Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

TRẦN THỊ HẰNG

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
TỪ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số :
60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Thị Hoài Thu

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.

Tác giả Luận văn



Trần Thị Hằng


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn này, bên cạnh sự
cố gắng, nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động
viên của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Với tấm lòng chân thành, kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin
được gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Hoài Thu người đã hết lòng giúp đỡ, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện
tốt nhất giúp tôi hoàn thành việc nghiên cứu đề tài Luận văn này.
Xin gửi lời tri ân tới các thầy cô Khoa Pháp luật Kinh tế nói chung, các
thầy cô tổ bộ môn Luật Lao động (Trường Đại học Luật Hà Nội) nói riêng,
đã trang bị cho tôi những kiến thức nền tảng trong suốt hai năm đào tạo.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2017
Tác giả

Trần Thị Hằng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BHXH:


Bảo hiểm xã hội

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số

Tên bảng

Trang

1

Tiền lãi thu từ đầu tƣ quỹ BHXH qua các năm

51

2

Danh mục tài sản đầu tƣ từ quỹ BHXH qua các năm

52

3

Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tƣ từ quỹ BHXH qua các năm


53

4

So sánh tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tƣ với tỷ lệ lạm phát, tốc
độ tăng trƣởng GDP giai đoạn 2010 -2016

57

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số
1

2

Tên biểu đồ
Tỷ lệ tăng lãi của hoạt động đầu tƣ từ quỹ BHXH
Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tƣ từ quỹ BHXH, tỷ lệ lạm phát
và tốc độ tăng trƣởng GDP của nền kinh tế qua các năm

Trang
52

58


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TỪ QUỸ
BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
1.1. Quỹ bảo hiểm xã hội và hoạt động đầu tƣ từ quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.2. Khái niệm hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
1.2. Điều chỉnh pháp luật về hoạt động đầu tƣ từ quỹ bảo hiểm xã hội
1.2.1. Nguyên tắc hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
1.2.2. Nội dung pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
Kết luận chƣơng 1
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƢ TỪ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động đầu tƣ từ quỹ
bảo hiểm xã hội
2.1.1. Về nguyên tắc đầu tư
2.1.2. Về các hình thức đầu tư
2.1.3. Về phương án đầu tư
2.1.4. Về sử dụng nguồn tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư
2.1.5. Về xử lý rủi ro trong hoạt động đầu tư
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt
động đầu tƣ từ quỹ bảo hiểm xã hội
2.2.1. Những thành tựu đạt được
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế
Kết luận chƣơng 2
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TỪ QUỸ BẢO
HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
3.1. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hoạt động
đầu tƣ từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
3.1.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện pháp luật


Trang
1
7
7
7
11
13
16
16
19
29
30
30
30
31
41
45
47
50
50
55
61
62
62
62


3.1.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

hoạt động đầu tƣ từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
3.2.1. Giải pháp pháp lý
3.2.2. Giải pháp tổ chức thực hiện
Kết luận chƣơng 3
Kết luận

66
67
67
73
76
77


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội được xem là chính sách quan trọng nhất trong hệ thống
an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc được bù đắp
một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do
bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp,
tuổi già, tử tuất. Ở nước ta, bảo hiểm xã hội luôn là một trong những chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội đóng vai trò quan
trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội, là nguồn lực vật chất đảm bảo cho việc
tổ chức và thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội.
Tuy nhiên thực tế hiện nay đang đặt ra một vấn đề hết sức cấp bách, đó
là sự mất cân đối giữa thu và chi bảo hiểm xã hội, dẫn đến nguy cơ “vỡ quỹ”.
Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), với các chính sách hiện
hành, đến năm 2021, quỹ bảo hiểm xã hội của Việt Nam sẽ mất cân đối thu

chi, đến năm 2034, có khả năng sẽ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội. Để tránh nguy cơ
này, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo sự cân đối trong thu
- chi quỹ bảo hiểm xã hội. Một trong những giải pháp cho vấn đề này là thực
hiện có hiệu quả hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội.
Trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động đầu tư
từ quỹ bảo hiểm xã hội vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Tình trạng đầu tư
dàn trải, kém hiệu quả, không thu hồi được vốn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc
chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội còn xảy ra, tác động đến an toàn tài chính
của quỹ. Điển hình là vụ việc Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho Công ty cho
thuê tài chính I và Công ty cho thuê tài chính II vay nhưng không có khả
năng thu hồi số tiền gần 1.500 tỷ đồng1.

1

Bích Diệp (2017), “1500 tỷ đồng ALC 1,2 nợ Bảo hiểm Xã hội: Chờ quyết định của Chính phủ”, Báo Dân trí
tại địa chỉ ngày truy cập 20/6/2017.


2

Cụ thể hóa các quy định về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội tại
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, ngày 28/4/2016, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 30/2016/NĐ-CP quy định chi tiết về hoạt động đầu tư từ quỹ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó pháp luật hiện
hành đã có nhiều sửa đổi tiến bộ trong quy định về hoạt động đầu tư từ quỹ
bảo hiểm xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư quỹ. Mặc dù
có những điểm tiến bộ, song quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư từ
quỹ bảo hiểm xã hội vẫn còn một số hạn chế nhất định, đòi hỏi phải tiếp tục
được hoàn thiện. Vì vậy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, cũng như các
quy định của pháp luật, nhằm đưa ra giải pháp thực hiện có hiệu quả hoạt

động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội là một vấn đề rất cấp thiết.
Với những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động
đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” làm Luận văn Thạc sỹ Luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu được nghiên cứu dưới
góc độ kinh tế, như: Luận án Tiến sĩ Kinh tế “Giải pháp nâng cao hiệu quả
đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” năm 2004 của Nguyễn Trọng
Thản; Luận văn Thạc sĩ Kinh tế “ Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng
trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam” năm 2008 của Nguyễn Thị Hồng
Thảo; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của Học viện Tài chính “Giải
pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” năm 2015
do Tiến sĩ Đỗ Đình Thu, Tiến sĩ Nguyễn Thùy Linh làm chủ nhiệm đề tài.
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học pháp lý, từ trước đến nay chưa có
nhiều công trình tập trung nghiên cứu pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ
bảo hiểm xã hội, chỉ có các công trình nghiên cứu pháp luật về quỹ bảo hiểm
xã hội nói chung, như: Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về quỹ bảo
hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội” của Phạm


3

Thành Công năm 2014; Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2015 của Trần Minh
Hoàng về “Hoàn thiện pháp luật về quản lý và đầu tư nguồn tài chính từ quỹ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế”; Bài viết “Quỹ bảo hiểm xã hội và một số
vấn đề về bảo toàn, phát triển quỹ bảo hiểm xã hội” của tác giả Nguyễn Hữu
Chí đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2006...
Có thể nói đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu khoa
học pháp lý nào để cập một cách toàn diện và có hệ thống, mang tính chuyên
sâu về pháp luật trong lĩnh vực hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội.

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những khái niệm dưới góc độ
pháp lý về quỹ bảo hiểm xã hội, hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội; nội
dung pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội; các quy định của
pháp luật Việt Nam và một số quốc gia về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm
xã hội; thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ
bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu về một số vấn đề lý luận, thực trạng quy định
của pháp luật hiện hành, thực tiễn áp dụng và đề xuất một số kiến nghị trong
việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam. Luận văn không nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, nghiệp vụ trong
việc đảm bảo thực thi hoạt động này trên thực tế.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu:
Một là, làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư từ
quỹ bảo hiểm xã hội và pháp luật về hoạt động động đầu tư từ quỹ bảo hiểm
xã hội.


4

Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực
tiễn thi hành pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
Ba là, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hiện
hành, việc thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ
bảo hiểm xã hội, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về vấn đề này.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được các mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của
Luận văn là:
Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội nói
chung và hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng.
Thứ hai, tìm hiểu một cách đầy đủ, và có hệ thống các quy định của
pháp luật hiện hành của nước ta về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội.
Thứ ba, nhận thức được tình hình thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội, chỉ ra được những kết
quả đạt được và các vấn đề tồn tại, hạn chế.
Thứ tư, luận giải về quan điểm, mục tiêu, yêu cầu hoàn thiện quy định
của pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội. Đồng thời đề ra
một số giải pháp khắc phục những tồn tại, bất cập trong các quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư quỹ.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ nội dung, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chủ yếu như sau:
Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử trong việc nêu ra
những khái niệm, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt


5

động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội. Từ đó chỉ ra những tồn tại, bất cập làm
cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp
luật và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội.
Phương pháp tổng hợp, đánh giá từ nguồn dữ liệu sẵn có. Các nguồn
dữ liệu này bao gồm văn bản pháp luật của các cơ quan Nhà nước; nguồn số
liệu, dữ liệu do các cơ quan Nhà nước hoặc đơn vị báo chí công bố.
Phương pháp tập hợp, hệ thống, logic: Các nội dung cơ bản của pháp

luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội được tập hợp, hệ thống và
phân tích để người đọc dễ dàng tiếp cận vấn đề.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này được ứng dụng trong việc
phân tích, so sánh các quy định cũ với quy định mới của pháp luật để đánh
giá mức độ tiếp thu, hoàn thiện pháp luật của cơ quan soạn thảo. Đồng thời,
phương pháp này cũng được ứng dụng trong việc tham khảo kinh nghiệm của
một số quốc gia trên thế giới để từ đó rút ra kiến nghị phù hợp.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số khái niệm về quỹ bảo hiểm
xã hội và hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội; tập hợp và hệ thống hóa
các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã
hội.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên chuyên ngành
Luật Kinh tế khi nghiên cứu các vấn đề về pháp luật về đảm bảo an toàn quỹ
bảo hiểm xã hội nói chung và pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm
xã hội nói riêng.
8. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 03 chương:


6

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội và
sự điều chỉnh pháp luật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm
xã hội ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.



7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
TỪ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
1.1. Quỹ bảo hiểm xã hội và hoạt động đầu tƣ từ quỹ bảo hiểm xã
hội
1.1.1. Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) hình thành, phát triển gắn liền với sự hình
thành, phát triển của các chính sách về bảo hiểm xã hội, và đóng vai trò quan
trọng trong hệ thống an sinh xã hội. Để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH,
phải sử dụng nguồn tài chính từ quỹ BHXH, do đó quỹ BHXH chính là
nguồn lực vật chất không thể thiếu nhằm đảm bảo cho việc tổ chức và thực
hiện tốt chính sách BHXH. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có khái niệm thống
nhất về quỹ BHXH.
Có quan điểm cho rằng, quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng
tiền của người tham gia bảo hiểm xã hội, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung
để chi trả cho người được bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc
bị mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm2.
Quan điểm khác định nghĩa quỹ BHXH là khoản tài chính dự trữ được
lập dùng để chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH theo quy định của
pháp luật3.
Cũng có quan điểm cho rằng, quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung
được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia quan hệ BHXH và
dùng để chi cho các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật4.

2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.

120.
3
Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 645.
4
Lê Thị Hoài Thu (2002), “Bàn về mô hình tổ chức quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”, Bảo hiểm xã hội,
(07), tr. 9.


8

Có quan điểm lại cho rằng quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được
tập hợp từ những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH và các
nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả cho những người được
BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do các rủi ro trong
quá trình lao động5.
Có thể thấy, các quan điểm trên đều xây dựng khái niệm “quỹ bảo hiểm
xã hội” gồm các nội dung sau: (1) Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ/tài chính tập
trung; (2) nội dung về nguồn hình thành quỹ BHXH; và (3) nội dung về việc
sử dụng quỹ BHXH. Tuy nhiên, các khái niệm “quỹ BHXH” nêu trên, còn có
sự khác biệt trong việc xác định các nguồn hình thành và các khoản chi từ
quỹ BHXH. Chưa có khái niệm nào thể hiện đầy đủ các nguồn hình thành
quỹ và các khoản sử dụng của quỹ BHXH, vì:
Về nguồn hình thành quỹ: Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau. Trong đó, nguồn cơ bản là đóng góp của các bên tham gia BHXH,
gồm người lao động và người sử dụng lao động (gọi là phí BHXH). Ngoài ra,
quỹ BHXH còn được hình thành từ những nguồn khác, như: từ sự hỗ trợ của
nhà nước; thu lợi từ hoạt động đầu tư của quỹ; tiền do các cơ quan, tổ chức
hỗ trợ cho quỹ; tiền phạt do các cơ quan, đơn vị vi phạm pháp luật về BHXH
theo quy định.

Về việc sử dụng quỹ BHXH: Quỹ BHXH chủ yếu được sử dụng để chi
trả các chế độ BHXH6. Ngoài ra, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi trả chi
phí cho bộ máy quản lý, chi cho hoạt động đầu tư từ quỹ...

5

Đỗ Đình Thu, Nguyễn Thùy Linh (chủ nhiệm đề tài) (2015), Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện, Học viện Tài chính, Hà Nội, tr. 3.
6

Theo Công ước số 102 Công ước về quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội của ILO, có 9 chế độ BHXH là
Chăm sóc y tế; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp tuổi già; trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp thai sản; trợ cấp tàn tật; trợ cấp tiền tuất. Tùy thuộc
vào điều kiện của mình, mỗi nước thực hiện các chế độ này ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực
hiện được 3 chế độ. Trong đó ít nhất phải có 1 trong 5 chế độ: Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp
trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất.


9

Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm quỹ BHXH là quỹ tiền tệ
tập trung được hình thành từ nguồn đóng góp của các bên tham gia BHXH
và các khoản thu hợp pháp khác, chủ yếu được sử dụng để chi trả các chế độ
BHXH theo quy định của pháp luật.
Quỹ BHXH có một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập ngoài ngân sách nhà nước,
nhưng sự an toàn về tài chính của quỹ được Nhà nước đảm bảo. Quỹ BHXH
có nguồn thu và nhiệm vụ chi riêng, không do ngân sách nhà nước đảm bảo.
Tuy nhiên, sự an toàn về tài chính của quỹ được Nhà nước đảm bảo. Điều
này xuất phát từ tính chất quan trọng của quỹ đối với cuộc sống của người

lao động. Sự an toàn của quỹ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, cuộc sống
của người lao động khi gặp phải những hoàn cảnh khó khăn dẫn đến suy
giảm hoặc mất khả năng lao động. Mỗi người lao động luôn cần đến sự chi
trả của quỹ BHXH trong suốt cuộc đời. Trường hợp không rơi vào những
hoàn cảnh ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì người lao động
hướng đến quyền lợi được chi trả lương hưu lúc về già.
Sự an toàn của quỹ BHXH được đặt ra cũng xuất phát từ tính chất quan
trọng của quỹ trong hệ thống BHXH. Vì quỹ BHXH là nguồn lực vật chất
không thể thiếu giúp đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện tốt các chính
sách BHXH. Để đối phó với những rủi ro mang tính ngẫu nhiên làm giảm
hoặc mất khả năng lao động thì cần có một lượng tiền dự trữ đủ lớn được
hình thành và sử dụng trong một thời gian nhất định trên cơ sở những tính
toán xác suất nảy sinh và mức độ nhu cầu bảo hiểm hiểm xã hội trong phạm
vi quỹ phục vụ.
Do đó, yêu cầu đặt ra đối với quỹ BHXH là phải được bảo toàn về giá
trị và hạn chế tối đa các rủi ro về tài chính, trong đó đặc biệt là giữ được giá
trị (sức mua) của các khoản trợ cấp. Một chế độ bảo hiểm với mức trợ cấp
không thích ứng kịp thời với sự thay đổi về giá trị đồng tiền thì không đạt


10

được mục đích đặt ra, nhất là trong điều kiện nền kinh tế phải đối mặt với
nguy cơ lạm phát gia tăng. Do đặc thù về đối tượng đảm bảo, bản chất, ý
nghĩa của hoạt động bảo hiểm xã hội mà Nhà nước phải có trách nhiệm đảm
bảo an toàn về tài chính cho quỹ7.
Hai là, về bản chất quỹ BHXH vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã
hội. Về mặt kinh tế, quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được tạo lập để
phân phối lại thu nhập cho người lao động, bảo đảm bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động khi có sự kiện bảo hiểm xuất hiện. Về mặt xã hội,

do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một
phần nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một
lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra. Như vậy, quỹ BHXH
đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”, điều này thể hiện sự
tương thân, tương ái lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
Ba là, quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH vừa mang tính chất bồi
hoàn vừa mang tính chất không bồi hoàn: Tính chất bồi hoàn của quỹ thể
hiện ở chỗ người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp để hình thành
quỹ BHXH, đồng thời, họ cũng là đối tượng được BHXH chi trả các chế độ
khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Tính không bồi hoàn thể hiện ở chỗ, cùng
tham gia đóng góp BHXH nhưng có người được hưởng, có người không
được hưởng (người sử dụng lao động phải đóng góp vào quỹ BHXH nhưng
không được hưởng bất cứ khoản hỗ trợ nào); có người hưởng ít, có người
hưởng nhiều (tùy thuộc vào sự kiện bảo hiểm xảy ra).
Bốn là, quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, tồn tại trong thời gian dài,
luôn vận động và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn: Quỹ BHXH được tạo lập
chủ yếu từ sự đóng góp, tham gia của người lao động và người sử dụng lao
động và có tính chất phân phối lại lao động giữa những người tham gia

7

Nguyễn Hữu Chí (2006), Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề về bảo toàn, phát triển quỹ bảo hiểm xã
hội, Nhà nước và Pháp luật (06), tr. 63-64.


11

BHXH. Khoảng thời gian kể từ khi đóng BHXH đến khi hưởng các chế độ
BHXH thường tương đối dài. Mặt khác, vì số người tham gia BHXH đông
nên quỹ BHXH có nguồn lực tài chính mạnh, cùng với tính chất “đóng tiền

trước hưởng sau” nên quỹ luôn có nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi.
1.1.2. Khái niệm hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
Theo nghĩa chung nhất, hoạt động đầu tư được hiểu là quá trình bỏ vốn
để tạo ra một tài sản đem lại lợi nhuận8. Từ đó, trên cơ sở phân tích khái niệm
quỹ BHXH như trên, có thể hiểu hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội là
quá trình sử dụng nguồn tài chính từ quỹ BHXH để thực hiện các hoạt động
đầu tư, nhằm mục đích bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Hoạt động đầu tư từ quỹ
bảo hiểm xã hội mang những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư, như:
Yếu tố tiên quyết của hoạt động đầu tư đó là nguồn lực, bao gồm nguồn
lực vật chất và con người. Trong đó, yếu tố vật chất là nền tảng của hoạt
động đầu tư bởi lẽ nếu không có nguồn vốn bằng tiền hay tài sản thì không
thể tiến hành các hoạt động đầu tư; yếu tố con người là yếu tố quyết định tới
quá trình cũng như kết quả của hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư nhằm hướng tới một mục tiêu nhất định. Khi tiến hành
hoạt động đầu tư, nhà đầu tư luôn đặt trước cho mình một kỳ vọng nào đó
được gọi là mục tiêu. Sau đó nhà đầu tư sẽ sử dụng nguồn lực vật chất và con
người của mình để tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện được những mục
tiêu ban đầu đã đề ra.
Hiệu quả của hoạt động đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Tuỳ thuộc vào sự chi phối của các tác động bên ngoài mà hoạt động đầu tư có
thể thu được những hiệu quả tốt hoặc xấu. Không phải lúc nào khi tiến hành
các hoạt động đầu tư nhà đầu tư cũng thu được lợi ích lớn hơn so với ban đầu
mà có thể chịu những rủi ro do không sử dụng và quản lý tốt các nguồn lực
8

Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam tập I, Nxb. Từ
điển bách khoa, Hà Nội, tr. 761.


12


cũng như dự báo và xử lý tốt những nhân tố ảnh hưởng trong quá trình thực
hiện hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư thường mang tính lâu dài. Để thu được kết quả như đã
đề ra ban đầu, nhà đầu tư thường phải tiến hành nhiều khâu, nhiều bước khác
nhau. Quá trình này thường diễn ra trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Ngoài các đặc điểm chung của hoạt động đầu tư như trên, hoạt động đầu
tư từ quỹ bảo hiểm xã hội còn mang một số đặc trưng riêng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, vốn đầu tư là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi: Nguồn tài chính
của quỹ BHXH nhằm thực hiện trách nhiệm của BHXH đối với người lao
động chứ không phải là nguồn vốn kinh doanh. Vì vậy, trong thời gian chưa
sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động thì khoản tiền này
“nhàn rỗi”. Do nguồn vốn đầu tư là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi nên hoạt
động đầu tư từ quỹ BHXH không phải chịu sức ép về lãi suất nhưng phải
đảm bảo bảo toàn được nguồn vốn bỏ ra (đảm bảo khả năng thu hồi vốn).
Thứ hai, hình thức đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội thường kém đa dạng
hơn so với các hoạt động đầu tư khác: Điều này xuất phát từ bản chất nguồn
vốn của hoạt động đầu tư là khoản tiền nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm xã hội. Do
nguồn vốn của quỹ bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo các quyền lợi an sinh xã
hội cho người lao động nên quỹ luôn phải có một khoản tiền để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ này. Để đảm bảo an toàn cho quỹ, phục vụ việc chi trả các chế
độ, chính sách của BHXH nên việc đầu tư từ quỹ BHXH thường được thực
hiện vào một số lĩnh vực nhất định, có độ rủi ro thấp. Vì vậy, hình thức đầu
tư từ quỹ BHXH thường kém đa dạng hơn so với các hoạt động đầu tư khác.
Thứ ba, mục đích của hoạt động đầu tư là nhằm bảo toàn và tăng
trưởng quỹ. Khác với các hoạt động đầu tư thông thường, mục đích cuối cùng
hướng tới là lợi nhuận. Quỹ BHXH được hình thành nhằm bảo đảm bù đắp
một phần thu nhập cho người lao động khi có những sự kiện bảo hiểm xảy ra,
như: ốm đau, tai nạn lao động, thai sản…làm giảm hoặc mất hẳn các khoản



13

thu nhập thường xuyên từ lao động nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của
người lao động. Vì thế , mục đích chủ yếu của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo
hiểm xã hội không phải nhằm tìm kiếm lợi nhuận, mà nhằm bảo toàn và tăng
trưởng quỹ. Nói cách khác, bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu xa hơn mà
hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội hướng đến đó chính là mục tiêu xã
hội.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH có vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định kinh tế, xã
hội của mỗi quốc gia, bởi quỹ này được sử dụng chủ yếu để chi trả các chế độ
bảo hiểm xã hội cho người lao động, tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa những
người lao động.
Xuất phát từ bản chất “đóng tiền trước hưởng sau”, người tham gia
BHXH đóng phí trong một thời gian dài và thường là rất lâu sau họ mới được
hưởng các chế độ trợ cấp dài hạn (như hưu trí, tuất...). Đồng thời số người
tham gia đóng phí và hưởng tại một thời điểm thường có chênh lệch dương
(đôi khi khá lớn) nên quỹ BHXH tại một thời điểm nhất định có số tiền kết
dư lớn.Tuy nhiên, nếu chỉ giữ nguyên số tiền này mà không thực hiện các
hoạt động đầu tư thì sẽ dẫn đến nguy cơ không bảo toàn được quỹ. Bởi trong
nền kinh tế thị trường luôn có một yếu tố tác động rất lớn đến các quỹ tài
chính nói chung và quỹ BHXH nói riêng đó là lạm phát. Lạm phát trong nền
kinh tế dẫn đến nguy cơ mất giá của đồng tiền nếu chỉ cất giữ trong két mà
không thực hiện các hoạt động đầu tư. Đặc biệt, đối với nguồn tài chính
thuộc quỹ BHXH có đặc trưng là khoảng thời gian kể từ khi đóng vào đến
khi được hưởng là tương đối dài. Vì vậy, hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH góp
phần bảo toàn và tạo ra sự tăng trưởng của quỹ.
Mặt khác, quỹ BHXH cũng luôn phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro,
như việc tính toán mức đóng - mức hưởng của đối tượng không khoa học;

những biến động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ; bị giảm giá trị do


14

lạm phát thông thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính
trị, xã hội trong nước và nước ngoài tác động...
Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH phải được chú trọng đến hoạt
động đầu tư tăng trưởng để tránh bị bội chi. Sự quay vòng bảo toàn và tăng
trưởng quỹ BHXH là một đặc trưng cơ bản của hoạt động BHXH trong nền
kinh tế thị trường. Hoạt động đầu tư quay vòng vốn để bảo toàn và tăng
trưởng giá trị quỹ BHXH là một yêu cầu thiết yếu, khách quan, đảm bảo cho
sự tồn tại, phát triển và phát huy tác dụng của chính sách BHXH trong việc
bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bền vững. Hoạt
động đầu tư từ quỹ BHXH có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quỹ
BHXH, với Nhà nước và đối với toàn xã hội, cụ thể:
Đối với quỹ bảo hiểm xã hội: Hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
trước hết giúp mang lại lợi ích cho chính quỹ bảo hiểm xã hội. Thông qua
hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội vào các lĩnh vực có khả năng sinh lời
của nền kinh tế, khoản tiền nhàn rỗi từ quỹ bảo hiểm xã hội có khả năng sinh
lời tạo ra nguồn tài chính tương đối lớn bổ sung vào quỹ, từ đó tăng quy mô
và sức mạnh cho quỹ bảo hiểm xã hội. Khi hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm
xã hội tạo ra được nguồn tài chính bổ sung cho quỹ, sẽ giúp quỹ bảo hiểm xã
hội tăng trưởng, đồng thời đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên cho các
đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Điều này tạo dựng tâm lý an tâm
cho người tham gia, từ đó quy mô số người tham gia bảo hiểm xã hội ngày
càng tăng cũng tạo nên sự tăng trưởng cho quỹ.
Đối với Nhà nước: Nguồn vốn lớn có được từ hoạt động đầu tư từ quỹ
bảo hiểm xã hội sẽ là nguồn hỗ trợ quan trọng trong việc đầu tư phát triển
một số dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, giúp thúc đẩy tăng

trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế đang phát
triển, nhu cầu vốn cho đầu tư không ngừng tăng nhanh thì bên cạnh việc thu
hút các nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, việc cung ứng vốn từ


15

nền kinh tế thông qua các tụ điểm tài chính như quỹ bảo hiểm xã hội có ý
nghĩa rất quan trọng, nhất là tạo ra sự tự chủ và thế chủ động trong việc phát
triển kinh tế đất nước.
Mặt khác, thông thường Nhà nước phải hỗ trợ một phần ngân sách Nhà
nước để cân bằng thu - chi quỹ bảo hiểm xã hội. Do đó, nếu quỹ bảo hiểm xã
hội đầu tư hiệu quả, đem lại nguồn tài chính ổn định, đảm bảo được khả năng
chi trả sẽ giúp Ngân sách Nhà nước giảm được gánh nặng phải bù đắp cho
quỹ bảo hiểm xã hội.
Đối với xã hội: Hiện nay, quỹ BHXH thường được đầu tư vào các lĩnh
vực như: mua các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái
phiếu công ty; gửi tiết kiệm ở ngân hàng, mua kỳ phiếu ngân hàng; mua cổ
phiếu; cho các công ty vay vốn; trực tiếp liên doanh hoặc uỷ thác kinh doanh;
kinh doanh bất động sản. Trong đó, mua trái phiếu Chính phủ và gửi ngân
hàng là an toàn hơn cả và được hầu hết các nước áp dụng.
Hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH góp phần thúc đầy sự phát triển của nền
kinh tế, qua đó tạo thêm việc làm, đảm bảo đời sống, thu nhập cho người lao
động. Đặc biệt, ở những nước có hệ thống BHXH trưởng thành và hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, Nhà nước một mặt để hệ thống BHXH tự chủ về tài
chính, mặt khác luôn hậu thuẫn để BHXH dám đầu tư vào lĩnh vực có thể ít
lãi hơn nhưng có mục tiêu xã hội quan trọng (như cho vay xây dựng các công
trình phúc lợi công cộng, các công trình giáo dục hay chăm sóc sức khoẻ).
Một số nước lập ngân hàng riêng trong hệ thống BHXH để đầu tư vào các xí
nghiệp với mục tiêu chính là tạo công ăn việc làm...

Như vậy, có thể thấy hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH có vai trò, ý nghĩa
hết sức quan trọng, góp phần cân đối thu chi quỹ BHXH, giúp bảo toàn và
tăng trưởng quỹ, từ đó sẽ góp phần ổn định nền kinh tế - xã hội.


16

1.2. Điều chỉnh pháp luật về hoạt động đầu tƣ từ quỹ bảo hiểm xã
hội
Pháp luật về hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH là tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư từ quỹ
BHXH, bao gồm các quy định về: nguyên tắc đầu tư; hình thức đầu tư;
phương án đầu tư; sử dụng nguồn tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư và xử lý
rủi ro trong hoạt động đầu tư.
1.2.1. Nguyên tắc hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội
Nguyên tắc hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH là những tư tưởng chỉ đạo,
xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động
đầu tư từ quỹ BHXH. Nội dung các nguyên tắc hoạt động đầu tư thể hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư từ quỹ
BHXH.
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động bảo hiểm là thu tiền trước chi tiền
sau dẫn tới một bộ phận tiền vốn trong quỹ BHXH ở trạng thái tạm thời nhàn
rỗi. Thêm vào đó, tính chất trong hoạt động phân phối của bảo hiểm là vừa
mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn, đồng thời tính
bồi hoàn của bảo hiểm là hoàn toàn bất ngờ. Vì thế, đầu tư tiền nhàn rỗi của
quỹ BHXH nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ là tất yếu đối với việc quản lý
tài chính của quỹ, hướng tới đảm bảo cân đối trong dài hạn cũng như tăng
cường năng lực tài chính của quỹ BHXH. Tuy nhiên, cũng vì chính những
đặc điểm riêng có của bảo hiểm nên việc đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã
hội phải thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc nhất định9, bao gồm:

Một là, đầu tư từ quỹ BHXH phải đảm bảo an toàn. Mục tiêu của quỹ
BHXH là đảm bảo an toàn thu nhập cho người lao động, đảm bảo an sinh xã
hội cho dân cư, do đó quỹ BHXH phải luôn duy trì năng lực tài chính để sẵn
9

Trường Đại học Lao động - Xã hội (2016), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Nxb. Lao động - Xã hội, tr.236 –
238.


17

sàng chi trả, hỗ trợ cho người lao động xử lý rủi ro và các tổn thất do rủi ro
gây ra nếu có. Những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào, với đặc điểm đó,
quỹ BHXH luôn phải tồn tích một lượng tiền cần thiết để đáp ứng. Nếu đầu
tư không an toàn sẽ dẫn đến nguy cơ thâm hụt quỹ, ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người lao động, đẩy người lao động vào hoàn cảnh khó khăn,
tạo thêm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Điều này sẽ gây ra những bất
ổn về kinh tế, xã hội của quốc gia, làm giảm sút lòng tin của người dân đối
với Nhà nước. Vì vậy, nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư từ
quỹ BHXH là đảm bảo an toàn.
Để đảm bảo nguyên tắc này, pháp luật thường quy định quỹ BHXH ít
được đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao, mạo hiểm lớn; không tập trung
đầu tư vào một hoặc một số dự án, công trình mà thường phân tán đầu tư vào
nhiều lĩnh vực khác nhau (cả trong nước và nước ngoài) để giảm thiểu rủi ro
trong đầu tư. Đồng thời, để tránh được những rủi ro khi đầu tư, pháp luật quy
định về chính sách đầu tư, cơ chế giám sát đầu tư chặt chẽ (quy định cụ thể
về hạn mức đầu tư, chỉ định lĩnh vực đầu tư, bảo hộ trong quá trình đầu tư....)
Hai là, đầu tư từ quỹ BHXH phải hiệu quả. Hiệu quả đầu tư được hiểu là
khả năng sinh lời từ kết quả đầu tư của quỹ BHXH. Dưới góc độ kinh tế, bất
kỳ hoạt động đầu tư nào cũng phải có lãi, tức là phải thu được lợi nhuận, sau

khi đã trừ đi các chi phí đầu tư. Mặc dù mục tiêu hoạt động của quỹ BHXH là
phi lợi nhuận, nhưng để đảm bảo cho quỹ BHXH có độ an toàn cao, có thể
chi trả cho những người thụ hưởng cả ở hiện tại và trong tương lai, quỹ
BHXH không những phải bảo toàn được giá trị mà còn phải có sự tăng
trưởng. Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng quỹ, đòi hỏi hoạt động đầu
tư từ quỹ BHXH phải có hiệu quả, mang lại lợi nhuận. Lợi nhuận thu được từ
các hoạt động đầu tư phải được tiếp tục tái đầu tư và một phần để bù đắp
những chi phí tăng thêm trong việc quản lý quỹ BHXH.


18

Nguyên tắc này không hề mâu thuẫn với nguyên tắc đầu tiên về tính an
toàn trong hoạt động đầu tư. Vì đầu tư an toàn không có nghĩa là không mang
lại lợi nhuận; đầu tư có hiệu quả cũng không có nghĩa là đầu tư không an
toàn. Hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH phải đảm bảo hài hòa giữa hai nguyên
tắc này thì mới đạt được mục đích là bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Để thực hiện được nguyên tắc này, pháp luật quy định danh mục đầu tư,
các lĩnh vực đầu tư chủ yếu, trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền quyết
định các hình thức đầu tư cụ thể. Đối với từng dự án đầu tư, BHXH phải cân
nhắc, đánh giá cẩn thận về những rủi ro có thể gặp phải, khả năng sinh lời
của dự án để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra, hoặc quyết định có tiếp tục đầu
tư nữa hay không.
Ba là, đầu tư từ quỹ BHXH phải đảm bảo thuận tiện khi thu hồi vốn.
Hoạt động chi trả trợ cấp BHXH, mặc dù phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau, liên quan đến các rủi ro xã hội và các sự kiện được bảo hiểm với những
quy mô và mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung, diễn ra thường xuyên. Mặt
khác, những rủi ro dẫn tới việc chi trả từ quỹ BHXH có tính chất bất ngờ. Vì
vậy, quỹ BHXH phải luôn duy trì khả năng thanh toán cao nhất cho các đối
tượng thụ hưởng.

Do vậy, đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải đảm
bảo sự thuận tiện khi thu hồi vốn (tính thanh khoản cao), nghĩa là phải đảm
bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền mặt để thực hiện nghĩa
vụ chi trả cho người lao động. Do đó, khi đầu tư, quỹ BHXH phải thực hiện
một trong những tiêu chuẩn lựa chọn tài sản đầu tư là tính “lỏng” cao, tức là
có khả năng chuyển đổi từ tài sản đầu tư sang tài sản thanh toán nhanh và
không phải chịu những phí tổn lớn.
Bốn là, hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH nhằm phục vụ những lợi ích
công cộng. Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan trọng
của Nhà nước. Mục đích của bảo hiểm xã hội là đảm bảo thu nhập cho người


×