BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------
TRẦN THỊ MAI
PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI PHẠM PHÁP LUẬT
ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------
TRẦN THỊ MAI
PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI PHẠM PHÁP LUẬT
ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn
Trần Thị Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 ........................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI PHẠM PHÁP
LUẬT ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI PHẠM
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM ........................................................... 7
1.1.Những vấn đề lý luận về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai ............ 7
1.1.1. Vi phạm pháp luật đất đai………………………………………………7
1.1.2. Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai……………………………..15
1.2.Những vấn đề lý luận về pháp luật thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai ở Việt Nam................................................................................................. 19
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai…….19
1.2.2.Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề thu hồi đất
do vi phạm pháp luật đất đai........................................................................... 21
1.2.3.Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp
luật đất đai ...................................................................................................... 23
1.2.4.Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật về thu hồi đất do vi phạm
pháp luật đất đai ............................................................................................. 26
Chương 2 ......................................................................................................... 32
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI PHẠM PHÁP
LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM .................................................................... 32
2.1.Quy định pháp luật về các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật
đất đai .............................................................................................................. 32
2.2.Thẩm quyền thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai ............................. 48
2.3.Trình tự, thủ tục thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai....................... 51
2.4.Hậu quả pháp lý khi Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai 58
Chương 3 ......................................................................................................... 65
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI
PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM ............................................ 65
3.1.Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai ở Việt Nam................................................................................................. 65
3.2.Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật
đất đai ở Việt Nam .......................................................................................... 70
3.2.1.Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất do
vi phạm pháp luật đất đai ở Việt Nam ............................................................ 70
3.2.2.Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất do
vi phạm pháp luật đất đai................................................................................ 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay, đất đai
đã trở thành một yếu tố quan trọng không thể thiếu cho sự hình thành và phát
triển của tất các ngành, lĩnh vực khác nhau. Đất đai là cơ sở cho sự chuyển
mình và thay đổi bộ mặt mới ở nông thôn, là địa bàn cho sự hiện đại của các
đô thị, là phương châm, là cái đích cho sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của
người dân nông thôn. Rõ ràng đất đai đã tham gia vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, là nguồn nội lực cho sự phát nghiệp này. Cũng
chính vì vai trò quan trọng của đất đai mà các quan hệ đất đai trên thực tế diễn
ra ngày càng phong phú, đa dạng và sôi động hơn.
Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng và phát triển nhanh chóng của các quan
hệ đất đai, sự vi phạm pháp luật cũng xảy ra nhiều hơn với hình thức và mức
độ tinh vi hơn. Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI ngày 31/10/2012 đã chỉ ra công tác quản lý nhà nước về đất đai
còn nhiều hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật về đất đai của một bộ phận cán
bộ và nhân dân còn hạn chế, gây nên tình trạng sử dụng đất lãng phí, hiệu quả
thấp song việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm lại
chưa nghiêm. Theo Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Tài nguyên và Môi
trường cũng như sự phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể
thấy tình hình sai phạm trong các khâu quản lý và sử dụng đất vẫn còn chiều
hướng tăng và diễn biến phức tạp hơn. Các sai phạm chưa được xử lý còn tồn
động với khối lượng lớn. Do vậy, để ngăn ngừa và xử lý có hiệu quả những vi
phạm trên cần có những biện pháp cụ thể, kịp thời và thích hợp làm cơ sở cho
việc thực hiện các mục tiêu lâu dài mà Đảng và Nhà nước đã đề ra cho các
cấp các ngành có liên quan trong quá trình quản lý và sử dụng đất. Và một
trong những biện pháp được đưa ra và thực hiện để giải quyết tình trạng vi
phạm pháp luật về đất đai chính là thu hồi đất.
2
Thu hồi đất trong trường hợp này mặc dù xuất phát từ những vi phạm
pháp luật đất đai nhưng đây không đơn giản chỉ là việc làm chấm dứt quyền
sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mà còn để lại những hệ quả nhất
định đối với người sử dụng đất bị thu hồi, là vấn đề “nhạy cảm”, ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích thiết thực của không chỉ người sử dụng đất mà còn cả của
Nhà nước, xã hội. Do đó, các quy định về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai cần phải nhận được sự quan tâm thích hợp, việc nghiên cứu, tìm hiểu các
quy định để hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này là điều cần thiết. Đây là lý do
để tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hồi đất là một chế định quan trọng của pháp luật đất đai. Chế định
này khi đi vào cuộc sống trực tiếp đụng chạm đến lợi ích của người bị thu hồi
đất, lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng và lợi ích của nhà đầu tư nên đã
nhận được sự quan tâm của các nhà lập pháp, các nhà thực thi pháp luật cũng
như giới nghiên cứu khoa học pháp lý nước ta.
Thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên cứu
về lĩnh vực pháp luật này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn; tiêu biểu là các
công trình nghiên cứu của các tác giả: Phạm Thu Thủy: Pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, luận án tiến sỹ luật
học, 2014; Nguyễn Thị Tâm: Pháp luật về thu hồi đất trong giải quyết mối
quan hệ giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi, luận văn thạc
sỹ luật học, 2013; Nguyễn Thị Bích Anh: Các vấn đề pháp lý về bồi thường
thiệt hại về đất khi nhà nước thu hồi đất, khóa luận tốt nghiệp, 2007; Lê
Huyền Linh: Pháp luật về tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở - Thực trạng
và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sỹ luật học, 2015;…. Nguyễn Quang
Tuyến: Về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất trong Luật đất đai
năm 1993, Tạp chí Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thu
3
Thủy: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất
đai năm 2013, Đặc san về Luật Đất đai năm 2013; Châu Hoàng Thân: Bất cập
trong quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, Tạp
chí khoa học Trường đại học Cần Thơ, .v.v.
Có thể thấy, phần lớn các nghiên cứu chỉ tập trung vào việc thu hồi đất
vì mục đích quốc phòng – an ninh, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, công cộng hoặc nghiên cứu chung về các trường hợp thu hồi
đất mà không có những nghiên cứu độc lập, toàn diện về trường hợp thu hồi
đất do vi phạm pháp luật; hoặc có chăng thì chỉ là những bài báo, bài viết
ngắn về một khía cạnh đơn lẻ của việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai. Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình trên đây,
luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về thu hồi đất do vi
phạm pháp luật đất đai.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây:
Phân tích, tìm hiểu nội hàm của các khái niệm vi phạm pháp luật đất đai,
thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai và pháp luật về thu hồi đất do vi
phạm pháp luật đất đai, đồng thời nhận diện những đặc trưng cơ bản của các
khái niệm này;
Tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về
thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai;
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về thu hồi đất do vi
phạm pháp luật đất đai;
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về thu hồi đất do vi phạm
pháp luật đất đai;
4
Xác lập định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp
luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát triển kinh
tế trong lĩnh vực đất đai nói chung và về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai nói riêng;
Các quy phạm pháp luật thực định về thu hồi đất do vi phạm pháp luật
đất đai;
Các báo cáo, tổng kết tình hình thực thi pháp luật về thu hồi đất;
Các bài báo, bài phát biểu liên quan đến thực tiễn thực thi công tác thu
hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai ở Việt Nam.
b) Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận văn giới hạn phạm vi
nghiên cứu ở việc đi sâu phân tích, tìm hiểu các quy định về thu hồi đất do vi
phạm pháp luật đất đai trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một biện pháp
chế tài áp dụng đối với các trường hợp vi phạm các quy định về quản lý, sử
dụng đất đai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học
Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa;
5
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước
pháp quyền nói chung và về chính sách, pháp luật đất đai nói riêng trong điều
kiện kinh tế thị trường;
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau:
Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh v.v. được sử dụng trong
Chương 1 tìm hiểu về một số vấn đề lý luận về thu hồi đất do vi phạm pháp
luật đất đai;
Phương pháp đánh giá, đối chiếu, diễn giải, v.v... được sử dụng tại
Chương 2 khi tìm hiểu về pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai;
Phương pháp tổng hợp, quy nạp v.v. được sử dụng tại Chương 3 khi
nghiên cứu, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi
đất do vi phạm pháp luật đất đai.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn hoàn thành sẽ có ý nghĩa cả về mặt khoa
học và thực tiễn, thể hiện chủ yếu qua những nội dung sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng các quy định về thu hồi đất do vi phạm pháp luật
đất đai;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thu hồi đất do vi
phạm pháp luật đất đai; trên cơ sở đó chỉ ra tồn tại, bất cập và nguyên nhân
của những hạn chế này trong các quy định hiện hành;
Thứ ba, đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai.
6
Luận văn cũng là một trong số các tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác
giảng dạy, học tập và nghiên cứu pháp luật đất đai ở các cơ sở đào tạo luật ở
nước ta.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai và pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất
đai ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất do vi phạm
pháp luật đất đai ở Việt Nam.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI PHẠM PHÁP
LUẬT ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT DO VI PHẠM
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
Những vấn đề lý luận về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai
1.1.
1.1.1. Vi phạm pháp luật đất đai
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai
Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là một khái niệm được sử dụng phổ biến trong các
sách, báo, tài liệu pháp lý ở nước ta, được nhiều công trình nghiên cứu khoa
học pháp lý nước ta tìm hiểu, giải mã. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng
lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe doạ gây ra những hậu quả xấu cho xã hội.
Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng,
nó giúp cho việc nhận diện hiện tượng xã hội này, phân biệt chúng với các
hiện tượng lệch chuẩn khác, từ đó có các biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa,
giảm thiểu hiện tượng này trong đời sống.
Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội 2001 định nghĩa: “Vi phạm pháp luật là một loại sự kiện
pháp lý đặc biệt, đó là hành vi do các chủ thể pháp luật thực hiện trái với các
yêu cầu của quy phạm pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ”. Có bốn loại vi phạm pháp luật gồm vi phạm hình sự, vi phạm
dân sự, vi phạm hành chính và vi phạm kỷ luật; tương ứng với mỗi loại vi
phạm là một hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý cụ thể.
Việc xử lý vi phạm pháp luật phải dựa vào các yếu tố cấu thành hành vi
vi phạm pháp luật. Mỗi hành vi vi phạm pháp luật bao gồm bốn yếu tố cấu
thành là chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan của hành vi vi
phạm.
8
Vi phạm pháp luật có dấu hiệu cơ bản gồm: (i) Hành vi của con người,
gồm hành vi hành động và hành vi không hành động; (ii) Là hành vi trái quy
định của pháp luật. Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ làm không
đúng điều pháp luật cho phép, không làm hoặc làm không đầy đủ điều pháp
luật bắt buộc phải làm hoặc làm điều mà pháp luật cấm; (iii) Là hành vi có
chứa đựng lỗi của chủ thể - trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ
thể đối với hành vi của mình ở thời điểm chủ thể thực hiện hành vi trái pháp
luật; (iv) Là hành vi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện :
nếu chủ thể hành vi trái pháp luật là cá nhân thì người đó phải đến độ tuổi
chịu trách nhiệm pháp lý theo luật định, không mắc các bệnh tâm thần, có khả
năng nhận thức được hậu qủa nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và
hậu quả pháp lý của nó. Tùy thuộc vào tính chất của vi phạm pháp luật, vào
hậu quả có hại và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như tính
chất của chế tài có thể được áp dụng đối với hành vi mà các vi phạm pháp luật
được chia thành hai loại là tội phạm và vi phạm, trong đó vi phạm có thể là vi
phạm hành chính, vi phạm dân sự hay vi phạm kỷ luật.
Như vậy, có thể hiểu vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, do chủ
thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai
Quan hệ đất đai là quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế. Trong quá trình quản
lý, khai thác và sử dụng đất đai, các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân
thiết lập với nhau nhiều mối quan hệ với sự đa dạng, phong phú về chủ thể, về
mục đích thiết lập mối quan hệ, cách thức thực hiện mối quan hệ đó. Để giữ
vững và duy trì những quan hệ đó diễn ra một cách có hệ thống, khoa học,
đảm bảo cho việc khai thác, sử dụng đất có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể đó và quan trọng nhất là đảm bảo cho sự phát
triển toàn diện về kinh tế và xã hội, Nhà nước ta đã đề ra những quy phạm
9
pháp luật để điều chỉnh các hành vi xử sự của các chủ thể trong từng mối
quan hệ đất đai cụ thể. Các chủ thể trong quan hệ này phải tuân theo những
nguyên tắc, khuôn mẫu đó, đồng nghĩa với việc tuân theo sự điều chỉnh của
pháp luật dưới hình thức xác lập các quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, trong quá
trình khai thác và sử dụng giá trị của đất đai, không phải lúc nào lợi ích của
Nhà nước, của cá nhân và của xã hội cũng luôn luôn đồng nhất. Vấn đề này
đã làm nảy sinh tình trạng có những chủ thể vì lợi ích của cá nhân hoặc vì
những nguyên nhân khác nhau đã làm trái, làm ngược lại hoặc không làm
theo những quy định mà nhà nước đặt ra, dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật
đất đai.
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội năm
2016, vi phạm pháp luật đất đai được định nghĩa là “hành vi trái pháp luật,
được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới quyền lợi của Nhà
nước, với vai trò là đại diện cho chủ sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất đai, cũng như các quy định về chế độ sử dụng các loại
đất”.
Hiện tượng vi phạm pháp luật đã xảy ra dưới nhiều góc độ, biểu hiện vi
phạm rất đa dạng, có thể dưới dạng vi phạm hành chính, có thể là vi phạm kỷ
luật, có thể là vi phạm dân sự và cao hơn nữa chính là dưới dạng tội phạm đất
đai.
Như vậy, vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật đất đai, do
chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm tới các quan hệ về đất đai được pháp luật đất đai bảo vệ.
Dấu hiệu của vi phạm pháp luật đất đai
Từ cách hiểu trên về vi phạm pháp luật đất đai chúng ta có thể đưa ra
những dấu hiệu cơ bản để nhận biết của một vi phạm pháp luật đất đai. Những
dấu hiệu này bao gồm:
10
Thứ nhất, có hành vi trái pháp luật đất đai:
Hành vi trái pháp luật đất đai là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng những quy định của pháp luật đất đai, xâm phạm tới những khách
thể được pháp luật đất đai bảo vệ. Để nhận biết một hành vi là trái pháp luật
cần phải căn cứ vào quy định của pháp luật và đôi khi căn cứ vào cả phong
tục tập quán của từng địa phương để xem xét hành vi nhất định. Hành vi
không thực hiện quy định của pháp luật đất đai như sử dụng đất không đúng
mục đích được giao, không áp dụng các biện pháp cải tạo, bồi bổ đất
đai…hoặc thực hiện không đúng những quy định của pháp luật đất đai: giao
đất vượt quá hạn mức, sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất trái
phép, vi phạm quy hoạch sử dụng đất đã được công bố, hủy hoại đất… Có thể
khái quát rằng hành vi trái pháp luật đất đai được thực hiện bằng hành động
hoặc không hành động, đi ngược lại những yêu cầu trong các quy định của
pháp luật, có tác hại cho các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai.
Cần phải lưu ý, việc thực hiện không đúng những quy định của pháp luật
đất đai không được coi là hành vi trái pháp luật khi có liên quan đến viêc thực
hiện mệnh lệnh khẩn cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc do những
sự kiện xảy ra ngoài ý chí và khả năng của người sử dụng đất.
Thứ hai, yếu tố lỗi:
Nếu hành vi trái pháp luật đất đai chỉ là dấu hiệu bên ngoài để xem xét
hành vi đó có vi phạm pháp luật đất đai hay không thì lỗi chính là trạng thái
tâm lý, là ý chí chủ quan của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm.
Yếu tố lỗi là một phần không thể thiếu khi xác định một hành vi vi phạm
pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật đất đai nói riêng. Lỗi thể hiện về
mặt nhận thức của người vi phạm, vì thế sẽ không bị coi là có lỗi nếu người
đó không nhận thức được hành vi của mình. Xét yếu tố lỗi một cách chính xác
sẽ xác định được hình thức xử lý phù hợp nhất đối với mỗi hành vi vi phạm.
11
Hành vi trái pháp luật là sự thực hiện trên thực tế còn lỗi thể hiện mục đích
cần đạt được của hành vi đó.
Khác với căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm
trong các loại quan hệ xã hội khác, đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai,
đa số các trường hợp chỉ cần hai dấu hiệu như trên là đủ căn cứ truy cứu trách
nhiệm pháp lý mà không cần phải có những yếu tố như có thiệt hại thực tế
xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Bởi vì, luật Đất đai
điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp trong quá trình sở hữu,
quản lý và sử dụng đất đai, trong đó Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền
đại diện cho chủ sở hữu thực hiện quyền quản lý thống nhất đối với toàn bộ
đất đai. Vì vậy, mọi hành vi làm xâm hại đến quyền và lợi ích của Nhà nước
đều là hành vi vi phạm pháp luật. Hơn nữa, đất đai là tài sản đặc biệt mang
tính tự nhiên, thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra nhiều khi không biểu hiện rõ
ràng nhưng lại có thể để lại hậu quả rất nghiêm trọng và việc khắc phục hậu
quả không chỉ thực hiện trong những khoảng thời gian cụ thể.
Ví dụ, quyết định cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất rừng đặc
dụng, đất rừng phòng hộ sang mục đích nuôi trồng thủy sản mà không căn cứ
vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt, có thể trên thực tế chưa có thiệt hại xảy ra song hành vi đó
đã xâm phạm đến quan hệ được pháp luật bảo vệ - biện pháp để thực hiện
quyền đại diện cho chủ sở hữu khi điều tiết các quan hệ đất đai.
1.1.1.2. Phân loại vi phạm pháp luật đất đai
Trên thực tế có rất nhiều loại vi phạm pháp luật đất đai, nếu dựa theo các
căn cứ khác nhau sẽ có các cách phân loại khác nhau.
Thứ nhất, căn cứ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm có thể
phân vi phạm pháp luật đất đai thành 4 nhóm gồm:
12
Vi phạm mang tính chất hành chính: là việc vi phạm những quy định về
quản lý và sử dụng đất đai như: cấp đất không đúng thẩm quyền, lấn chiếm
đất đai, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép…. mà chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Vi phạm mang tính chất dân sự: là hành vi vi phạm các quy định về quản
lý và sử dụng đất đai chủ yếu được quy định trong Bộ luật dân sự như bồi
thường thiệt hại về đất, quyền về lối đi qua bất động sản liền kề…
Vi phạm mang tính chất hình sự: là hành vi xâm phạm chế độ quản lý và
sử dụng đất theo quy định của Bộ luật hình sự.
Thứ hai, căn cứ theo chủ thể thực hiện hành vi vi phạm có thể phân loại
vi phạm pháp luật đất đai thành 3 loại:
Vi phạm của tổ chức (chủ yếu là vi phạm trong lĩnh vực lấn chiếm đất
đai, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, mua bán kinh doanh chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trái pháp luật…)
Vi phạm của cá nhân, hộ gia đình (chủ yếu là các vi phạm như lấn chiếm
đất đai, sử dụng đất sai mục đích, chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái
phép).
Vi phạm của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai (giao, cho thuê đất
trái thẩm quyền, vi phạm trong lĩnh vực đền bù, giải phóng mặt bằng…)
Thứ ba, căn cứ vào khách thể của hành vi vi phạm có thể phân loại vi
phạm pháp luật đất đai thành 2 loại:
Vi phạm xâm phạm đến quyền sở hữu Nhà nước về đất đai (giao đất trái
thẩm quyền, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái phép, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trái pháp luật…).
Vi phạm xâm phạm đến quyền lợi của người sử dụng đất (chủ yếu là lấn
chiếm đất đai).
13
Như vậy, với mỗi tiêu chí khác nhau, sẽ cho thấy các loại vi phạm pháp
luật đất đai khác nhau, và đối với từng loại vi phạm khác nhau sẽ có những
biện pháp xử lý khác nhau.
1.1.1.3. Xử lý vi phạm pháp luật đất đai
Xử lý vi phạm pháp luật đất đai là việc áp dụng các hình thức trách
nhiệm pháp lý đối với người vi phạm nhằm buộc họ phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý do hành vi và hậu quả của hành vi vi phạm gây ra. Để đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải
bị phát hiện, đình chỉ và xử lý nhanh chóng, kịp thời và triệt để bằng một chế
tài pháp lý cụ thể. Mọi hậu quả phải được khắc phục theo quy định của pháp
luật. Việc áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý khác nhau đối với người
vi phạm là tùy thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi vi phạm. Tương
ứng với bốn loại vi phạm pháp luật cụ thể sẽ có 4 loại trách nhiệm pháp lý,
tùy theo hành vi, loại chủ thể mà xử lý ở các mức khác nhau, bao gồm: trách
nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm
hình sự. Tương tự như vậy, với tính chất là một loại vi phạm pháp luật đặc
thù, vi phạm pháp luật đất đai cũng có thể bị áp dụng các loại trách nhiệm
pháp lý trên.
Thứ nhất, trách hiệm hành chính: là loại trách nhiệm áp dụng đối với các
chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính về đất đai. Các hành vi trái
quy định của pháp luật của người sử dụng đất và những chủ thể khác về chế
độ sử dụng đất, phá vỡ trật tự quản lý đất đai hoặc các vi phạm khác về đất
đai nhưng người vi phạm mới thực hiện hành vi đó lần đầu hoặc thiệt hại do
hành vi gây ra không lớn, khả năng phục hồi thiệt hại dễ dàng và đã được
khắc phục kịp thời nên chưa cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Các
hành vi vi phạm hành chính về đất đai có thể bị xử phạt bằng các biện pháp
chính như cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung như thu hồi
đất, buộc khôi phục tình trạng đất như trước khi bị thay đổi do hành vi vi
14
phạm hành chính gây ra, bởi cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm như Ủy
ban nhân dân các cấp và cơ quan thanh tra chuyên ngành về đất đai.
Thứ hai, trách nhiệm kỷ luật: là loại trách nhiệm được áp dụng đối với
các chủ thể có chức năng quản lý nhà nước về đất đai có hành vi vi phạm kỷ
luật nhà nước về đất đai như lợi dụng chức vụ quyền hạn, làm trái các quy
định của pháp luật trong giao đất, cho thuê đất…hoặc thiếu trách nhiệm trong
quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai… Người thực hiện hành vi vi
phạm kỷ luật nhà nước về đất đai có thể bị xử lý bằng các biện pháp như
khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc…bởi
người đứng đầu cơ quan, đơn vị quản lý công chức có hành vi vi phạm hoặc
cơ quan, đơn vị quản lý cấp trên trực tiếp. Loại trách nhiệm pháp lý này có
thể đi kèm với trách nhiệm pháp lý khác nếu có hành vi phạm tội, vi phạm
hành chính hay vi phạm dân sự mà đồng thời cũng có vi phạm kỷ luật nhà
nước.
Thứ ba, trách nhiệm dân sự: là loại trách nhiệm được áp dụng với các
chủ thể có vi phạm về dân sự. Các chủ thể sử dụng đất, người có trách nhiệm
quản lý đất đai hoặc những người khác có hành vi vi phạm pháp luật đất đai
mà gây ra thiệt hại cho Nhà nước hoặc chủ thể khác thì ngoài việc bị áp dụng
một trong các loại trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm
hình sự còn phải bồi thường theo mức thiệt hại thực tế cho Nhà nước hoặc
cho người bị thiệt hại. Khác với các loại trách nhiệm khác, trong trách nhiệm
dân sự các bên có thể tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại, nếu
không tự thỏa thuận được thì bên bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết.
Thứ tư, trách nhiệm hình sự: loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất
do Tòa án áp dụng đối với các chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội theo quy
định của pháp luật hình sự. Các chủ thể thực hiện hành vi tội phạm đất đai có
15
thể bị xử lý bằng các biện pháp như cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, tù
chung thân, tử hình…theo quyết định của Tòa án nhân dân.
Tóm lại, xử lý vi phạm pháp luật đất đai là nhằm ngăn ngừa và trừng
phạt những hành vi vi phạm đồng thời giáo dục ý thức chấp hành pháp luật,
bảo vệ những quan hệ, những giá trị được pháp luật ghi nhận. Đó cũng là
vấn đề có tính quyết định để duy trì trật tự, kỷ cương và nâng cao hiệu quả
trong hoạt động quản lý đất đai ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai
1.1.2.1. Khái niệm thu hồi đất
Với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà nước có quyền
giao đất, cho thuê đất và có quyền thu hồi đất. Thu hồi đất là biện pháp pháp
lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền sở hữu toàn đân đối với đất đai mà Nhà
nước là người đại diện. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để là phát sinh
quan hệ pháp luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người sử dụng thì
thu hồi đất có hậu quả pháp lý hoàn toàn ngược lại, đó là chấm dứt quan hệ
pháp luật đất đai, chấm dứt quyền sử dụng đất của người sử dụng.
Từ điển Tiếng Việt cắt nghĩa thu hồi là “thu về lại, lấy lại cái trước đó
đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác”1. Hiểu theo nghĩa này, thu
hồi đất chính là việc Nhà nước lấy lại quyền sử dụng đất đã giao cho các tổ
chức, cá nhân sử dụng, hoặc lấy lại quyền sử dụng đất hiện do người khác lấn,
chiếm đất của Nhà nước. Với cách hiểu này thì việc Nhà nước thu hồi đất chỉ
phù hợp trong các trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền
sử dụng đất; còn các trường hợp quyền sử dụng đất hình thành từ việc Nhà
nước công nhận, giao đất có thu tiền sử dụng đất, nhất là qua cơ chế đấu giá
quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất thì thuật ngữ “thu hồi
1
Trung tâm từ điển học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr 924.
16
đất” tỏ ra chưa phù hợp. Bởi lẽ, trong các trường hợp này Nhà nước chỉ đứng
ra công nhận quyền của người sử dụng đất mà thôi.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là “Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm
quy định về sử dụng đất để nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả
lại cho chủ sử dụng đất bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước
thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”2. Khái niệm này
được đưa ra dựa trên các trường hợp thu hồi đất mà chưa hẳn là một định
nghĩa rõ ràng nhưng lại chưa bao quát hết được các trường hợp thu hồi đất.
Về mặt pháp luật, thu hồi đất được định nghĩa một cách chính thức từ
Luật đất đai năm 2003, và hiện nay là Luật Đất đai năm 2013. Tại khoản 11
Điều 4 Luật đất đai năm 2013 đưa ra khái niệm: “Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà
nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm
pháp luật về đất đai”.
Qua khái niệm mà Luật đất đai năm 2013 đưa ra, có thể thấy một số đặc
trưng pháp lý của thu hồi đất như sau:
Thứ nhất, thu hồi đất là một trong những nội dung cơ bản của quản lý
Nhà nước về đất đai do cơ quan quản lý hành chính Nhà nước tiến hành theo
một trình tự, thủ tục nhất định. Thu hồi đất được thực hiện thông qua quyết
định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, mà ở đó xác
định rõ chủ thể bị thu hồi, lý do thu hồi, diện tích thu hồi, mục đích thu hồi
làm căn cứ thu hồi quyền sử dụng đất đối với người được Nhà nước trao
quyền sử dụng đất, thu hồi đất đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật về
2
Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học về Luật Lao
động, Luật Đất Đai, Tư pháp quốc tế, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, tr.142.
17
đất đai, từ đó chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai giữa Nhà nước và người sử
dụng đất.
Thứ hai, thu hồi đất là quan hệ giữa một bên là Nhà nước với một bên là
người sử dụng đất, hai chủ thể này không có sự bình đẳng với nhau về mặt
pháp lý; do đó phương pháp mệnh lệnh là phương pháp được dùng trong mọi
trường hợp thu hồi đất. Thu hồi đất là một biện pháp pháp lý quan trọng nhằm
thể hiện quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai mà nhà nước là người đại diện
chủ sở hữu. Để thực hiện nội dung này, quyền lực nhà nước được thể hiện
nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, xã hội và lập lại kỷ cương của Nhà nước
trong trường hợp vi phạm luật đất đai.
Thứ ba, đối tượng bị thu hồi đất là quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất, đất của người vi phạm pháp luật về đất đai.
Mục đích của việc thu hồi đất là nhằm tạo quỹ đất để phục vụ cho các dự án
kinh tế - xã hội và các dự án khác cũng như để lập lại kỷ cương quản lý nhà
nước trong các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai. Ngoài ra, việc Nhà nước
thu hồi đất trong các trường hợp như tổ chức kinh tế được nhà nước giao đất
không thu tiền mà giải thể, phá sản, người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất
khi không có nhu cầu sử dụng… nhằm đưa đất đai vào sử dụng có hiệu quả.
Như vậy, có thể hiểu thu hồi đất là một quyết định hành chính của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai để
phục vụ lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc xử lý hành vi vi phạm pháp
luật đất đai của người sử dụng đất.
Hiện nay, theo Luật đất đai năm 2013, việc thu hồi đất ở nước ta được
phân thành bốn nhóm cơ bản, bao gồm: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng,
an ninh; thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng; thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai và thu hồi đất do chấm dứt
việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính
mạng con người.
18
1.1.2.2. Khái niệm thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai
Để duy trì trật tự quản lý đất đai, đảm bảo đất đai được sử dụng, khai
thác có hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể thực hiện quan hệ
pháp luật đất đai, đảm bảo trật tự pháp chế trong lĩnh vực đất đai được tôn
trọng và chấp hành nghiêm chỉnh, Nhà nước đề ra các quy phạm pháp luật để
điều chỉnh những hành vi xử sự của các chủ thể trong từng mối quan hệ đất
đai cụ thể, buộc các chủ thể phải tuân theo khuôn mẫu, những quy tắc cụ thể,
tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật dưới hình thức xác lập quyền và nghĩa
vụ. Hiến pháp năm 2013 quy định “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc
gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật
bảo hộ”. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các mối quan hệ về đất đai đã
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật đất
đai hoặc thực hiện những điều pháp luật đất đai cấm, đó chính là các vi phạm
pháp luật về đất đai. Ở một số nơi đất đã được giao, cho thuê nhưng tiến độ sử
dụng còn chậm, tình trạng thoái hóa đất, đất bị bỏ hoang ngày càng tăng, việc
sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công
nhận quyền sử dụng đất cũng như những vi phạm pháp luật về đất đai khác
còn khá phổ biến; dẫn đến việc khai thác, sử dụng loại tài nguyên này vẫn
chưa thật sự hợp lý, hiệu quả còn thấp, gây lãng phí nguồn lực quan trọng
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhắm đề phòng, chống và xử lý
nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong thực hiện pháp luật về đất đai thì
ngoài việc củng cố, nâng cao hơn nữa công tác quản lý nhà nước về đất đai,
tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai thì Nhà nước có
những biện pháp chế tài, thu hồi lại đất của người sử dụng đất do vi phạm
pháp luật về đất đai.
19
Như vậy, thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai chính là một biện
pháp chế tài của Nhà nước nhằm tước đi quyền sử dụng đất của các chủ thể
sử dụng đất khi các chủ thể này thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đất đai
thông qua việc ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền sử dụng đất
đã giao trước đó.
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản
xuất chủ yếu, là một trong các yếu tố quan trọng nhất của môi trường sống, là
địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh
và quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù được dùng vào tất cả các lĩnh vực của
đời sống nhưng đất đai không phải vô tận, nên việc sử dụng đất phải đảm bảo
nguyên tắc sử dụng đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích
sử dụng đất; sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm
tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. Trong quá
trình sử dụng đất, việc sử dụng đất gắn liền với những hành vi vi phạm pháp
luật về đất đai cần phải được xử lý để đảm bảo nguyên tắc trên, đồng thời
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động thu hồi đất,
quyền lực của Nhà nước được thể hiện nhằm mục đích đảm bảo lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, thiết lập kỷ cương trong quản lý nhà nước về đất đai.
1.2.
Những vấn đề lý luận về pháp luật thu hồi đất do vi phạm pháp
luật đất đai ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai
Pháp luật được xem là một trong những phương thức hiệu quả để thực
hiện chức năng quản lý nhà nước. Hệ thông pháp luật mỗi quốc gia được chia
thành những bộ phận cấu thành khác nhau để điểu chỉnh các nhòm quan hệ xã
hội riêng biệt, nhưng tác động qua lại với nhau, đảm bảo các quan hệ này tồn
tại, phát triển đúng quy luật. Trong lĩnh vực đất đai, cùng với quá trình thu hồi
đất nói chung và quá trình thu hồi đất do vi phạm pháp luật nói riêng là hàng
20
loạt các quy phạm pháp luật được ban hành quy định nguyên tắc, điều kiện,
nội dung, phương thức, trình tự, thủ tục cũng như việc giải quyết các khiếu
nại tố cáo về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai.
Căn cứ vào lý luận về pháp luật nói chung có thể hiểu: pháp luật về thu
hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai, nhằm phát huy tối đa hiệu quả
sử dụng đất, đồng thời giải quyết hài hòa lợi ích hợp pháp của người có đất
bị thu hồi với lợi ích của Nhà nước. Đây là một chế định quan trọng của pháp
luật đất đai Việt Nam và là đối tượng nghiên cứu của khoa học pháp lý với
tính chất và nội dung phức tạp; đồng thời cũng là vấn đề có ý nghĩa thực tế,
ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực hiện công tác thu hồi đất, đảm bảo cho
nguồn tài nguyên đất đai được sử dụng hiệu quả, tiết kiệm.
Về cơ bản, pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai có một
số đặc trưng cơ bản. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật về thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai chịu sự
ảnh hưởng và chi phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai. Nhà nước với
vai trò là đại diện chủ sở hữu có quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai cho các
mục tiêu kinh tế, xã hội. Các chủ thể sau khi được phân bổ đất để sử dụng có
nghĩa vụ thực hiện các quy định về việc sử dụng đất, nếu các chủ thể này
không thực hiện thì Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật đã ban hành
tiến hành thu hồi lại đất, bảo đảm thực hiện tốt vai trò đại diện chủ sở hữu.
Thứ hai, cơ sở để thu hồi đất trong pháp luật về thu hồi đất do vi phạm
pháp luật đất đai dựa vào hành vi vi phạm của chủ thể sử dụng đất trên cơ sở
các quy định của pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất, về chức năng của Nhà nước trong quản lý đất đai. Các chủ thể sử dụng
đất có quyền được sử dụng đất theo ý chí của mình, tuy nhiên, vẫn phải nằm
trong giới hạn pháp luật cho phép; một khi vượt qua khỏi những giới hạn này,