Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN NGỌC CHUNG

LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI -2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN NGỌC CHUNG

LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vƣơng Thanh Thúy



HÀ NỘI -2017


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

CTTC

Công ty tài chính

HĐVTS

Hợp đồng vay tài sản

LSCB

Lãi suất cơ bản

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TNHS

Trách nhiệm hình sự


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài............................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................1
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..................................2
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ............................................................3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn .....................................................3
7. Kết cấu của Luận văn ...........................................................................................4
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT TRONG
HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN ....................................................................................5
1.1. Khái quát chung về Hợp đồng vay tài sản .......................................................5
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng vay tài sản .....................................................................5
1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng vay tài sản ................................................................8
1.2. Khái quát chung về lãi suất trong Hợp đồng vay tài sản .............................11
1.2.1. Khái niệm lãi suất ..........................................................................................11
1.2.2. Đặc điểm của lãi suất .....................................................................................14
1.2.3. Phân loại lãi suất............................................................................................16
1.2.3.1. Phân loại lãi suất theo ý chí của các chủ thể có liên quan ..........................16
1.2.3.2. Phân loại theo tình trạng pháp lý của việc áp dụng lãi suất .......................17
1.2.3.3. Phân loại dưới góc độ lãi suất tín dụng Ngân hàng ....................................17

1.2.4. Vai trò của lãi suất .........................................................................................19
1.2.5. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về lãi suất
trong Hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam ..................................................................20
1.2.5.1. Thời kỳ phong kiến .......................................................................................20
1.2.5.2. Thời kỳ Pháp thuộc ......................................................................................21
1.2.5.3. Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay .................................22
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................25
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN ...............................................26
2.1. Lãi suất trong trƣờng hợp các bên có thỏa thuận .........................................26
2.1.1. Lãi suất trong trường hợp trả đúng hạn .......................................................26


2.1.2. Lãi suất trong trường hợp quá hạn ...............................................................34
2.1.2.1. Lãi trên nợ gốc trong hạn ............................................................................36
2.1.2.2. Lãi trên nợ gốc quá hạn ...............................................................................37
2.1.2.3. Lãi đối với tiền lãi trong hạn chậm trả ........................................................40
2.1.2.4. Lãi chậm trả khác.........................................................................................41
2.2. Lãi suất trong trƣờng hợp các bên không có thỏa thuận .............................43
2.2.1. Lãi suất trong trường hợp trả đúng hạn .......................................................43
2.2.2. Lãi suất trong trường hợp quá hạn ...............................................................45
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................49
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ......................................................................................................................50
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về lãi suất trong Hợp đồng vay tài sản .........50
3.1.1. Thỏa thuận lãi suất bằng lời nói rất phổ biến, dễ dẫn tới bội ước và gây khó
khăn cho quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án ...........................................50
3.1.2. Lãi suất trong trường hợp đối tượng của Hợp đồng vay tài sản là vàng,
ngoại tệ còn chưa rõ ràng ........................................................................................51

3.1.3. Hiện tượng vay lãi suất cao dưới vỏ bọc của “lãi suất 0%” trong các Hợp
đồng vay trả góp khiến người vay phải gánh chịu nghĩa vụ nặng nề ...................55
3.1.4. Hoạt động cho vay tín chấp với lãi suất cao của các Tổ chức tín dụng ngày
càng phổ biến, rủi ro thuộc về cả hai bên ...............................................................56
3.1.5. Lãi suất cao trong Hợp đồng vay tài sản tại các cửa hàng cầm đồ, khó xử lý
...................................................................................................................................58
3.1.6. Điều khoản lãi suất trong các Hợp đồng vay tín dụng rất phức tạp, gánh
nặng nghĩa vụ thuộc về bên vay ..............................................................................61
3.1.7. Khoảng trống pháp luật trong chế tài xử lý hành vi cho vay với lãi suất cao
...................................................................................................................................62
3.1.8. Lãi suất trong trường hợp Hợp đồng vay tài sản giả tạo chưa có cơ chế giải
quyết thống nhất .......................................................................................................64
3.1.9. Hiện tượng thỏa thuận lại lãi suất trong quá trình thực hiện Hợp đồng vay
tài sản rất phổ biến, phức tạp và gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp của
Tòa án .......................................................................................................................65
3.1.10. Thỏa thuận nhập lãi vào nợ gốc rất phổ biến.............................................69


3.1.11. Nhiều trường hợp Tòa án không can thiệp vào thỏa thuận lãi suất trái
pháp luật ...................................................................................................................70
3.1.12. Lãi suất trong hui, họ, biêu, phường đôi khi là cho vay nặng lãi..............71
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các vấn đề pháp lý liên quan đến lãi suất trong Hợp
đồng vay tài sản .......................................................................................................72
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................1


1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngay từ thời xa xưa, người dân đã biết sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình
đem cho vay để lấy lãi. Để điều chỉnh quan hệ này, chế định hợp đồng vay tài sản
(HĐVTS) đã xuất hiện và tồn tại từ rất lâu trong đời sống xã hội và là một chế định
quan trọng của ngành luật dân sự, điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn giữa các chủ thể
pháp luật dân sự theo nguyên tắc có hoàn trả. Hiện nay, chế định HĐVTS được ghi
nhận khá cụ thể, chi tiết tại Mục 4 Chương XVI Phần thứ 3, Bộ luật dân sự (BLDS)
2015.
Về mặt pháp lý, BLDS 2015 đã có rất nhiều quy định mới so với BLDS 2005
về lãi suất trần, tính lãi đối với lãi chậm trả, lãi trên nợ gốc quá hạn và lãi chậm trả
khác… Trong đó, có quy định là sự tiến bộ hơn, nhưng có quy định vẫn “dậm chân
tại chỗ”. Đặc biệt, nhiều quy định của pháp luật về vấn đề này còn rất chung chung
và chưa rõ ràng, chẳng hạn như ngoại lệ áp dụng mức lãi suất trần 20%/năm là
những trường hợp nào?
Hạn chế đó của pháp luật dẫn đến thực tiễn một số đối tượng lợi dụng những
quy định còn thiếu chặt chẽ của pháp luật để cho vay nặng lãi, làm biến tướng đi
mục đích thiết thực của lãi suất. Đặc biệt, thực tiễn nảy sinh các tình huống rất khó
xử lý như: Vay trả góp lãi suất cao sau vỏ bọc lãi suất 0%; Lãi suất quá cao trong
các hợp đồng vay tiêu dùng, vay tại các tiệm cầm đồ; Hiện tượng quy định vô số
các loại phí trong hợp đồng tính dụng (HĐTD) thay cho lãi, lãi chồng lên lãi trong
các HĐTD; Hiện tượng bội ước trong thực hiện HĐVTS ngày càng phổ biến; Hiện
tượng cho vay nặng lãi và lừa đảo trong giao dịch hụi, họ; Hiện tượng Tòa án lúng
túng và áp dụng pháp luật không thống nhất khi giải quyết các tranh chấp về lãi suất
trong HĐVTS…
Do đó, việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về lãi suất trong
HĐVTS, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về lãi suất trong HĐVTS và đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện cả về pháp lý và thực tiễn là điều vô cùng cấp thiết.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn và thực hiện đề tài: “Lãi suất trong hợp đồng vay tài
sản theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm Luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lãi suất trong HĐVTS là một vấn đề quan trọng trong chế định HĐVTS.
Tuy nhiên, từ trước tới nay chỉ có một số ít những công trình nghiên cứu chuyên sâu


2

về đề tài này như: “Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản theo pháp luật dân sự Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Tiến Thành, Đại học quốc gia Hà
Nội – Khoa Luật năm 2011; “Lãi suất trong hợp đồng vay tiền và tác động của nó
tới nền kinh tế hiện nay”, cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học cấp trường của
Dương Thu Phương, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2009.
Rộng hơn, khi nhắc tới HĐVTS, các nhà nghiên cứu thường chủ yếu nghiên
cứu một cách bao quát về cả chế định HĐVTS như: “Hợp đồng vay tài sản – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Hữu Chính,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; “Hợp đồng vay tài sản trong luật dân sự Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Bùi Kim Hiếu, Trường Đại học Luât Hà Nội,
2007; “Hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội của Nguyễn Hương Lan,
2010…
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên được nghiên cứu ở thời
điểm trước khi Quốc hội thông qua BLDS năm 2015 nên chủ yếu đề cập tới việc
đánh giá thực trạng và hoàn thiện các quy định về HĐVTS, lãi, lãi suất trong
HĐVTS theo quy định của BLDS năm 1995 và 2005. Các nội dung mới của BLDS
2015, những thực thiễn sâu sắc trong áp dụng pháp luật về lãi suất trong HĐVTS,
những kiến nghị sát thực nhất ở thời điểm hiện tại về lãi suất trong HĐVTS như đề
cập trong phần Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ở trên thì chưa có công
trình nào được công bố. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu toàn diện và trọng
tâm về lãi suất trong HĐVTS cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn và mang tính cấp
thiết cao.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận cơ bản về lãi suất trong
HĐVTS; Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về lãi suất trong HĐVTS
và Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về lãi suất trong HĐVTS trong đời
sống xã hội dưới nhiều góc độ và biểu hiện điển hình.
Về phạm vi nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về lãi suất trong HĐVTS, đặc biệt là hợp
đồng vay tài sản có đối tượng là tiền, nhất là hợp đồng tín dụng mà có ý nghĩa đối
với việc đánh giá các quy định của pháp luật về lãi suất trong HĐVTS;
- Quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về lãi suất trong HĐVTS (BLDS


3

2015): Các quy định về lãi suất trong các ngành luật khác như Thương mại, Ngân
hàng, Tín dụng… hay các quy định cũ trong pháp luật dân sự chỉ được sử dụng
tham chiếu để làm rõ hơn, sâu sắc hơn quy định về lãi suất trong HĐVTS của
BLDS 2015;
- Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về lãi suất trong HĐVTS có đối
tượng là tiền, nhất là hợp đồng tín dụng trong thời gian qua và không nhất thiết là
thực tiễn thi hành BLDS 2015 bởi các điều khoản về lãi suất trong HĐVTS của
BLDS 2015 mới có hiệu lực chưa lâu, thực tiễn áp dụng chưa thể sâu sắc và tiêu
biểu như thực tiễn của các giai đoạn trước trong một số vấn đề.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Nhận thức lại và làm sáng tỏ thêm lý luận và thưc tiễn
về lãi suất trong HĐVTS; trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện cần thiết,
sát thực nhất cả về pháp lý và thực tiễn về lãi suất trong HĐVTS.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích như trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan tới lãi suất trong HĐVTS;

- Phân tích, so sánh quy định của pháp luật về lãi suất trong HĐVTS, đánh
giá mức độ hoàn thiện của các quy định về lãi suất trong HĐVTS của BLDS 2015;
- Nêu và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về lãi suất trong HĐVTS,
từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về
lãi suất trong HĐVTS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả
còn sử dụng và kết hợp một cách hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp chứng
minh, phương pháp so sánh, phương pháp suy diễn logic, phương pháp hệ thống…
để lập luận cho những luận điểm, luận cứ và luận chứng được trình bày.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Ý nghĩa về mặt khoa học:
- Luận văn là công trình khoa học giúp người đọc nhận thức lại, nhận thức
sâu sắc hơn và nhận thức toàn diện về các vấn đề lý luận liên quan tới lãi suất trong


4

HĐVTS, không dàn trải về lãi suất nói chung, không đi sâu về HĐVTS mà lược bỏ
những thứ không cần thiết và bổ sung những điểm lý luận còn thiếu;
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên phân tích, đánh giá toàn diện
các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam mà trọng tâm là BLDS 2015 mới có
hiệu lực về lãi suất trong HĐVTS.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Luận văn giúp người đọc nhận thức đúng đắn về các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về lãi suất trong HĐVTS để từ đó vận dụng vào thực hiện các
giao dịch vay nợ trong cuộc sống;
- Qua đánh giá thực tiễn, Luận văn đưa ra được những kiến nghị sâu sắc, sát

thực trong hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về lãi suất trong
HĐVTS. Các cơ quan lập pháp, Ngân hàng nhà nước (NHNN), các Ngân hàng
thương mại, Công ty tài chính (CTTC), cửa hàng cầm đồ, Tòa án, doanh nghiệp và
chính những người dân trong xã hội đều “thấy mình” trong thực tiễn và kiến nghị
này.
- Luận văn là công trình nghiên cứu công phu, bài bản và nghiêm túc, có giá
trị tham khảo trong thực tiễn giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Trang bìa chính, Trang bìa phụ, Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Bảng từ
viết tắt, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm
03 Chương nội dung:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về lãi suất trong Hợp đồng vay tài sản
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về lãi suất trong Hợp đồng
vay tài sản
Chương 3: Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về lãi suất trong Hợp đồng
vay tài sản và kiến nghị hoàn thiện.


5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN
1.1. Khái quát chung về Hợp đồng vay tài sản
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng vay tài sản
Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hóa. Do
vậy, mỗi chủ thể phải tìm kiếm nguồn vốn trong xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu của
mình và tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào
nhu cầu về vốn cũng được đáp ứng đầy đủ. Sự không ăn khớp giữa nguồn vốn và sử
dụng vốn của mỗi chủ thể trong xã hội dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Vấn

đề đặt ra lúc này là nhu cầu giao lưu vốn xuất hiện dưới góc độ kinh tế. Từ đó, xuất
hiện một hiện tượng gọi là hiện tượng “cho vay”.
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội
loài người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Về chủ thể, việc cho
vay bao giờ cũng có ít nhất hai bên chủ thể tham gia, bao gồm bên vay và bên cho
vay. Bên cho vay là người có khoản tài sản chưa dùng đến, muốn cho người khác sử
dụng để thoả mãn lợi ích của mình, có thể là lợi ích vất chất hoặc tinh thần. Còn bên
vay chính là người đang cần sử dụng số tài sản đó để thoả mãn nhu cầu về kinh
doanh hoặc tiêu dùng. Sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi
ứng trước và hành vi hoàn trả một số tài sản nhất định. Hành vi ứng trước tài sản do
người cho vay thực hiện, còn hành vi hoàn trả lại được người vay thực hiện sau đó
một khoảng thời gian theo sự thoả thuận giữa các bên.
Dưới góc độ pháp lý, sự xuất hiện của quan hệ vay tài sản kéo theo sự ra đời
của chế định “Hợp đồng vay tài sản” - đây là phương tiện pháp lý giúp các chủ thể
thỏa mãn nhu cầu về vốn của mình. Nó là công cụ mà nhờ đó những cam kết vay tài
sản được ghi nhận, thực hiện và tôn trọng.
Khi xem xét quan hệ vay tài sản dưới góc độ của ngành khoa học pháp lý
dân sự, khái niệm HĐVTS được nhìn ở nhiều phương diện khác nhau: (i) Theo
phương diện khách quan, HĐVTS được hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ vay tài
sản phát sinh giữa các chủ thể với nhau trong giao dịch dân sự. (ii) Theo phương
diện chủ quan, HĐVTS là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý
chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và


6

nghĩa vụ dân sự nhất định.
Giao dịch vay tài sản là một trong những giao dịch phổ biến và có lịch sử
hình thành lâu đời, tồn tại, phát triển song song với sự tồn tại và phát triển của các

quan hệ kinh tế, xã hội trong xã hội loài người. Ngay từ thời La Mã cổ đại, HĐVTS
đã rất thông dụng, nó được gọi là hợp đồng vay nợ, theo đó: “Hợp đồng vay nợ là
sự thỏa thuận của hai bên, theo đó bên cho vay chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho bên vay (tiền, lương thực, thực phẩm, rượu, bơ, sữa…). Bên vay có
nghĩa vụ trả vật cùng loại hoặc số tiền đã vay khi hết hạn của hợp đồng”1. Có thể
thấy, khái niệm HĐVTS đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử lập pháp và nó vẫn
còn giữ nguyên giá trị cho tới ngày nay bởi so với khái niệm về HĐVTS của các
nhà làm luật hiện đại cũng không có quá nhiều sự khác biệt so với khái niệm gốc.
Chẳng hạn:
Điều 1892 BLDS của Pháp quy định: “HĐVTS là hợp đồng theo đó một bên
giao cho bên kia một số lượng vật sẽ bị tiêu hao khi sử dụng với điều kiện là bên kia
phải trả lại vật cùng số lượng và chất lượng”. Định nghĩa này đã chỉ rõ đối tượng
của HĐVTS là vật tiêu hao khi sử dụng. Tuy nhiên, BLDS Pháp không trực tiếp
quy định yếu tố thỏa thuận trong định nghĩa về HĐVTS, mà sự thỏa thuận đó được
các nhà làm luật viện dẫn tại điều luật chung về hợp đồng - tại Điều 1101 BLDS
Pháp quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận, theo đó một bên hoặc nhiều người cam
kết với một hay nhiều người khác để chuyên giao một vật, làm hoặc không làm một
việc nào đó”.
Điều 587 BLDS Nhật Bản quy định: “HĐVTS có hiệu lực khi một bên nhận
từ bên kia một khoản tiền hoặc những vật với sự ngầm hiểu rằng người đó sẽ trả lại
tiền hay vật có thể loại, số lượng và chất lượng đúng như vậy”. Như vậy, cách tiếp
cận HĐVTS của BLDS Nhật Bản cũng giống như cách tiếp cận trong BLDS Pháp.
Tuy nhiên, BLDS Nhật Bản lại chỉ rõ đối tượng của HĐVTS là tiền hoặc vật chứ
không quy định chung là một số lượng vật bị tiêu hao như trong BLDS Pháp.
Khái niệm HĐVTS đã được pháp luật nước ta ghi nhận qua các thời kỳ,
chẳng hạn như trong Bộ Dân Luật Sài Gòn năm 1972, tại Điều 1173 đã đưa ra định
nghĩa khế ước vay nợ như sau: “Khế ước vay nợ là khế ước trong đó, một bên
đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ bị tiêu thất do sự tiêu thụ, người vay khi
tới hạn sẽ phải hoàn trả đúng số lượng, cùng loại, cùng hạng như đồ vật đã vay,
1


Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật La Mã, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 129.


7

mặc dầu đồ vật ấy có tăng giá hay hụt giá”. Tuy nhiện, các nhà lập pháp chưa đề
cập yếu tố thỏa thuận của các bên khi thiết lập khế ước vay nợ.
Đến thời kỳ đổi mới, với sự ra đời của Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991,
khái niệm hợp đồng dân sự đã được ghi nhận ngay tại Điều 1 của Pháp lệnh: “Hợp
đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài sản;
làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một
hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”. Mặc dù định nghĩa đó
chỉ đưa ra giới hạn về mục đích của hợp đồng và mang nặng tính chất liệt kê, nhưng
Pháp lệnh hợp đồng dân sự đã ghi nhận một vấn đề mang tính bản chất của bất kỳ
một hợp đồng dân sự nào, đó chính là “sự thỏa thuận”.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, khái niệm về HĐVTS được quy định
tại Điều 463 của BLDS 2015, Luật số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015
:“HĐVTS là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho
bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại
theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định.”.
Qua những phân tích trên, có thể nhận thấy HĐVTS là loại hợp đồng có mục
đích chuyển giao quyền sở hữu. Đây là dấu hiệu để phân biệt HĐVTS với các hợp
đồng dân sự thông dụng khác như: hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng thuê tài sản vì
trong hai hợp đồng này, người mượn và người thuê tài sản không trở thành chủ sở
hữu tài sản mượn và thuê, mà chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đã mượn,
thuê trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Khi hết hạn, bên mượn,
bên thuê phải trả đúng tài sản đã mượn, thuê cho bên cho mượn, bên cho thuê tài

sản. Còn trong HĐVTS, "bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm
nhận tài sản đó" (Điều 464 BLDS năm 2015). Bên vay có quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản vay. Hết thời hạn vay, bên vay chỉ cần trả cho bên cho vay
tài sản “cùng loại” theo đúng số lượng, chất lượng, mà không phải trả lại đúng tài
sản đã vay. Như vậy, khi giao kết HĐVTS thì bên cho vay chuyển giao tài sản,
đồng thời chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho bên vay. Tuy nhiên, bên vay chỉ
trở thành chủ sở hữu đối với tài sản vay khi nhận được tài sản vay đó với sự thống
nhất với bên cho vay về một số điều kiện vay. Điều kiện vay có thể là lãi suất, là


8

việc sử dụng tài sản vay đúng mục đích,..và đặc biệt là hoàn trả tài sản vay sau một
thời gian nhất định.
Chung quy lại, dù được thể hiện dưới những cách thức, từ ngữ khác nhau,
nhưng xét cho cùng, khái niệm HĐVTS của Việt Nam cũng không khác nhiều so
với khái niệm HĐVTS trong Luật La Mã cổ đại, cũng như trong pháp luật của một
số nước trên thế giới. Tất cả đều coi “sự thỏa thuận” là vấn đề cốt lõi tạo nên nội
dung HĐVTS. Đây là một trong những biểu hiện sinh động nhất của nguyên tắc
“Tự do ý chí” được ghi nhận tại Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015. Tuy nhiên, sự thỏa
thuận ấy không được xâm hại tới lợi ích chung, lợi ích của người khác (nguyên tắc
bảo vệ lợi ích chung, lợi ích của người khác quy định tại Khoản 4 Điều 3 BLDS
2015). Ngoài ra, sự thỏa thuận của các bên trong HĐVTS cũng không được trái đạo
đức xã hội (mặc dù đây không còn là một nguyên tắc trong BLDS 2015 nhưng nó là
chính sách của Nhà nước đối với các quan hệ dân sự nói chung, HĐVTS nói riêng –
Điều 7 BLDS 2015) nên pháp luật không thể chấp nhận thỏa thuận lãi nặng có tính
chất bóc lột, lãi mẹ đẻ lãi con… trong HĐVTS. Đây chính là kim chỉ nam để tác giả
phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật về lãi suất trong HĐVTS ở các
phần sau của Luận văn này.
1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng vay tài sản

- Thứ nhất, HĐVTS là một hợp đồng ưng thuận hoặc hợp đồng thực tế
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện cho rằng: "HĐVTS phát sinh hiệu lực kể từ thời
điểm mà ý chí của các bên giao kết được ghi nhận theo hình thức do luật quy định
(bằng lời nói hoặc bằng văn bản), nếu không có thoả thuận khác hoặc pháp luật
không có quy định khác". Và "vay tài sản trong Luật dân sự Việt Nam không phải là
một hợp đồng thực tế. Do đó người cho vay có nghĩa vụ giao tài sản cho người vay
và người vay có nghĩa vụ nhận tài sản vay dù Luật không nói rõ"2. Tiến sĩ Nguyễn
Ngọc Điện đã khẳng định HĐVTS là một hợp đồng ưng thuận và lý giải rằng quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi thoả thuận giao kết hợp đồng
xong. Từ thời điểm này, nếu bên cho vay không thực hiện nghĩa vụ giao tài sản thì
bên vay có quyền kiện dưới góc độ là vi phạm nghĩa vụ được cam kết trong
HĐVTS. Do vậy, HĐVTS là hợp đồng ưng thuận.

2

Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP.
Hồ Chí Minh, tr. 235.


9

Tuy nhiên, việc coi HĐVTS là hợp đồng thực tế lại được thừa nhận từ lâu
trong pháp luật La Mã và pháp luật dân sự của Pháp, Nhật Bản, Thái Lan… Trong
luật của Pháp, hợp đồng được giao kết bằng cách chuyển giao tài sản từ người cho
vay sang người vay. Cho đến khi chuyển giao tài sản, các thoả thuận đạt được giữa
hai bên về việc cho vay chỉ mang tính chất của một “lời hứa” cho vay.
Theo tác giả, HĐVTS có thể chia làm hai trường hợp:
+ Hợp đồng vay là hợp đồng thực tế: đây là những trường hợp phát sinh hiệu
lực hợp đồng khi có sự kiện chuyển giao tài sản vay. Hình thức của hợp đồng
thường bằng lời nói: bên cho vay chuyển giao tài sản vay ngay sau khi bên vay hỏi

vay – thực tế rất phổ biến trường hợp này với các khoản vay nhỏ lẻ…;
+ Hợp đồng vay là hợp đồng ưng thuận: thường là các hợp đồng vay giữa
ngân hàng với khách hàng (hợp đồng tín dụng). Trong nền kinh tế thị trường, cam
kết cho vay của bên cho vay đôi khi có ý nghĩa sống còn đối với bên vay vì họ đã
xây dựng và thực hiện nhiều kế hoạch trên cơ sở tin tưởng vào nguồn vốn có từ cam
kết cho vay của bên cho vay đối với mình. Nếu bên cho vay không thực hiện cam
kết cho vay thì có thể sẽ dẫn tới những thiệt hại lớn, thậm chí là rất lớn cho bên vay
mà hoàn toàn có thể chứng minh được thiệt hại đó. Chính vì vậy, cam kết cho vay
cần được thực hiện nghiêm chỉnh, tránh tình trạng “hứa” mà không làm phát sinh
HĐVTS. Vì vậy, HĐVTS đối với các khoản vay lớn, có tính chất chuyên nghiệp là
hợp đồng ưng thuận.
Ngoài ra, Hợp đồng vay tài sản còn có thể tồn tại dưới dạng hợp đồng ưng
thuận mà thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng không phải tại thời điểm giao
kết hợp đồng mà tại thời điểm các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Ví dụ A và B
giao kết hợp đồng vay tài sản là tiền vào ngày 15/05/2017 nhưng trong hợp đồng lại
có điều khoản là hợp đồng này phát sinh hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký hợp
đồng. Thậm chí có trường hợp các bên còn thỏa thuận hợp đồng vay tài sản phát
sinh hiệu lực kể từ ngày bên cho vay nhận được tài sản từ bên thứ ba để mang cho
vay. Ví dụ ông A giao kết hợp đồng cho ông B vay tiền nhưng thời điểm hợp đồng
này phát sinh hiệu lực là thời điểm ông A nhận được tiền của con trai ông A (bên
thứ ba) từ nước ngoài gửi về, chứ không phải tại thời điểm giao kết hợp đồng vay.
- Thứ hai, HĐVTS là một hợp đồng đơn vụ hoặc song vụ
Có ý kiến cho rằng, nếu dựa vào mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của
bên cho vay và bên vay thì hợp đồng vay là hợp đồng song vụ, quyền của bên vay


10

tương ứng với nghĩa vụ của bên cho vay và ngược lại. Cũng có ý kiến cho rằng, hợp
đồng vay là hợp đồng đơn vụ vì trong HĐVTS nghĩa vụ của các bên phát sinh

không cùng lúc mà nghĩa vụ của bên vay phát sinh sau một khoảng thời gian. Nhìn
chung, việc xác định HĐVTS là đơn vụ hay song vụ phụ thuộc vào việc xác định
HĐVTS là hợp đồng ưng thuận hay hợp đồng thực tế.
Nếu HĐVTS là hợp đồng thực tế thì thời điểm có hiệu lực của HĐVTS được
xác định là thời điểm bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay. Từ thời điểm
này trở đi, người cho vay có quyền yêu cầu người vay sử dụng tài sản vay đúng mục
đích (nếu có thoả thuận), có quyền yêu cầu người vay hoàn trả lại tài sản đã vay
cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng và một khoản lãi (nếu có) khi đến hạn,
còn người vay không có quyền gì đối với người cho vay. Chính vì vậy, HĐVTS
được xem là hợp đồng đơn vụ.
Nếu HĐVTS là hợp đồng ưng thuận thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
là thời điểm các bên thỏa thuận xong về các điều khoản cơ bản của hợp đồng. Theo
đó, bên vay có quyền yêu cầu bên cho vay chuyển giao tài sản vay cho mình theo
đúng chất lượng, số lượng và thời gian, địa điểm như đã thỏa thuận, nếu không thực
hiện đúng, bên cho vay hoàn toàn có thể bị khởi kiện. Ngược lại, quyền yêu cầu bên
vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho mình của bên cho vay là quyền đương nhiên
không phải cãi. Do vậy, khi HĐVTS là hợp đồng ưng thuận thì cả bên vay và bên
cho vay đều có quyền và nghĩa vụ, đặc biệt là quyền của bên vay lại là nghĩa vụ của
bên cho vay và ngược lại. Vì thế, HĐVTS là hợp đồng song vụ. Tác giả đồng ý với
quan điểm này vì tác giả cho rằng HĐVTS là hợp đồng ưng thuận.
- Thứ ba, HĐVTS là hợp đồng có tính đền bù hoặc không có tính đền bù
HĐVTS là hợp đồng có tính đền bù khi mà một bên sau khi đã thực hiện cho
bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng. HĐVTS có tính đền bù được
áp dụng bắt buộc trong hoạt động tín dụng. Các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay
tiền đều có quy định lãi suất. Hoặc trong trường hợp bên này cho bên kia vay và có
thỏa thuận là vay có lãi thì tới thời hạn trả nợ, bên vay không những phải trả nợ gốc
mà còn phải trả số tiền lãi mà các bên đã thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy
định của pháp luật.
HĐVTS là hợp đồng không có tính đền bù là trường hợp cho vay không có
lãi. Khi đến hạn trả nợ, bên vay chỉ có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ một lượng tài sản

cùng loại, cùng giá trị cho bên cho vay (nợ gốc), mà không trả thêm bất kỳ một


11

khoảng lợi ích vật chất nào khác. Loại hợp đồng này có tính chất tương trợ, giúp đỡ
lẫn nhau giữa các chủ thể nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời trong đời sống
hoặc giúp đỡ nhau phát triển sản xuất kinh doanh là chính, chủ yếu được giao kết
giữa các chủ thể có mối quan hệ quen biết lẫn nhau.
Qua các phân tích trên có thể thấy, hợp đồng vay là hợp đồng duy nhất trong
tất cả các hợp đồng đang được ghi nhận tại BLDS năm 2015 mang đầy đủ các đặc
điểm vừa đơn vụ hoặc song vụ; vừa có thể là hợp đồng ưng thuận hoặc hợp đồng
thực tế; vừa có trường hợp mang tính chất có đền bù hoặc không có đền bù. Trong
khi đó, các hợp đồng khác không mang tính chất hỗn hợp như vậy: Ví dụ như hợp
đồng mua bán luôn mang tính chất có đền bù và song vụ; hợp đồng tặng cho luôn
mang tính chất không có đền bù…
1.2. Khái quát chung về lãi suất trong Hợp đồng vay tài sản
1.2.1. Khái niệm lãi suất
Trong hầu hết các HĐVTS, người vay thường phải trả thêm một phần giá trị
ngoài phần vốn gốc ban đầu. Phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được
gọi là lãi. Lãi phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền
nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ, nói cách khác, nền
kinh tế thị trường luôn đi kèm với những mặt trái mà điển hình là lạm phát. Lạm
phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả các hàng hóa tăng lên so với mức giá
thời điểm trước (vật giá leo thang) khiến cho đồng tiền bị trượt giá dần, 1 đồng của
ngày hôm nay sẽ có giá trị thực tế thấp hơn 1 đồng của ngày hôm sau (mua được ít
hàng hóa hơn). Khi người cho vay chuyển quyền sử dụng tiền cho người khác có
nghĩa là họ đã kìm hãm việc sử dụng tiền tệ hiện có của mình với hi vọng có được
lượng tiền lớn hơn trong tương lai. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không
có phần lớn lên thêm đó hoặc phần tăng thêm không đủ đề bù đắp cho sự trượt giá

của tiền tệ theo thời gian. Vì vậy, lãi được coi là một trong những vấn đề được quan
tâm nhất của các bên trong các HĐVTS và được pháp luật quy định cụ thể.
Khi xây dựng các quy định của BLDS nói chung và nhóm các quy định về
HĐVTS nói riêng, BLDS 2015 chỉ quy định về việc trả “lãi” của bên vay cho bên
cho vay khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định mà không đưa ra khái
niệm về “lãi”. Có lẽ, các nhà làm luật cho rằng “lãi” là một trong những thuật ngữ
thông dụng, dễ hiểu nên đã sử dụng trong bản “Hiến pháp luật tư” (văn bản có giá
trị pháp lý chung nhất, cao nhất điều chỉnh các mối quan hệ có tính chất tư) mà


12

không cần sự giải thích. Tuy nhiên, không khó để tìm ra khái niệm lãi trong khoa
học nói chung và khoa học pháp lý nói riêng và nội hàm của khái niệm lãi dưới các
góc độ khác nhau cũng không khác nhau nhiều về bản chất. Cụ thể:
Trong Từ điển Tiếng Việt thông dụng do tác giả Phạm Lê Liên chủ biên mới
được Nhà xuất bản Hồng Đức cho xuất bản năm 2016 đã giải thích: “Lãi là thu
vượt chi sau một quá trình kinh doanh hay sản suất nào đó”. Như vậy, tác giả Phạm
Lê Liên đã tiếp cận lãi dưới góc độ hoạt động kinh doanh mà không phải dưới góc
độ hợp đồng vay tài sản. Ví dụ: Mua một sản phẩm 1 triệu, bán lại được 1,5 triệu thì
số tiền 500 000 được coi là tiền lãi.
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý: “Lãi là phần giá trị lớn
hơn, thu được do tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ so với giá thành và chi phí
tiêu thụ sản phẩm”. Lãi ở đây tương tự cách hiểu trong Từ điển tiếng Việt đều là lãi
kinh doanh chứ không phải lãi vay.
Còn theo quy định tại Điều 2 Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu,
trả lãi của NHNN Việt Nam và các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số
652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc NHNN thì: “Lãi là khoản tiền
bên vay, huy động vốn hoăc bên thuê trả cho bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền
hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi

được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất”. Nội hàm khái
niệm lãi ở đây được giải thích cụ thể hơn, không chỉ bao gồm vốn bằng tiền mà còn
có thể là vốn bằng tài sản, nhưng nó vẫn là lãi kinh doanh nói chung và khái niệm
này cũng đưa ra căn cứ tính lãi là số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất. Định
nghĩa này cũng nêu ra các chủ thể trong quan hệ này có thể là bên vay, bên thuê tài
sản và bên cho vay, bên cho thuê tài sản.
Nội hàm về lãi dù dưới góc độ nào cũng thể hiện là một khoản lợi ích vật
chất tăng lên so với số vốn bỏ ra trong sản xuất, kinh doanh, cho thuê, cho vay…
Dựa vào phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả xin đưa ra định nghĩa về lãi
trong HĐVTS như sau:“Lãi trong HĐVTS là một khoản tiền hoặc vật, ngoài vốn
gốc, mà bên vay phải trả cho bên cho vay khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật
có quy định”. Để xác định lãi trong HĐVTS, thông thường các bên phải thông qua
một biến số bắc cầu có nội hàm phức tạp hơn khái niệm “lãi”, đó là “lãi suất”.
HĐVTS đã được hình thành và phát triển từ lâu, pháp luật dân sự luôn tôn
trọng sự thỏa thuận của các bên, tuy nhiên sự thỏa thuận nào cũng phải nằm trong


13

một giới hạn do pháp luật quy định, và lãi suất cũng là vấn đề mà các nhà làm luật
quan tâm ngay từ những ngày đầu tiên. Điển hình như: Luật La Mã quy định mức
lãi suất là 6%/năm nếu vay để tiêu dùng và 8%/năm nếu vay để kinh doanh, ngoài
ra luật cũng quy định không tính lãi mẹ đẻ lãi con3. Vậy lãi suất trong HĐVTS được
hiểu là gì?
- Dưới góc độ ngôn ngữ học: Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ( ngày
khai thác thông tin 10/6/2017), lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ của tổng số tiền
phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá
mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức
người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. Lãi suất là giá cả của quyền
được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả

cho người sở hữu vốn.
Theo Từ điển Luật học thì: “Lãi suất là tỉ lệ phần trăm tính trên vốn đầu tư
để xác định lãi của người đầu tư.”. Lãi suất chính là tỉ lệ khoản tiền hoặc lơi ích vật
chất khác mà bên vay trả thêm ngoài số tiền hoặc vật chất đã vay để có thể sử dụng
tài sản vay của bên cho vay. Đây có thể xem là sự tăng trưởng tự nhiên của tài sản.
Nó chính là “giá cả” trong HĐVTS có đền bù hay có lấy lãi. Căn cứ vào lãi suất số
tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định. Số tiền này tỉ lệ
thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay.
- Dưới góc độ kinh tế: Nhà kinh tế Marshall (1890) trong tác phẩm
“Principles of Economis” (Những nguyên lí kinh tế học) đã viết: “Lãi suất chỉ giá
phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kì…”, trích trong tài liệu:
“Ngô Lan Anh (2012), Lãi trong hợp đồng vay tài sản, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Ngoài ra, còn có có thể hiểu: “Lãi suất còn
gọi là tỉ suất lợi tức, là tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được trong một thời
gian (ngày, tuần, tháng, quý năm…) với tổng số vốn bỏ ra cho vay trong cùng thời
gian đó” (Trong tác phẩm Tư bản, tập thứ 3, phần 1 của Các Mác có đề cập: “Có
thể định nghĩa tỉ suất lợi tức là một số tiền tính theo tỉ lệ mà người cho vay vui lòng
nhận và người đi vay trả về việc sử dụng một số tư bản tiền tệ nhất định trong một
năm hay trong bất cứ một khoảng thời gian nào khác dài hơn hoặc ngắn hơn”).4
3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật La Mã, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 130.

4

Lê Văn Tư (2004), Tiền tệ, Ngân hàng, thị trường tài chính, Nxb. Tài chính, Hà Nội, tr. 407.


14


Theo Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005):
“lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định
mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn”.
- Dưới góc độ pháp lý:
Điều 12 Luật Ngân Hàng nhà nước 2010 quy định về lãi suất: “1. Ngân hàng
Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để
điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”. Lãi suất trong HĐVTS là tỷ
lệ nhất định tính trên tổng số tài sản vay và kỳ hạn vay mà bên vay phải trả thêm
vào số tiền hoặc tài sản đã vay tính theo đơn vị thời gian.
Lãi suất là vấn đề được chú trọng và xây dựng từ sớm trong các BLDS của
Việt Nam. Ngay từ BLDS năm 1995 (Điều 473), BLDS năm 2005 (Điều 476) cũng
đã có quy định về lãi suất nhưng với mức lãi suất khác nhau. Hiện nay, lãi suất
trong HĐVTS được quy định tại Điều 468 BLDS 2015 như sau: “1. Lãi suất vay do
các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo
thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật
khác có liên quan quy định khác…”. Như vậy, các bên được tự do thỏa thuận về lãi
suất khi tham gia vào HĐVTS nhưng sự “tự do” đó phải được đặt trong giới hạn
nhất định bởi lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích của các chủ thể khác.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả xin đưa ra định nghĩa về lãi suất
dưới góc độ pháp lý như sau: “Lãi suất trong HĐVTS là tỷ lệ (%) nhất định mà
người vay phải trả thêm vào số tài sản đã vay tính trên một đơn vị thời gian, nếu
các bên có thoả thuận về việc trả lãi hoặc pháp luật có quy định về việc trả lãi.
Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật quy định”.
1.2.2. Đặc điểm của lãi suất
Lãi suất là một trong số các điều khoản được các bên trong HĐVTS đặc biệt
quan tâm và có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các HĐVTS
Qua nghiên cứu có thể thấy, lãi suất chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp
đồng vay, bởi trong hợp đồng vay, bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời

hạn nhất định, do đó, phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn
vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để
tính lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn


15

trong hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả
thuận hoặc do pháp luật quy định.
- Thứ hai, lãi suất là điều khoản tùy nghi trong HĐVTS
Điều khoản tùy nghi là điều khoản do các bên tự thỏa thuận. Điều khoản tùy
nghi là điều khoản phải thoả thuận vì tính chất của hợp đồng và những điều khoản
mà pháp luật đã quy định trước. Khi tiến hành giao kết hợp đồng các bên còn có thể
thoả thuận để cụ thể thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho nội dung của hợp
đồng được đầy đủ, hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép lựa
chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng, sao cho thuận lợi
mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia. Trong giao dịch dân sự, yếu tố
thỏa thuận giữa các bên luôn được tôn trọng. Khi giao kết HĐVTS, dù có kỳ hạn
hay không có kỳ hạn, bên cho vay đều có quyền yêu cầu bên vay phải trả lãi theo
mức lãi suất nhất định, hoặc không tính lãi.
- Thứ ba, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do
thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc
Bản chất của lãi suất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho
vay dựa vào số tiền vay gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ
lệ đó nếu như không tồn tại số tài sản vay gốc mà các bên thoả thuận được trong
HĐVTS.
- Thứ tư, lãi suất được tính dựa trên thời hạn vay, còn đối với các hợp đồng
vay mà các bên không thỏa thuận về lãi thì hợp đồng này được xác định là hợp
đồng vay không lãi

Một trong những yếu tố quyết định tới mức lãi suất là thời hạn vay. Do vậy,
khi tham gia vào một quan hệ vay tài sản, bên vay và bên cho vay cần xem xét thời
hạn vay dài hay ngắn để các bên có thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp. Thông
thường, thời hạn vay càng dài thì lãi suất càng cao. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp
HĐVTS ngắn hạn lãi suất sẽ cao hơn dài hạn vì: (i) Vay ngắn hạn thì lãi suất phải
cao thì số lãi thu về mới “đáng kể” để giao kết hợp đồng vay và (ii) Vay dài hạn và
trả góp thì lãi suất thấp sẽ đảm bảo cho khả năng trả nợ của bên vay hơn, mức độ rủi
ro sẽ giảm xuống… Chẳng hạn quy định về lãi suất của BIDV theo kỳ hạn hiện tại:
Lãi suất tiền vay 01 tháng là 4,3%/năm; 06 tháng tăng lên 5,3%/năm; 12 tháng tăng


16

lên 6,9/năm như không kỳ hạn thì lại chỉ là 0,2%/năm (lãi cơ bản của BIDV đối với
các khoản tiền vay trong 05 tháng là 5%/năm).5
1.2.3. Phân loại lãi suất
Có nhiều tiêu chí để phân loại lãi suất. Dựa vào mỗi tiêu chí khác nhau sẽ có
những cách phân loại lãi suất khác nhau. Trong khuôn khổ Luận văn, tác giả xin đề
cập tới một số cách phân loại có ý nghĩa lý luận trong việc phân tích, đánh giá các
quy định về lãi suất trong HĐVTS như sau:
1.2.3.1. Phân loại lãi suất theo ý chí của các chủ thể có liên quan
Căn cứ vào ý chí của các chủ thể có liên quan, lãi suất được chia thành:
- Lãi suất theo thỏa thuận: Là lãi suất do bên vay và bên cho vay tự bàn bạc,
thương lượng, tự do ý chí và bày tỏ ý chí với nhau rồi thống nhất về lãi suất. Lãi
suất thỏa thuận có thế áp dụng đối với lãi suất cho vay (trong hạn), lãi suất chậm trả
(quá hạn), lãi trên nợ gốc, lãi trên nợ lãi… Sự thỏa thuận này không được tùy tiện
và lãi suất theo thỏa thuận chỉ được chấp nhận nếu mức lãi suất đó nằm trong khuôn
khổ cho phép của pháp luật. Lãi suất thỏa thuận có thể xuất hiện khi giao kết hợp
đồng vay, trong quá trình thực hiện hợp đồng vay, thậm chí cả khi có sự vi phạm
nghĩa vụ trả tiền hoặc có tranh chấp xảy ra.

- Lãi suất do luật định: Đây là loại lãi suất được pháp luật ấn định theo lãi
suất cơ bản (LSCB), lãi suất sàn huy động vốn, lãi suất trần cấp tín dụng hay lãi
suất trên nợ gốc. Loại lãi suất này được áp dụng khi: (i) Các bên không có thỏa
thuận cụ thể về lãi suất và có tranh chấp về lãi suất; (ii) Các bên có thỏa thuận về lãi
suất nhưng sự thỏa thuận bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần do trái quy định của
pháp luật; (iii) Lãi suất hoàn toàn theo ý chí của Nhà nước trong một số trường hợp
đặc biệt.
- Lãi suất theo quyết định của Tòa án: Trong một số trường hợp, Tòa án vận
dụng linh hoạt pháp luật, căn cứ vào quy định của pháp luật, căn cứ vào hoàn cảnh
cụ thể của các bên tranh chấp, căn cứ vào bối cảnh kinh tế - xã hội, căn cứ vào công
lý, lẽ công bằng mà Tòa án có thể ấn định mức lãi suất cho từng vụ việc cụ thể để
dung hòa lãi suất theo thỏa thuận và lãi suất theo luật định.
Đặc biệt, loại lãi suất này hoàn toàn có thể xuất hiện khi BLDS 2015 quy
định về thực hiện hợp đồng khi “Hoàn cảnh thay đổi cơ bản” tại Điều 420 BLDS
5

/>

17

2015. Chẳng hạn, khi Công ty A vay tín dụng của Ngân hàng B để kinh doanh.
Công ty A đang làm ăn rất phát đạt thì bị pháp luật của nước C áp dụng “phá giá”
đối với hàng hóa của Công ty A xuất khẩu sang C. Đây là điều các bên không thể
dự liệu trước khiến A mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng B. Rõ ràng, đây là
trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản thỏa mãn quy định tại Khoản 1 Điều 420
BLDS 2015 và nếu đương sự có yêu cầu, Tòa án có quyền can thiệp vào HĐTD của
A và B để giải quyết vấn đề của cả hai bên, chẳng hạn Tòa án hoàn toàn có thể can
thiệp vào điều khoản lãi suất trong hợp đồng.
1.2.3.2. Phân loại theo tình trạng pháp lý của việc áp dụng lãi suất
Theo tiêu chí này, lãi suất có thể được phân loại thành lãi suất đúng hạn

(trong hạn) và lãi suất quá hạn:
- Lãi suất trong hạn không được quy định cụ thể về khái niệm trong văn bản
pháp luật, nhưng có thể hiểu là lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng, dùng làm căn cứ
để tính giá trị lãi mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính trên số tiền đã vay tương
ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
- Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho
bên cho vay tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất quá hạn thường cao hơn lãi
suất đúng hạn do được áp dụng đối với người vay vi phạm nghĩa vụ về thời hạn.
Sau thời hạn mà bên vay không trả hoặc trả không hết số tiền vay thì bên cho vay có
quyền tính lãi dựa trên lãi suất quá hạn theo đúng như thoả thuận hoặc theo quy
định của pháp luật.
Tuy nhiên, việc trả lãi sau thời hạn vẫn có thể coi là đúng hạn trong một số
trường hợp. Ví dụ: đến hạn trả lãi nhưng do sự kiện bất ngờ hay sự kiện bất khả
kháng mà bên vay không thể thực hiện nghĩa vụ trả lãi của mình hoặc được bên cho
vay chấp nhận không phải trả lãi quá hạn khi quá thời hạn vay…
1.2.3.3. Phân loại dưới góc độ lãi suất tín dụng Ngân hàng
Lãi suất tín dụng Ngân hàng áp dụng trong quan hệ giữa Ngân hàng với cá
nhân và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp
vốn của Ngân hàng Trung ương cho các Ngân hàng và trong quan hệ giữa các Ngân
hàng với nhau trong thị trường liên Ngân hàng. Trong đó:
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất mà các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định
mức lãi suất kinh doanh của mình.


18

LSCB được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân hàng
Trung ương ấn định (Nhật là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể do bản
thân các Ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của Ngân
hàng mình (Mỹ, Anh, Úc) và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các Ngân hàng có

mức rủi ro thấp nhất; hoặc căn cứ vào mức LSCB của một số Ngân hàng đứng đầu,
của các Ngân hàng khác… cộng, trừ (±) biên độ dao động theo một tỷ lệ phần trăm
(%) nhất định để hình thành LSCB của mình (Malaysia). Một số nước lại sử dụng
lãi suất liên Ngân hàng làm LSCB (Singapore, Pháp) vì thực chất LSCB của các
Ngân hàng rất gần với mức lãi suất thị trường liên Ngân hàng, nếu không như vậy,
hoạt động Arbitrage (buôn chứng khoán) về lãi suất sẽ diễn ra. Mặc dù khác nhau,
nhưng LSCB của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và đó là
mức lãi suất tối thiểu để bù đắp được chi phí và có một mức lợi nhuận bình quân
cho phép.
Ở Việt Nam, Luật NHNN số 06/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy
định: “LSCB là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất
kinh doanh.”. Hiện nay, mặc dù Luật NHNN không định nghĩa về LSCB nữa nhưng
vẫn liệt kê: “1. NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn, LSCB và các loại lãi suất khác
để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.” (Khoản 1 Điều 12 Luật
NHNN năm 2010). Như vậy, LSCB được xác định dựa trên cơ sở tham khảo lãi
suất cho vay thương mại tốt nhất của một nhóm Ngân hàng (chiếm phần lớn thị
phần tín dụng) do thống đốc NHNN quy định. LSCB hiện hành được ghi nhận tại
Điều 1 Quyết định 2868/QĐ-NHNN năm 2010 về mức LSCB bằng đồng Việt Nam
do Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2010 là 9%/năm
(0,75%./tháng).
Mặc dù LSCB là một loại lãi suất trong tín dụng Ngân hàng do Thống đốc
NHNN Việt Nam ban hành, nhưng với tính chất “cơ bản” của nó thì loại lãi suất
này còn được vận dụng ngay trong các HĐVTS thuần túy dân sự giữa các cá nhân,
pháp nhân với nhau và là một trong những loại lãi suất được ghi nhận và áp dụng
phổ biến trong quy định của pháp luật dân sự, quy định về HĐVTS trong một thời
gian dài có hiệu lực của BLDS 2005.
- Lãi suất kinh doanh: Là lãi suất trong các hoạt động ngân hàng của TCTD
như huy động vốn, cấp tính dụng, chẳng hạn: Lãi suất tiền gửi (lãi suất huy động
vốn), Lãi suất tiền vay (lãi suất cấp tín dụng), Lãi suất chiết khấu; Lãi suất tái chiết



19

khấu (lãi suất tái cấp vốn), Lãi suất liên Ngân hàng… (pháp luật về ngân hàng và
TCTD).
Ngoài 3 cách phân loại trên thì lãi suất còn có thể được phân loại theo các
tiêu chí khác như: Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất, lãi suất gồm: lãi suất danh
nghĩa, lãi suất thực; Căn cứ vào phương thức đo lường, lãi suất gồm: lãi suất đơn,
lãi suất kép, lãi suất hiệu quả và lãi suất hoàn vốn; Căn cứ vào độ ổn định của lãi
suất, lãi suất gồm: lãi suất cố định, lãi suất thả nổi và lãi suất kết hợp; Căn cứ vào
thời hạn áp dụng lãi suất thì lãi suất gồm: lãi suất ngắn hạn, lãi suất trung hạn và lãi
suất dài hạn…
1.2.4. Vai trò của lãi suất
Dưới góc độ kinh tế, Có thể kể ra một số tác động cơ bản của lãi suất tới sự
phát triển của nền kinh tế như: (i) Lãi suất là một công cụ kích thích lợi ích vật chất
để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các chủ thể kinh tế; (ii) Lãi suất là công cụ
điều tiết nền kinh tế vĩ mô; (iii) Lãi suất là công cụ phân phối vốn và kích thích sử
dụng vốn có hiệu quả; (iv) Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền
kinh tế; (v) Lãi suất là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia…6.
Dưới góc độ pháp lý, các quy định về lãi suất trong BLDS 2015 đã tạo ra
hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ vay tài sản. Một
mặt, các quy định này giúp bảo vệ người đi vay, giúp họ không bị chèn ép với mức
lãi suất quá cao, nhất là khi đang gặp khó khăn. Mặc khác, việc quy định mức lãi
suất rộng giúp cho các bên dễ dàng hơn trong việc ký kết hợp đồng, bên cho vay
cũng có điều kiện đạt được mục đích kinh tế của minh là sinh lời cao mà không vi
phạm pháp luật. Mặt khác, những quy định về lãi suất đã minh bạch hóa cách xác
định lãi trong HĐVTS, qua đó khuyến khích các quan hệ vay tài sản diễn ra phổ
biến, giúp phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong xã hội. Các quy
định về lãi suất trong HĐVTS cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các
tranh chấp phát sinh khi thực hiện hợp đồng vay nợ trong xã hội.


6

Dương Thu Phương (2009), Lãi suất trong hợp đồng vay tiền và tác động của nó tới nền kinh tế hiện nay,
Cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 15.


×