp, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Khi thực
hiện luận văn đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, phân tích quy phạm pháp luật…và đồng thời luận văn đã kế thừa
kết quả nghiên cứu của một số tác giả đã được công bố trước đây.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được xây dựng thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và kiến nghị.


5

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

1.1.1. Khái niệm về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Trước khi có BLTTDS, ba pháp lệnh về thủ tục tố tụng chỉ đề cập tới thuật
ngữ vụ án dân sự, vụ án kinh tế và vụ án lao động. Theo đó vụ án dân sự bao gồm
cả những việc tranh chấp và cả những việc không có tranh chấp. VAKT bao gồm
các tranh chấp về kinh tế; VALĐ bao gồm các tranh chấp lao động cá nhân và tranh
chấp lao động tập thể. Theo tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh: “Trong hầu hết các vụ án
dân sự đều có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự mà họ không
thể thương lượng tự giải quyết được, do đó họ phải yêu cầu Tòa án xem xét giải
quyết. Ngoài những vụ án nói trên, cũng còn một số vụ án mà giữa các bên đương
sự không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ”. Tinh thần này được tác giả tiếp tục
khẳng định: “Có thể chia vụ án dân sự ra làm hai loại: Loại thứ nhất là việc kiện dân
sự…loại thứ hai là việc dân sự”.
BLTTDS và LSĐBSBLTTDS đã quy định hai loại trình tự, thủ tục riêng là
trình tự, thủ tục giải quyết việc dân sự. Dựa trên cơ sở quy định BLTTDS một số
nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm về vụ việc dân sự. Theo Tiến sĩ Nguyễn Công

Bình “Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động do Tòa án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự.
Trong đó, đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được
gọi là vụ án dân sự; đối với những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên được gọi là việc dân sự”.
Như vậy từ khi BLTTDS ban hành khái nhiệm VADS đã có sự thay đổi cơ
bản. Trước đây VADS bao gồm cả việc có tranh chấp dân sự và việc không tranh
chấp, trong khi đó VAKT và VALĐ chỉ bao gồm các việc có tranh chấp. Theo quy
định của BLTTDS, VVDS là một khái niệm rộng bao hàm các tranh chấp về quyền


6

và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động không có tranh chấp gọi là việc dân sự. Đối tượng
cần phải giải quyết trong vụ án dân sự và việc dân sự chính là các quan hệ pháp luật
nội dung được xác định trên cơ sở các yêu cầu của đương sự trong vụ án dân sự
hoăc việc dân sự.
Tại Điều 1 Dự thảo BLTTDS sửa đổi trình Quốc hội tại Phiên họp thứ 40,
Quốc hội khóa XIII, tháng 8/2015 (DTBLTTDS) có quy định về VVDS như sau:
“Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; tình
tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và
trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự) tại
Tòa án,…”
Như vậy trên cơ sở kế thừa những quy định trước đó và tham khảo ý kiến của
các nhà nghiên cứu trong DTBLTTDS sửa đổi đã quy định khá chi tiết, cụ thể khái
niệm VVDS, theo đó VVDS bao gồm VADS và VDS được giải quyết tại Tòa án.
Theo Từ điển Tiếng Việt “Đình chỉ là việc ngừng lại hoặc làm cho phải

ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn”1. Theo định nghĩa này, đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự là trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự bị ngừng lại vĩnh
viễn. Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng “Đình chỉ vụ án là việc các cơ
quan tố tụng quyết định kết thúc vụ án khi có những căn cứ do luật định”2. Trong tố
tụng dân sự thuật ngữ đình chỉ vụ án dùng với nghĩa là đình chỉ giải quyết vụ án.
Cách định nghĩa này đi từ khái niệm đình chỉ vụ án nói chung tới đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự trong tố tụng dân sự nói riêng. Từ đó ta có thể hiểu rộng ra đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự là một trong những cách thức để cơ quan tố tụng kết thúc vụ
án khi có những căn cứ luật định. Tuy vậy, xoay quanh khái niệm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự cũng có nhiều quan điểm và cách giải thích khác nhau.
Theo Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thỉnh: “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc
Tòa án quyết định ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp

1
2

Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng và trung tâm từ điển học, tr.324
Nguyễn Duy Lãm chủ biên (1999), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb.Công an nhân dân, tr.134


7

luật quy định”3. Cũng theo tác giả này, “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc
tòa án chấm dứt hoàn toàn các hoạt động tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ
án”4. Có thể nói đó là những quan điểm khá đầy đủ về đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự, đã phản ánh được nội dung, bản chất và hậu quả pháp lý của nó. Tác giả đã thể
hiện được cách nhìn của mình về đình chỉ dưới góc độ là một quyết định kết thúc
việc giải quyết vụ án dân sự.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lập luận đã phân tích ở trên, trước
khi có Bộ luật Tố tụng dân sự không có sự phân biệt giữa vụ án dân sự và việc dân

sự mà vụ án dân sự bao gồm cả những việc tranh chấp và những việc không có
tranh chấp. Do vậy việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được hiểu là đình chỉ giải
quyết những việc kiện có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự hoặc
đình chỉ giải quyết những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các
đương sự mà Tòa án đã thụ lý. Ngoài ra trong những vụ án có nhiều quan hệ pháp
luật cần giải quyết (bao gồm cả quan hệ pháp luật có tranh chấp và quan hệ pháp
luật mà các bên có sự thỏa thuận hoặc chỉ yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện
pháp lý) thì đình chỉ giải quyết vụ án ở đây lại được hiểu theo nghĩa rộng. Có nghĩa
là chấm dứt việc xem xét, quyết định về toàn bộ các quan hệ pháp luật cần giải
quyết trong vụ án (bao gồm cả quan hệ pháp luật có tranh chấp và quan hệ pháp luật
không có tranh chấp). Từ khi có Bộ luật Tố tụng dân sự thì mới phân biệt vụ án dân
sự là việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự.
Xét về thực tế, sau khi Tòa án thụ lý vụ việc, trong quá trình giải quyết vụ
án dân sự có thể phát hiện các tình tiết, sự kiện làm cho việc giải quyết vụ án không
thể tiếp tục được mà căn nguyên là do Tòa án đã thụ lý khi vụ án không thỏa mãn
các điều kiện của việc thụ lý theo quy định của pháp luật. Do vậy, để khắc phục
những sai lầm này Tòa án cần phải chấm dứt ngay việc giải quyết vụ án mà mình đã
thụ lý. Ngoài ra, cũng có những trường hợp việc thụ lý của Tòa án là đúng pháp luật
nhưng trong quá trình giải quyết đã phát sinh một số sự kiện làm cho đối tượng của

3

Hoàng Ngọc Thỉnh (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb.Công an nhân dân, tr.270
4
Hoàng Ngọc Thỉnh (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb.Công an nhân dân, tr.354


8


vụ án dân sự cần phải giải quyết không còn nữa, khi đó Tòa án cũng cần phải chấm
dứt việc giải quyết vụ án dân sự.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu của những nhà
nghiên cứu trước đây có thể rút ra kết luận về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như
sau: “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định ngừng hẳn việc
giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định và sau khi quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực thì đương sự không có quyền khởi
kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc đó nữa, trừ những trường hợp đặc biệt
mà pháp luật có quy định khác,…”
1.1.2. Đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Dựa vào việc phân tích khái niệm ở phần trên ta có thể hiểu phần nào bản
chất của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Thực chất đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự là việc Tòa án cho ngừng hẳn mọi hoạt động tố tụng sau khi đã thụ lý vụ án,
trước hoặc trong phiên tòa khi có những lý do khiến quá trình giải quyết vụ án phải
dừng hẳn lại, vì vậy việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có những đặc điểm sau
đây:
- Thứ nhất, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một quyết định kết thúc việc
giải quyết vụ án.
Đây là điểm khác biệt với tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Bởi nó có ý
nghĩa kết thúc về mặt thủ tục lẫn giải quyết nội dung vụ án. Khi vụ án bị đình chỉ
giải quyết, các hoạt động tố tụng sẽ không được khôi phục lại, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
- Thứ hai, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải dựa trên những căn cứ mà
pháp luật đã quy định.
Để đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng đắn và bảo
đảm quyền, lợi ích của đương sự; Tòa án không thể ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án một cách tùy tiện hay chỉ dựa trên những lý do cá nhân. Căn cứ đình chỉ
ở cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm không giống nhau.
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự dựa vào các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ

án dân sự do pháp luật quy định, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo


9

đúng thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định. Tòa án không được ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án một cách tùy tiện khi không có những căn cứ do pháp luật
quy định5.
- Thứ ba, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự.
Việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể được tiến hành ở cấp sơ thẩm,
phúc thẩm hay ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trước khi mở phiên tòa, thẩm
quyền này thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án. Tại phiên tòa Hội
đồng xét xử (HĐXX) có quyền quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
- Thứ tư, hậu quả của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là mọi hoạt động tố
tụng đều phải chấm dứt.
Khi ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì Tòa án không tiến hành thêm
bất cứ hoạt động nào để giải quyết vụ án dân sự đó nữa. Tòa án sẽ xóa sổ thụ lý và
đương sự không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự trừ trường hợp
pháp luật quy định.
Từ phân tích khái niệm và đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
nêu trên, luận văn làm rõ hơn về bản chất của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thông
qua việc phân biệt đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định tạm ngừng
việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý trong một thời hạn khi có những căn cứ do
pháp luật quy định. Khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn, thì Tòa án lại tiếp
tục giải quyết vụ án dân sự đó (căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định
tại Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự). Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc toà án
quyết định ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật

quy định. Theo đó, sau khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì các
hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự được ngừng lại (căn cứ đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự quy định tại Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự).

5

Phạm Hải Tân (2010), “Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự”, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Luật Hà Nội, tr8


10

Về giai đoạn áp dụng theo thủ tục sơ thẩm đối với đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự được quy định cụ thể:
+ Giai đoạn chuẩn bị xét xử: điểm c khoản 3 Điều 203 BLTTDS 2015
+ Giai đoạn tại phiên tòa sơ thẩm: khoản 2 Điều 219 BLTTDS 2015
Đối với tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
+ Giai đoạn chuẩn bị xét xử: khoản 1 Điều 219 BLTTDS 2015
+ Giai đoạn tại phiên tòa sơ thẩm: khoản 2 Điều 219 BLTTDS 2015
Về bản chất thì tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là tạm ngừng các hoạt
động tố tụng khi có những căn cứ do pháp luật quy định trong một thời gian nhất
định và khi lý do tạm đình chỉ không còn Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án. Quyết
định tạm đình chỉ chỉ có ý nghĩa về mặt thủ tục chứ không có ý nghĩa về mặt giải
quyết nội dung vụ việc. Trong khi đó đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa
án ngừng hẳn việc giải quyết vụ án, có ý nghĩa kết thúc cả về mặt thủ tục và giải
quyết nội dung vụ án. Như vậy, điểm khác biệt cơ bản nhất giữa đình chỉ và tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó là tạm đình chỉ là “tạm ngừng” còn đình chỉ là
“ngừng hẳn” mọi hoạt động tố tụng đối với vụ án đó. Hậu quả pháp lý của tạm đình
chỉ là Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn; đối với
đình chỉ vụ án sẽ chấm dứt hoàn toàn và đương sự không có quyền khởi kiện yêu

cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự đó nếu quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự đã có hiệu lực pháp luật, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Ngoài ra đặc điểm này cũng giúp chúng ta phân biệt đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm với đình chỉ xét xử phúc thẩm. Đình chỉ xét xử
phúc thẩm không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của đương sự về mặt nội
dung mà chỉ chấm dứt thủ tục tố tụng phúc thẩm. Nói cách khác, đình chỉ xét xử
phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc thẩm đối với vụ án có kháng cáo,
kháng nghị nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án,
quyết định sơ thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi hành. Thời điểm
đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể trước phiên tòa, phiên họp phúc thẩm hoặc tại
phiên tòa, phiên họp phúc thẩm. Hình thức văn bản được áp dụng chung là quyết
định đình chỉ xét xử phúc thẩm.


11

Nếu đình chỉ xét xử phúc thẩm trước phiên tòa phiên họp, thẩm quyền ra
quyết định do Thẩm phán được phân công phụ trách giải quyết vụ án dân sự quyết
định thì tại phiên tòa phiên họp phúc thẩm do Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân
sự , Hội đồng giải quyết phúc thẩm vụ án dân sự quyết định. Quyết định đình chỉ
xét xử phúc thẩm có hiệu lực ngay.
Như vậy đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án dân sự khác với đình chỉ xét
xử phúc thẩm đối với kháng cáo, kháng nghị. Việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
có thể thực hiện được ở Tòa án cấp phúc thẩm khi có những căn cứ mà pháp luật
quy định nhưng bản chất của nó là làm chấm dứt hoàn toàn việc giải quyết vụ án đã
được thụ lý từ cấp sơ thẩm; Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm
và ngừng hẳn mọi hoạt động tố tụng, vụ việc được xóa sổ và coi như không tồn tại.
Trong khi đó, đình chỉ xét xử phúc thẩm chỉ áp dụng đối với trường hợp có việc rút
một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Việc đình chỉ xét xử phúc
thẩm không dẫn tới hậu quả Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm

và xóa sổ thụ lý vụ án mà trái lại bản án, quyết định sơ thẩm vẫn có hiệu lực pháp
luật.
1.1.3. Ý nghĩa của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Trước hết việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có ý nghĩa khắc phục những
sai lầm có thể xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo vụ án được xử lý
khách quan, chính xác. Trong nhiều trường hợp sau khi đã thụ lý vụ án Tòa án mới
phát hiện vụ án không thỏa mãn các điều kiện thụ lý theo quy định của pháp luật.
Việc Tòa án chấm dứt ngay việc giải quyết vụ án sẽ khắc phục được những sai lầm
từ việc thụ lý vụ án không đúng.6
Đối với trường hợp việc thụ lý vụ án dân sự của Tòa án là đúng pháp luật
nhưng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự đã phát sinh một số sự kiện làm cho
đối tượng của vụ án dân sự cần phải giải quyết tại Tòa án không còn nữa. Trong
trường hợp này, việc quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có ý nghĩa giúp
cho Tòa án nhanh chóng quyết định về vụ việc khi đối tượng cần giải quyết trong
vụ án không còn hoặc quyền lợi của đương sự đã chấm dứt mà không có sự kế thừa
6

Nông Thị Mới (2011), Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học
Luật Hà Nội, tr8.


12

giải phóng cho các bên đương sự đặc biệt là bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan khỏi việc tham gia tố tụng vốn bị coi là một nghĩa vụ bắt buộc đối với họ.
Hơn nữa, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng tiết kiệm thời gian,
công sức, chi phí cho Nhà nước. Khi Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
một cách đúng đắn sẽ làm quá trình giải quyết vụ án nhanh gọn. Tòa án không phải
kéo dài thời gian giải quyết vụ án thậm chí không phải mở phiên tòa để xét xử. Nhờ
đó gánh nặng về số vụ việc cần giải quyết được giảm tải, Tòa án có điều kiện tập

trung giải quyết các vụ án quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét
xử.
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự còn có ý nghĩa bảo đảm quyền tự định
đoạt của các đương sự, nhanh chóng quyết định về vụ án khi đối tượng cần giải
quyết trong vụ án hoặc quyền lợi của đương sự đã chấm dứt mà không có sự kế
thừa. Việc đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện, các
đương sự đã tự hòa giải hay đương sự chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không
được kế thừa sẽ tránh cho đương sự không phải tốn kém tiền bạc, thời gian tham gia
tố tụng.
1.2.

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về đình chỉ

giải quyết vụ án dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định về đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự
Dựa vào khái niệm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết
định ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy
định, có thể thấy việc Tòa án chấm dứt giải quyết vụ án mà mình đã thụ lý nhằm
khắc phục những sai lầm do việc thụ lý không đúng đem lại hoặc giải phóng cho
các bên đương sự, đặc biệt là bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khỏi
việc tham gia tố tụng vốn bị coi là một nghĩa vụ bắt buộc đối với họ. Tuy nhiên,
việc xác định căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án không hợp lý có thể dẫn tới quyền lợi
hợp pháp của nguyên đơn sẽ không được Tòa án xem xét giải quyết và quyền tiếp
cận công lý của công dân không được đảm bảo nếu như các quy định về quyền khởi
kiện lại không được pháp luật ghi nhận.


13


Dựa trên đặc điểm của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và theo kết quả
nghiên cứu thì việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể được dựa trên một số sự
kiện như: sự sai lầm trong việc thụ lý vụ việc, đối tượng của việc giải quyết không
còn do đương sự chết, sự việc đã được giải quyết, các bên đã tự hòa giải hoặc từ bỏ
việc khởi kiện hoặc được suy đoán là từ bỏ quyền khởi kiện…7
+ Đầu tiên, có thể kể đến việc không còn tồn tại đối tượng của vụ việc
cần phải giải quyết.
Như đã nêu ở trên, đối tượng mà Tòa án phải giải quyết trong vụ án dân sự
được xác định trên cơ sở yêu cầu của bên đương sự. Trong một vụ án dân sự đương
sự có thể đưa ra nhiều yêu cầu khác nhau về giải quyết một mối quan hệ pháp luật
hoặc các quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau như yêu cầu trả nhà cho thuê và
bồi thường thiệt hại do sử dụng nhà gây ra…Hoặc trong vụ án dân sự có nhiều
đương sự cùng đưa ra yêu cầu như nhiều người được thừa kế yêu cầu chia thừa kế,
nhiều người bị thiệt hại do nhà máy thải chất thải gây ô nhiễm môi trường kiện đòi
bồi thường thiệt hại,…Trong trường hợp nếu các đương sự rút yêu cầu của mình
hoặc tự hòa giải được thì đối tượng của vụ án dân sự không còn và Tòa án phải ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý. Tuy vậy, đối với những
trường hợp trong vụ án dân sự đương sự đưa ra nhiều yêu cầu nhưng không rút hết
yêu cầu hoặc trong vụ án có nhiều đương sự đưa ra yêu cầu mà có đương sự rút yêu
cầu nhưng đương sự khác vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì Tòa án không ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà chỉ quyết định đình chỉ giải quyết
yêu cầu của đương sự đã rút, những yêu cầu còn lại Tòa án vẫn phải xem xét, giải
quyết. Thực chất đây là trường hợp trong vụ án dân sự có nhiều quan hệ pháp luật
phải giải quyết và Tòa án chỉ đình chỉ giải quyết một phần của vụ án dân sự.
+ Ngoài ra, sự kiện làm cho đối tượng của vụ việc cần phải giải quyết tại
Tòa án không còn tồn tại có thể là các sự kiện như: Sự kiện đương sự chết mà
quyền và nghĩa vụ không được thừa kế do tính chất nhân thân của quan hệ pháp luật
mà Tòa án cần giải quyết; sự kiện người có nghĩa vụ chết nhưng không để lại di sản
thừa kế; sự kiện đương sự là cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, bị tuyên bố phá sản mà
7


Lê Thị Ngời (2012), Vấn đề tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Khóa luận
tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, tr15


14

không có chủ thể kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng; sự kiện chủ thể đã khởi kiện rút
đơn khởi kiện hoặc các đương sự tự hòa giải.
+ Khi phát hiện việc Tòa án thụ lý không đúng
Quyền khởi kiện là quyền quan trọng mà đương sự có thể sử dụng để bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Tuy nhiên để đảm bảo sự ổn định của các quan hệ
pháp luật, trong một số trường hợp nhà lập pháp đã giới hạn việc thực hiện quyền
khởi kiện trong một thời hiệu nhất định. Cũng theo tinh thần này và để tránh tình
trạng một vụ án lại có nhiều cách giải quyết khác nhau gây mất niềm tin của đương
sự vào công lý, nhà lập pháp cũng quy định việc thực hiện quyền khởi kiện chỉ được
thực hiện nếu trước đó sự việc chưa được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật. Việc quy định các chủ thể quyền khởi kiện chỉ có thể yêu
cầu tòa án giải quyết những vụ án chưa được Tòa án giải quyết nhằm mục đích
tránh tình trạng kiện tụng kéo dài nhiều lần không cần thiết, gây tổn hại cho đương
sự một cách vô ích. Ngoài điều kiện về quyền khởi kiện, người khởi kiện phải có
năng lực hành vi tố tụng dân sự. Không phải tất cả các chủ thể khởi kiện đều được
tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng tại Tòa án. Chủ thể khởi kiện trong tố
tụng dân sự phải có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng. Việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng bởi những người không có năng lực hành vi tố tụng thì không có
hiệu lực. Người khởi kiện trong vụ án dân sự là cá nhân (Công dân Việt Nam, người
nước ngoài và người không có quốc tịch) phải là người đạt độ tuổi nhất định, sức
khỏe bình thường, không bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình. Ngoài ra, Tòa án cũng chỉ có thẩm quyền thụ lý vụ án nếu sự việc thuộc thẩm
quyền về dân sự của Tòa án. Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để

đảm bảo cho hoạt động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời,
việc phân định thẩm quyền giữa các Tòa án cũng góp phần cho các Tòa án thực
hiện đúng nhiệm vụ và người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền
của Tòa án được xác định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong
việc thực hiện nhiệm vụ của Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện
cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình 8. Như

8

TS Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng,
Nxb. Tư pháp


15

vậy quyền khởi kiện là quyền quan trọng mà đương sự có thể sử dụng để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình nhưng đương sự chỉ có thể thực hiện quyền này khi
thỏa mãn các điều kiện nhất định.
Trên thực tế nhiều trường hợp do thiếu thận trọng nên Tòa án đã thụ lý cả
những vụ việc không đảm bảo các điều kiện thụ lý mà pháp luật quy định. Thụ lý vụ
án dân sự đúng có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm được quyền tiếp cận công lý của các
chủ thể pháp luật khi có tranh chấp dân sự đồng thời tránh được việc phải giải quyết
hậu quả của việc thụ lý vụ án không đúng dẫn đến tốn kém về công sức, tiền của
cho đương sự. Mặt khác, nó còn có ý nghĩa trong việc Tòa án đầu tư thời gian, công
sức và trí tuệ cho hoạt động này.
Thụ lý vụ án dân sự được tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định
do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Trình tự, thủ tục này có ý nghĩa cho việc
chuẩn bị tiến hành giải quyết vụ án dân sự trong quá trình tố tụng đảm bảo đúng
quy định của pháp luật. Để thực hiện tốt hoạt động thụ lý vụ án dân sự, tạo tiền đề
giải quyết vụ án đúng pháp luật, nhanh chóng và hiệu quả, Tòa án phải nắm vững

các kỹ năng cơ bản.
Do vậy sai lầm này cần được khắc phục thông qua việc chấm dứt giải
quyết vụ án của Tòa án đã thụ lý. Nếu Tòa án vẫn tiến hành giải quyết trong những
trường hợp nêu trên thì sai lầm của Tòa án càng trở lên nghiêm trọng và có thể gây
tổn hại cho quyền lợi của bên bị đơn.
+ Suy đoán là đối tượng của vụ việc cần phải giải quyết tại Tòa án không
còn tồn tại
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ
trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan thì tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau: Nguyên đơn vắng
mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện
và tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của
người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có
quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật; Bị đơn không có yêu cầu phản tố,


16

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà
không có người đại diện tham gia phiên tòa thì tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa
thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với
yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có
quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật; Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người
đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và tòa án quyết định
đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu

độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp
luật; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì tòa án vẫn
tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Theo quy định trên đây thì khi tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà nguyên
đơn hoặc người khởi kiện vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa (trừ
trường hợp có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện của nguyên đơn
hoặc người khởi kiện tham gia phiên tòa). Khi Tòa triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nếu
nguyên đơn hoặc người khởi kiện vắng mặt mà không vì sự kiện bất khả kháng, trở
ngại khách quan, không có đơn xin xét xử vắng mặt, cũng không có người đại diện
tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và tòa án sẽ ra quyết định đình
chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện đó.
Nguyên đơn, người yêu cầu được giả thiết là người có quyền hoặc lợi ích bị
xâm hại hay tranh chấp nên khởi kiện theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy hơn ai hết họ phải có mặt ở phiên tòa
để trình bày yêu cầu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp
nguyên đơn, người yêu cầu đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt không có lý do chính đáng thì được suy đoán là đã từ bỏ yêu cầu khởi
kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết vụ án dân sự.
Tuy nhiên nếu nguyên đơn có đơn giải quyết vắng mặt tức là họ vẫn mong
muốn Tòa án giải quyết mặc dù họ không thể có mặt trực tiếp để tham gia tố tụng,
hay trường hợp nguyên đơn không thể có mặt vì gặp sự kiện bất khả kháng nằm


17

ngoài tầm kiểm soát thì Tòa án không thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự bởi những trường hợp này Tòa án không có cơ sở để đình chỉ, nếu đình chỉ
sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nguyên đơn.
Như vậy trong trường hợp phát sinh sự kiện làm cho đối tượng của vụ án cần
giải quyết tại Tòa án không còn tồn tại hoặc được suy đoán không còn tồn tại thì

Tòa án phải ngừng hẳn việc giải quyết vụ án để giải phóng cho bên đương sự đặc
biệt là bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khỏi việc tham gia tố tụng vốn
bị coi là nghĩa vụ bắt buộc đối với họ.
+ Phát sinh sự kiện dẫn tới quan hệ pháp luật là đối tượng của vụ án dân sự
đã thụ lý sẽ được giải quyết cùng với các quan hệ pháp luật khác trong một vụ án
khác
Đây là trường hợp đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án dân sự mà việc giải
quyết vụ án này có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Việc kiện yêu cầu thanh toán hay thực hiện nghĩa vụ mà Tòa án đã thụ lý sẽ được
giải quyết trong vụ án về giải quyết yêu cầu phá sản cùng với các chủ nợ khác để
đảm bảo quyền lợi của tất cả các chủ nợ.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định về đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự
Các quy định của pháp luật muốn được thi hành có hiệu quả trên thực tế
phải xuất phát từ yêu cầu của xã hội, nếu xa rời đời sống sẽ không có tính khả thi và
vướng mắc trong thực hiện. Theo đó, pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam không
những phải thể hiện, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp vào quá trình
giải quyết các vụ án dân sự mà còn phù hợp, phản ánh thực tiễn giải quyết các vụ án
dân sự ở nước ta.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án ở nước ta đã cho thấy có
rất nhiều trường hợp Tòa án không thể tiếp tục giải quyết được mà phải ngừng hẳn
việc giải quyết vụ án dân sự như trường hợp: trong quá trình Tòa án giải quyết vụ
án dân sự có thể xuất hiện các sự kiện làm cho việc tiến hành giải quyết vụ việc của


18

Tòa án sẽ không đảm bảo quyền tham gia tố tụng, không đảm bảo quyền bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Chẳng hạn: đương sự là cá nhân chết
mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế - chỉ trong trường hợp quyền và
nghĩa vụ của đương sự đã chết là quyền và nghĩa vụ về tài sản thì người thừa kế sẽ
tham gia tố tụng, còn đối với các quan hệ về nhân thân thì không có sự kế thừa về
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự, nên nếu quyền và nghĩa vụ đương sự đang yêu
cầu Tòa án giải quyết là quyền nhân thân mà có một trong các đương sự chết thì
Tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Đối với vụ việc có nhiều quan
hệ pháp luật vừa có quan hệ nhân thân, vừa có quan hệ tài sản cần giải quyết (ly
hôn, chia tài sản của vợ chồng đồng thời giải quyết yêu cầu của chủ nợ đối với vợ
chồng…) thì việc một trong các đương sự chết cũng không làm chấm dứt việc giải
quyết các quan hệ tài sản. Trong những trường hợp này, Tòa án chỉ đình chỉ giải
quyết yêu cầu đối với quan hệ nhân thân, tạm đình chỉ đối với việc giải quyết quan
hệ tài sản mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án. Còn đối với trường hợp cơ quan
tổ chức đã sáp nhập, chia tách, giải thể mà chưa có người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng - đây là trường hợp đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc sáp
nhập, chia, tách cơ quan, tổ chức, nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa được thành lập
hoặc đã được thành lập nhưng chưa có đủ điều kiện để hoạt động theo quy định của
pháp luật đối với loại hình cơ quan, tổ chức đó. Cần phân biệt với trường hợp các
cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn chấm dứt
hoạt động trên thực tế (do bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản) nếu “không có” cơ
quan, tổ chức nào kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đang
tham gia tố tụng bị giải thể, bị tuyên bố phá sản thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ
việc giải quyết vụ án.; đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự hoặc việc
đại diện hợp pháp đã chấm dứt mà chưa xác định định được người đại diện theo
pháp luật hoặc chưa có người thay thế. Trong những trường hợp này, pháp luật cần
quy định Tòa án đã thụ lý vụ án phải tạm ngừng giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo
quyền tham gia tố tụng, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
và người đại diện của họ.
Ngoài ra, liên quan đến việc Tòa án phải đình chỉ việc giải quyết vụ án dân
sự cũng có rất nhiều vấn đề khác nhau như thẩm quyền đình chỉ, thủ tục giải quyết,



×