Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết vụ việc dân sự (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

LÊ THỊ GIANG

NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ CÁC NGUỒN KHÁC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI -2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

LÊ THỊ GIANG

NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ CÁC NGUỒN KHÁC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI ĐĂNG HIẾU

HÀ NỘI -2017

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Lê Thị Giang


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS.Bùi Đăng Hiếu người hướng dẫn khoa học, đã tận tình chỉ bảo trong quá trình tác giả thực hiện
luận văn. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô, anh, chị,
bạn bè và gia đình đã động viên, khuyến khích, giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý
báu để tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Tác giả luận văn


Lê Thị Giang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao


MỤC LỤC
trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

1.Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2


3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

3

4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

4

7. Kết cấu của Luận văn

5

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VÀ CÁC NGUỒN KHÁC TRONG VIỆC GIẢI

6

QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
1.1. Khái niệm nguồn và các loại nguồn của luật dân sự

6


1.1.1. Khái niệm nguồn của luật dân sự

6

1.1.2. Các loại nguồn trong giải quyết vụ việc dân sự

7

1.2. Khái niệm nguyên tắc áp dụng các loại nguồn

14

1.3. Các yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện nguyên tắc áp dụng các
loại nguồn

15

1.4. Mối quan hệ ƣu tiên áp dụng giữa áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật dân sự với áp dụng các nguồn khác trong việc giải quyết

16

các vụ việc dân sự
1.5. Sự khác nhau giữa áp dụng các loại nguồn trong giải quyết vụ án
dân sự và giải quyết việc dân sự

24

CHƢƠNG 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ CÁC NGUỒN

KHÁC THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS NĂM 2015 TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

27


2.1. Áp dụng pháp luật dân sự

27

2.1.1. Mối quan hệ giữa luật dân sự và các ngành luật khác

27

2.1.2. Điều kiện áp dụng văn bản quy phạm pháp luật dân sự

29

2.1.3. Thực tiễn thực hiện áp dụng văn bản quy phạm pháp luật dân sự

31

2.2. Áp dụng tập quán

35

2.2.1. Các loại tập quán

35


2.2.2. Điều kiện áp dụng tập quán

38

2.2.3. Áp dụng tập quán trong một số quan hệ dân sự cụ thể

42

2.2.4. Thực tiễn áp dụng tập quán

45

2.3. Áp dụng tƣơng tự pháp luật dân sự

50

2.3.1 Khái niệm áp dụng tương tự pháp luật dân sự

50

2.3.2. Điều kiện áp dụng tương tự pháp luật dân sự

51

2.3.3. Thực tiễn áp dụng tương tự pháp luật dân sự

53

2.4. Áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự


54

2.4.1. Khái niệm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

54

2.4.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

55

2.4.3. Điều kiện áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

60

2.5. Áp dụng án lệ

62

2.5.1. Điều kiện áp dụng án lệ

62

2.5.2. Thực tiễn áp dụng án lệ

67

2.6. Áp dụng lẽ công bằng

72


2.6.1. Khái niệm lẽ công bằng

72

2.6.2. Điều kiện áp dụng lẽ công bằng

74

CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ CÁC

76

NGUỒN KHÁC TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
3.1. Kiến nghị hoàn thiện về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
dân sự

76


3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về áp dụng tập quán

78

3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về áp dụng tƣơng tự pháp luật

80

3.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về áp dụng án lệ


82

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày một phát triển, các vụ việc dân sự có tính chất ngày càng phức
tạp. Do đó hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc dân sự ngày
càng trở thành một vấn đề quan trọng. Việc áp dụng pháp luật thế nào cho đúng,
chính xác và thấu tình đạt lý được dư luận xã hội quan tâm. Việc áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự góp phần ổn định xã hội và cải thiện
các mối quan hệ trong đời sống hàng ngày tại cộng đồng dân cư, giữ gìn kỷ
cương pháp luật, trật tự an toàn xã hội, đồng thời góp phần tằng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. BLDS là một trong những đạo luật quan trọng, là luật chung
của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự; ghi nhận và bảo vệ tốt hơn
các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự.
Trong quan hệ xã hội nói chung và trong quan hệ pháp luật dân sự nói riêng
thì lợi ích nhân thân và tài sản hợp pháp của các bên chủ thể luôn được pháp luật
bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên, không phải bao giờ và khi nào những lợi ích nhân
thân, tài sản đều được một bên hoặc người thứ ba có nghĩa vụ thực hiện đúng,
đầy đủ. Những tranh chấp, yêu cầu trong quan hệ dân sự đã phát sinh, thì cần có
một chuẩn mực pháp lý để điều chỉnh các quan hệ đó đúng với với ý chí của nhà

nước, nhằm bảo vệ các quyền dân sự hợp pháp của chủ thể và đảm bảo cho các
quan hệ dân sự trong xã hội được ổn định. Song pháp luật chỉ thể hiện được vai
trò đó của mình khi nó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và đặc biệt là
được áp dụng một cách đúng đắn. Để tạo cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, phát
huy được vị trí, vai trò của BLDS, bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng
pháp luật dân sự, BLDS năm 2015 đã quy định rất cụ thể về nguyên tắc áp dụng
pháp luật dân sự từ Điều 4 đến Điều 6 BLDS năm 2015. Việc tìm hiểu, nghiên
cứu về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và thực tiễn áp dụng các nguyên tắc
này là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực.


2

Với những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Nguyên tắc
áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết vụ việc dân
sự” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng pháp luật dân sự là một trong các hình thức của thực hiện pháp
luật dân sự. So với các hình thức thực hiện pháp luật dân sự khác thì áp dụng
pháp luật dân sự có những đặc trưng riêng. Áp dụng pháp luật dân sự đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống. Nhờ
có hoạt động áp dụng pháp luật mà các tư tưởng, chính sách của Nhà nước đi
đến với người dân một cách dễ dàng, thiết thực hơn.
Để giải quyết các vụ việc dân sự xảy ra trong thực tế một cách đúng đắn,
chính xác và có thấu tình đạt lý phụ thuộc rất nhiều vào các chủ thể có thẩm
quyền áp dụng pháp luật. Vì vậy nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự là một
trong những vấn đề rất quan trọng, buộc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải
tuân theo khi giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên hiện nay chưa có nhiều
bài viết, công trình nghiên cứu về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự. Một số

bài viết về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự có thể kể đến là “Nguyên tắc áp
dụng pháp luật dân sự theo BLDS năm 2015” của tác giả Tạ Đình Tuyên đăng
ngày 31/08/2016 trên website ; “Áp dụng pháp luật dân sự dưới góc nhìn thực tiễn” của tác giả Phạm Thị Hồng Đào đăng ngày 18/01/2016
trên website . Hai bài viết này mới chỉ dừng lại ở trình bày sơ
qua về thứ tự áp dụng BLDS và các nguồn khác, hay điều kiện áp dụng các
nguyên tắc khi giải quyết các vụ việc dân sự mà chưa đi sâu vào từng nội dung
cụ thể.
Một số bài viết, công trình có đề cập đến các nguyên tắc áp dụng pháp luật
dân sự là: Chuyên đề 8 “Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực dân sự” của PGS.TS
Phùng Trung Tập trong Đề tài khoa học nghiên cứu khoa học cấp Trường “Áp
dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Thị Hồi chủ nhiệm đề
tài năm 2009; Sách “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015”


3

xuất bản năm 2016 do Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn chủ biên; Sách “Bình luận
khoa học BLDS năm 2015” xuất bản năm 2016 do Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn
chủ biên; Sách “Bình luận khoa học BLDS năm 2015” xuất bản năm 2017 do
PGS.TS Nguyễn Văn Cừ và PGS.TS Trần Thị Huệ đồng chủ biên. Ngoài ra còn
có một số bài viết đề cập đến nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự nhưng chỉ
giới hạn đề cập đến một trong các nội dung của nguyên tắc áp dụng pháp luật
dân sự, chủ yếu là áp dụng tập quán và án lệ.
Nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác chưa được quan
tâm nghiên cứu nhiều, những bài viết, công trình nghiên cứu ở trên mới chỉ giới
thiệu một cách sơ qua hoặc chỉ phân tích một nội dung của vấn đề, chưa tiếp cận
một cách đầy đủ, tổng quan về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các
nguồn khác trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Những tác phẩm này đã đặt
nền tảng, cung cấp những thông tin cần thiết cho quá trình nghiên cứu của tác
giả.

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề
liên quan đến nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự được quy định trong BLDS
năm 2015: lý luận chung về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự, quy định của
BLDS năm 2015 và thực tiễn thực hiện.
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu những
quy định của BLDS năm 2015 liên quan đến nguyên tắc áp dụng pháp luật dân
sự và các nguồn khác trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và thực tiễn áp
dụng các quy định này.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận liên quan
đến nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự và thực tiễn áp dụng nguyên tắc đó. Từ đó đưa ra các kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này
trong thực tiễn.


4

Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn phải làm những nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Nghiên cứu lý luận chung về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự;
- Nghiên cứu nội dung cụ thể của nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và
các nguồn khác trong việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLDS
năm 2015;
- Thực trạng áp dụng nguyên tắc này trong việc giải quyết các vụ việc dân
sự;
- Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về nguyên tắc áp dụng pháp
luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lê nin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các
quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế, định hướng hoàn thiện
pháp luật trong thời gian tới để đánh giá, luận giải những vấn đề lý luận và thực
tiễn.
Trong phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: liệt kê, diễn giải, phân
tích, so sánh, logic để chỉ ra những điểm khác biệt của BLDS năm 2015 so với
BLDS năm 2005 khi quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các
nguồn khác trong giải quyết các vụ việc dân sự.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự. Về mặt khoa học, luận văn đóng góp một số điểm
mới sau:
Thứ nhất, luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống các vấn đề lý luận về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn
khác trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.


5

Thứ hai, trong bối cảnh BLDS năm 2015 mới được ban hành và có hiệu
lực, luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên phân tích các quy định
của BLDS mới hướng đến bảo đảm thực hiện nguyên tắc áp dụng pháp luật dân
sự và các nguồn khác trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Thứ ba, trên cơ sở tổng hợp kết quả thi hành BLDS về việc thực hiện
nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự, luận văn đã đánh giá tính hợp lý của các quy định và những khó
khăn trong công tác thi hành pháp luật.

Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu các vấn đề lý luận về
nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự, các quy định của pháp luật về nguyên tắc này và thực tiễn áp
dụng các quy định, luận văn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hướng đến hoàn
thiện hơn nữa quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự. Luận văn là tài liệu tham khảo trong lĩnh vực luật học về vấn đề
nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn
khác trong việc giải quyết vụ việc dân sự;
Chương 2: Áp dụng pháp luật dân sự và các nguồn khác theo quy định của
BLDS năm 2015 trong việc giải quyết vụ việc dân sự;
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc áp dụng pháp luật
dân sự và các nguồn khác trong giải quyết các vụ việc dân sự.


6

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VÀ CÁC NGUỒN KHÁC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC DÂN SỰ
1.1. Khái niệm nguồn và các loại nguồn của luật dân sự
1.1.1. Khái niệm nguồn của luật dân sự
Nguồn pháp luật là một trong những vấn đề quan trọng không chỉ trong
khoa học pháp lý mà còn ở thực tiễn thực thi pháp luật. Có thể hiểu, nguồn pháp
luật chính là tất cả các căn cứ được chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để

xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết
các vụ việc xảy ra trong thực tế. Tùy vào căn cứ phân biệt, nguồn của pháp luật
có thể bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức; nguồn chủ yếu và nguồn
thứ yếu. Khi xem xét về nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, cần phải quan
tâm cả nguồn nội dung và nguồn hình thức của nó, trong đó, “nguồn nội dung
của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể
có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật”;
“nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy
phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy
phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó
để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”1. Tuy nhiên, sự phân chia
này chỉ có tính chất tương đối.
Cho đến nay, nội hàm của khái niệm nguồn pháp luật nói chung và nguồn
của luật dân sự nói riêng ,trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn ở Việt Nam
vẫn chưa được xác định một cách thống nhất. Việc xác định nguồn của luật dân
sự là một vấn đề không hề dễ dàng, vì xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau
mà quan niệm về các thành tố cấu thành luật dân sự cũng có nhiều điểm dị biệt.
Một số tác giả quan niệm rằng nguồn của pháp luật nói chung có thể xuất phát từ
ba nguồn là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Có quan
1

Nguyễn Thị Hồi (2008), “Về khái niệm nguồn của pháp luật”, Luật học, (02), tr.25-30;


7

điểm lại cho rằng, nguồn của pháp luật không chỉ được hiểu như trên mà còn
được hiểu là những tư tưởng pháp luật của giai cấp thống trị, các nguyên tắc
pháp luật, các học thuyết pháp lý. Một số tác giả khác lại cho rằng nguồn của
luật dân sự chỉ có thể là những văn bản pháp luật do nhà nước ban hành, theo

một thủ tục luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, nguồn của luật dân sự là ý chí của giai cấp thống trị
được nâng lên thành luật. Theo nghĩa hẹp, nguồn của luật dân sự được hiểu là hệ
thống những văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội của luật dân sự. Đây là loại nguồn hình thức
chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của luật dân sự, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước
ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm quyền của
mình đều chủ yếu dựa vào các văn bản pháp luật. Văn bản pháp luật do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có
chứa đựng các quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, theo
như các quy định từ Điều 4 đến Điều 6 BLDS năm 2015 thì có thể thấy pháp luật
Việt Nam thừa nhận nguồn của luật dân sự trong giải quyết các vụ việc dân sự
gồm văn bản quy phạm pháp luật, tập quán và án lệ.
1.1.2. Các loại nguồn trong giải quyết vụ việc dân sự
Theo quy định từ Điều 4 đến Điều 6 BLDS năm 2015 thì có các loại nguồn
sau đây được áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự:
1.1.2.1. Văn bản quy phạm pháp luật dân sự
Pháp luật dân sự gồm hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh
các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân. Các quy phạm pháp luật dân sự do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự theo
mục tiêu, định hướng cụ thể. Các quy phạm này là những hình mẫu, hành lang
pháp lý để các chủ thể khi hành xử phải tuân theo. Đó là các chuẩn mực ứng xử,
giới hạn các chuẩn mực của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự.


8

Văn bản quy phạm pháp luật dân sự là hình thức pháp luật thành văn, do
các cơ quan nhà nước soạn thảo và ban hành. Các nhà làm luật khi xây dựng các

văn bản quy phạm pháp luật dân sự thường trình bày các quy phạm pháp luật
dân sự trong các điều luật. Việc trình bày các quy phạm pháp luật dân sự trong
các điều khoản của văn bản quy phạm pháp luật dân sự sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật cũng như việc thực hiện và áp dụng
pháp luật.
Từ đó có thể hiểu, văn bản quy phạm pháp luật dân sự là văn bản có chứa
quy phạm pháp luật dân sự, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
trình tự, thủ tục do luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự.
Văn bản quy phạm pháp luật dân sự có các đặc điểm cơ bản sau:
-Văn bản quy phạm pháp luật dân sự chứa đựng quy phạm pháp luật dân
sự. Đây là đặc điểm thể hiện rõ sự khác biệt rõ nét giữa văn bản quy phạm pháp
luật dân sự với các văn bản khác của nhà nước. Quy phạm pháp luật dân sự là
những quy định của Nhà nước về cách xử sự của các chủ thể trong những điều
kiện hoàn cảnh nhất định. Do điều kiện và hoàn cảnh rất đa dạng cho nên, cách
xử sự của các chủ thể cũng rất phong phú và đa dạng. Trong nhiều trường hợp,
pháp luật không chỉ dự liệu những xử sự cụ thể mà còn đưa ra khung, giới hạn
của các xử sự đó hoặc chỉ đưa ra khung pháp lý mà trong phạm vi khung đó các
chủ thể có thể tùy ý lựa chọn cách thức xử sự phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh sao cho có lợi nhất. Tùy theo cách thức quy định trong các quy phạm,
người ta có thể phân chia quy phạm luật dân sự thành những loại quy phạm sau:
quy phạm định nghĩa, quy phạm mệnh lệnh, quy phạm tùy nghi. Cách thức áp
dụng mỗi loại quy phạm đó có những điểm khác nhau nhất định. Cụ thể, đối với
quy phạm mệnh lệnh thì phải được áp dụng vô điều kiện và chỉ tuân theo nội
dung của quy phạm. Đối với quy phạm tùy nghi (quy phạm hướng dẫn, quy
phạm lựa chọn), khi áp dụng thì có thể lựa chọn quy định phù hợp với mỗi loại
quan hệ cụ thể để áp dụng. Còn đối với quy phạm định nghĩa không được áp
dụng một cách trực tiếp như các quy phạm mệnh lệnh và tùy nghi, nhưng có giá


9


trị trong việc xác định phạm vi, tính chất và đặc điểm của quan hệ để từ đó có
căn cứ xác định chuẩn xác quy phạm cần được áp dụng, tránh sự nhầm lẫn hoặc
áp dụng sai quy phạm.
-Văn bản quy phạm pháp luật dân sự do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Pháp luật quy định cho một số cơ quan nhà nước được quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật và những cơ quan đó cũng chỉ được ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về những vấn đề ở những mức độ phù hợp
với thẩm quyền của mình do luật định.
-Trình tự, thủ tục, hình thức, tên gọi của văn bản quy phạm pháp luật dân
sự được pháp luật quy định cụ thể. Văn bản quy phạm pháp luật dân sự được ban
hành theo hình thức, thủ tục, tên gọi được quy định cụ thể trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
-Văn bản quy phạm pháp luật dân sự được áp dụng nhiều lần trong đời sống
nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự. Vì văn bản quy phạm pháp luật dân sự
chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự nên văn bản quy phạm pháp luật dân
sự luôn có tính chất bắt buộc chung, được thực hiện nhiều lần trong cuộc sống.
Tính chất bắt buộc chung của văn bản quy phạm pháp luật dân sự được hiểu là
bắt buộc đối với mọi chủ thể khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh mà văn bản quy
phạm pháp luật dân sự đó quy định. Văn bản quy phạm pháp luật dân sự không
đặt ra quy định cho đối tượng cụ thể, xác định mà nhằm tới các đối tượng khái
quát, trừu tượng (mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng) như cá nhân, pháp
nhân, doanh nghiệp… Đây là điểm khác biệt so với văn bản áp dụng pháp luật
dân sự, vì đối tượng thi hành của văn bản này luôn xác định, cụ thể. Văn bản quy
phạm pháp luật dân sự được áp dụng nhiều lần trên thực tế còn văn bản áp dụng
chỉ được thực hiện duy nhất một lần.
1.1.2.2. Tập quán
Trong đời sống, thuật ngữ “phong tục tập quán” thường được dùng để chỉ
một thói quen được hình thành từ lâu, được mọi người công nhận và làm theo
nên thực tế còn khá lẫn lộn về khái niệm. Xét về bản chất thì phong tục và tập



10

quán là hai thuật ngữ độc lập để chỉ về thói quen ở các mức độ khác nhau. Mặt
khác, pháp luật nước ta cho phép áp dụng các thói quen đã được coi là tập quán
để giải quyết các vụ việc dân sự.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “phong tục” là “thói
quen, tục lệ đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm
theo”, tập quán là “thói quen đã thành nếp sống trong đời sống xã hội, trong sản
xuất và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo”. Xét về
nghĩa của từ thì phong tục là thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội được cộng
đồng thừa nhận và làm theo, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, phong tục có
thể tồn tại ở một dân tộc, địa phương hay thậm chí một dòng họ, gia tộc, còn tập
quán là thói quen đã trở thành nếp sống trong đời sống xã hội, trong sản xuất và
sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo. Phong tục là thói
quen nhưng người sống trong cộng đồng đó không bắt buộc phải tuân theo.
Trong khi đó tập quán lại là thói quen mà mọi người phải tuân theo trong cộng
đồng đó. Nếu phong tục là cái dễ thay đổi theo điều kiện kinh tế, xã hội thì tập
quán là cái khó thay đổi và gần như bất biến. Khi phong tục được coi là một
chuẩn mực mang tính bền vững được cộng đồng dân cư thừa nhận và làm theo
thì nó trở thành tập quán hay nói cách khác, tập quán là cái hình thành từ phong
tục nhưng buộc mọi người phải tuân theo.
Điều 3 BLDS năm 2005 không đưa ra định nghĩa thế nào là tập quán mà
chỉ quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có
thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy
định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật
không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này”. Như vậy,
quy định này còn chung chung, không quy định rõ thứ tự ưu tiên và điều kiện áp
dụng. Điều này dẫn tới sự áp dụng pháp luật không thống nhất trong thực tiễn.

Trong Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/09/2005 do Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao ban hành về việc hướng dẫn thi hành một số quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ” có định nghĩa về


11

tập quán như sau: “Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội,
trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó
thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng”. Cách định nghĩa
này là thiếu chuẩn xác khi mà giải thích tập quán là tất cả những thói quen hàng
ngày đều được thừa nhận là tập quán. Đây là một định nghĩa quá rộng, gây khó
khăn cho việc áp dụng pháp luật khi giải quyết các vụ việc dân sự.
Để khắc phục những hạn chế và nhược điểm của BLDS năm 2005, BLDS
năm 2015 đã ghi nhận áp dụng tập quán thành một điều luật hoàn toàn độc lập
tại Điều 5 trong BLDS năm 2015. Theo đó:
“1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa
vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp
đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi
trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân
sự.
2. Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định
thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”.
Như vậy, một thói quen (phong tục, tục lệ, tục, tập tục) chỉ được coi là tập
quán và tập quán đó chỉ được áp dụng để giải quyết các vụ việc dân sự khi hội tụ
đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất, thói quen đã trở thành nếp sống, được lặp đi lặp lại nhiều lần
trong một thời gian dài. Ở góc độ xã hội thì thói quen phải là nền nếp trong đời
sống xã hội, trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt thường ngày và do vậy, mọi

người trong cộng đồng đều phải tuân theo. Ở góc độ quy phạm thì thói quen đã
trở thành quy tắc xử sự chung cho mọi người và mọi người trong cộng đồng phải
tuân theo quy tắc xử sự đó.
Thứ hai, thói quen có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của chủ thể. Nếu thói
quen chỉ là cái ăn sâu vào đời sống xã hội mà việc tuân theo hay không tuân theo
không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người khác thì thói quen đó không


12

phải là quy tắc xử sự bắt buộc. Thói quen chỉ mang tính bắt buộc khi một người
không tuân theo quy tắc xử sự đó sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người
khác. Vì thế, thói quen chỉ được coi là tập quán nếu có liên quan đến quyền và
nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong mối quan hệ nhất định. Theo BLDS năm 2015
thì tập quán được áp dụng nếu “có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa
vụ”. Tuy nhiên, thực tế việc xác định các loại tập quán và lựa chọn tập quán để
áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự trong trường hợp vụ việc đó có nhiều tập
quán có thể áp dụng là những vấn đề cần trao đổi.
Thứ ba, thói quen phải thuộc về một lĩnh vực dân sự cụ thể. Có nhiều thói
quen đã trở thành tập quán nhưng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong khi
mục đích của áp dụng tập quán chỉ hướng tới giải quyết các vụ việc dân sự
nhất là các tranh chấp dân sự. Mặt khác, chỉ có thể áp dụng thói quen để giải
quyết một vấn đề nào đó nếu thói quen đó thuộc về một lĩnh vực cụ thể mà
không thể áp dụng một thói quen chung chung. Do đó, tập quán được lựa chọn
phải điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực dân sự.
Có thể thấy, định nghĩa về tập quán đưa ra trong BLDS năm 2015 hoàn
chỉnh và chuẩn xác hơn, đã quy định rõ chỉ những tập quán chứa đựng “quy tắc
xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân
trong quan hệ dân sự cụ thể”. Bên cạnh đó, định nghĩa này cũng đã chỉ ra được
phạm vi áp dụng của tập quán không chỉ ở trong một cộng đồng dân cư nhất định

mà còn được thừa nhận trong một vùng, miền, dân tộc hoặc trong một lĩnh vực
dân sự. Định nghĩa này đã bao hàm được các trường hợp cụ thể của các quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp trong một số lĩnh vực cụ thể như tập
quán thương mại hoặc tập quán hôn nhân, gia đình, tập quán lao động mà không
cần phải đưa ra định nghĩa trong từng lĩnh vực cụ thể của luật dân sự nữa.
1.1.2.3. Án lệ
Thừa nhận áp dụng án lệ là một quy định hoàn toàn mới trong BLDS năm
2015 so với BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005. Án lệ đã chính thức trở thành
một nguồn bổ trợ bên cạnh luật thành văn, tập quán trong giải quyết các vụ việc


13

dân sự. Ngày 28/10/2015, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban
hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp
dụng án lệ. Khái niệm án lệ được định nghĩa tại Điều 1 Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐTP như sau: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án về một vụ việc cụ thể được Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án
nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét
xử”.
So sánh với nguồn văn bản pháp luật, có thể chỉ ra một số ưu điểm của án
lệ như sau: Thứ nhất, án lệ mang tính thực tiễn cao. Nghĩa là dựa vào thực tiễn,
tập trung vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể của đời sống thực tế chứ
không phải giải quyết vấn đề bằng các lý thuyết chung chung trừu tượng. Thứ
hai, án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng
và kịp thời. Thứ ba, án lệ thể hiện tính khách quan và công bằng. Một số người
cho rằng, án lệ được tạo ra bởi một vài thẩm phán trong hội đồng xét xử khi xử
lý một vụ việc cụ thể nên có thể dân đến tình trạng chủ quan, tùy tiện trong việc
tạo ra các quy tắc án lệ. Thật ra, nhận định này mới chỉ nhìn bề ngoài về nguồn

luật án lệ và hiểu không đúng về bản chất, tinh thần của án lệ. Trước hết, một
quy tắc án lệ không phải hình thành từ một bản án cụ thể, mà nó phải được hình
thành qua hàng loạt các vụ việc tương tự về sau, bản án đầu tiên chỉ là hình mẫu
phác thảo lên một quy tắc án lệ. Vì vậy, một quy tắc án lệ trong pháp luật thông
luật không có tác giả, không có bản quyền cho bất kỳ thẩm phán nào. Hai là, quy
tắc án lệ trong pháp luật thông luật là kết quả của quá trình đưa ra những lý lẽ và
tranh luận lâu dài. Sự tranh luận được thể hiện thông qua sự tranh luận giữa bên
nguyên và bên bị trong vụ việc, giữa các thẩm phán trong hội đồng xét xử, giữa
các thẩm phán sau với các thẩm phán trước đó khi họ vận dụng lý lẽ của các
phán quyết trước đó. Ba là, quy tắc án lệ phải được thừa nhận là giá trị chung
hay là lý lẽ chung. Thực chất, thẩm quyền làm luật của Toà án bị ràng buộc bởi
các quy phạm pháp luật thành văn và các quy tắc án lệ được tạo ra trước đó. Mặt


14

khác, phán quyết của Toà án phải phù hợp với các giá trị hiện hành của xã hội.
Quyết định của Toà án trong những trường hợp này không chỉ bản thân các thẩm
phán cảm thấy rằng nó là hợp lẽ công bằng mà các bên tranh chấp trong vụ việc
và cả xã hội cũng phải thừa nhận tính hợp lý của nó.
1.2. Khái niệm nguyên tắc áp dụng các loại nguồn
Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về “nguyên tắc”. Theo Từ
điển Tiếng Việt, “nguyên tắc” được hiểu là “điều cơ bản đã định ra, nhất thiết
phải tuân theo trong một loạt việc làm”2. Nhìn nhận dưới một khía cạnh khác,
nguyên tắc là kết quả của quá trình nhận thức, nghiên cứu thực tiễn khách quan,
là sự phản ánh của các quy luật, bản chất của thực tiễn khách quan do đó nguyên
tắc trở thành những yêu cầu bắt buộc, chỉ đạo một lĩnh vực hoạt động nhất định
của con người. Nói cách khác, “nguyên tắc” là những tư tưởng mang tính xuất
phát điểm, thể hiện bản chất của một lĩnh vực hoạt động nhất định và chỉ đạo
toàn bộ các hoạt động thuộc lĩnh vực đó.

Áp dụng các loại nguồn trong giải quyết vụ việc dân sự là một dạng của
hoạt động thực tiễn, hiện thực hóa các quy định của pháp luật dân sự vào trong
thực tế để giải quyết các vụ việc dân sự. Do vậy, các chủ thể có thẩm quyền khi
áp dụng các loại nguồn cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Các chủ
thể khi tiến hành áp dụng các loại nguồn để giải quyết các vụ việc dân sự phải
luôn tuân theo nguyên tắc áp dụng pháp luật trong suốt quá trình giải quyết các
vụ việc dân sự. Bởi vấn đề áp dụng pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng trong
hoạt động giải quyết vụ việc dân sự. Vì thực chất hoạt động giải quyết vụ việc
dân sự cũng chính là hoạt động áp dụng pháp luật. Việc áp dụng đúng các loại
nguồn trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự không chỉ là một yêu cầu cơ
bản của áp dụng pháp luật dân sự mà còn là trách nhiệm của các chủ thể có thẩm
quyền nhằm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự được
BLDS quy định.

2

Từ điển Tiếng Việt (2003). Nxb. Đà Nẵng, tr. 694.


15

Từ những nội dung trên đây, có thể đưa ra khái niệm: Nguyên tắc áp dụng
các loại nguồn là những tư tưởng pháp lý mang tính chất chỉ đạo, buộc các chủ
thể có thẩm quyền phải tuân theo nhằm đảm bảo việc áp dụng đúng pháp luật
trong giải quyết các vụ việc dân sự.
1.3. Các yêu cầu đặt ra đối với việc thực hiện nguyên tắc áp dụng các
loại nguồn
Để giải quyết các vụ việc dân sự một cách chính xác, hợp tình, hợp lý thì
đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải vận dụng nguyên tắc áp dụng
các loại nguồn một cách chính xác, mềm dẻo, linh hoạt. Các chủ thể có thẩm

quyền khi tiến hành áp dụng pháp luật dân sự phải luôn tuân theo những nguyên
tắc áp dụng các loại nguồn trong quá trình giải quyết các vụ việc. Do vậy khi
thực hiện nguyên tắc áp dụng các loại nguồn một cách chính xác cần bảo đảm
các nội dung sau:
- Xác định đặc trưng pháp lý của sự việc;
- Xác định chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật đối với trường hợp đó;
- Nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ những tình tiết,
hoàn cảnh, điều kiện của sự việc;
- Lựa chọn đúng loại nguồn áp dụng để giải quyết vụ việc
Mục đích của áp dụng pháp luật dân sự là cá biệt hóa các quy phạm pháp
luật trong những điều kiện cụ thể. Do vậy, khi áp dụng pháp luật các chủ thể có
thẩm quyền phải nghiên cứu thật kỹ vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của
nó để từ đó lựa chọn quy phạm pháp luật. Khi có sự đề xuất của các tổ chức, cá
nhân thì các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật dân sự phải tiến hành các
hoạt động cần thiết như nghiên cứu, xác định xem sự việc đó có ý nghĩa pháp lý
hay không, có cần áp dụng pháp luật đối với trường hợp đó hay không. Nếu thấy
cần áp dụng pháp luật thì tiến hành xem xét, phân tích, đánh giá đúng, chính xác
tất cả các tình tiết của sự việc, làm sáng tỏ những hoàn cảnh, điều kiện và những
sự kiện có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, phải sử dụng những
biện pháp chuyên môn đặc biệt như giám định, làm thực nghiệm… để xác định


16

đúng tính chất của sự việc. Khi tiến hành xem xét cần bảo đảm sự khách quan,
chính xác, công bằng đối với tất cả các tổ chức và cá nhân liên quan đến vụ việc.
Sau khi xác định xong đặc trưng pháp lý của vụ việc được xem xét, phải
lựa chọn quy phạm pháp luật để giải quyết nó. Trước hết, phải xác định quy
phạm pháp luật nào điều chỉnh vụ việc này, sau đó lựa chọn quy phạm pháp luật
cụ thể thích ứng với vụ việc. Chỉ áp dụng quy phạm pháp luật khi trong thực tế

tồn tại những tình huống mà quy phạm pháp luật đã dự liệu trước để áp dụng cho
trường hợp đó. Không được tạo ra các tình huống giả để hợp thức hóa việc áp
dụng quy phạm pháp luật nào đó. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng
là vấn đề hết sức quan trọng, các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải
khẳng định được là quy phạm pháp luật đã chọn để áp dụng là hoàn toàn phù
hợp cho trường hợp cụ thể đó mà không phải là quy phạm pháp luật khác. Vì thế
khi lựa chọn quy phạm pháp luật phải chú ý đến tính chính xác về nội dung của
nó.
Trong trường hợp không có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hoặc
quy định chưa rõ thì phải vận dụng sáng tạo việc áp dụng tập quán, áp dụng
tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng để
giải quyết vụ việc đó. Để thực hiện được điều đó thì đòi hỏi các chủ thể có thẩm
quyền áp dụng phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm
phong phú, có đạo đức và có “tay nghề cao”.
1.4. Mối quan hệ ưu tiên áp dụng giữa áp dụng văn bản quy phạm pháp
luật dân sự với áp dụng các nguồn khác trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự
Trong xã hội nguyên thủy chưa có nhà nước thì cũng chưa có pháp luật. Để
quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng,
khi đó người ta dựa vào tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo,…là những công cụ
điều chỉnh thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích chung của các thành viên trong xã hội
nên được mọi người thừa nhận và tự giác tuân theo. Khi xã hội phát triển đến
một giai đoạn nhất định thì những công cụ quản lý như đạo đức, tập quán, tín


17

điều tôn giáo… không còn khả năng hoặc không thể duy trì quản lý xã hội được
nữa. Vì thế pháp luật ra đời để quản lý xã hội khi nó đã phát triển đến một giai
đoạn nhất định.

Hiện nay, pháp luật được xem là một trong những công cụ quản lý xã hội
hiệu quả nhất. Theo lịch sử phát triển, nguồn của pháp luật cũng ngày càng trở
nên đa dạng hơn. Trong các hệ thống pháp luật, mỗi loại nguồn pháp luật sẽ có
một vị trí, một vai trò riêng biệt. Mỗi loại nguồn pháp luật lại có những ưu điểm
và hạn chế nhất định nên không một hệ thống pháp luật nào chỉ sử dụng một loại
nguồn duy nhất. Phổ biến trong lịch sử, pháp luật có các nguồn chủ yếu là tập
quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, còn một số
nguồn pháp luật khác, tuy không gọi là nguồn cơ bản nhưng cũng có những đóng
góp nhất định trong đời sống pháp luật như chính sách của nhà nước, lẽ công
bằng, học thuyết pháp lý, quan điểm nghiên cứu… Tùy theo truyền thống pháp
lý và thái độ của từng nhà nước mà mỗi loại nguồn được sử dụng hoặc không ở
những mức độ khác nhau tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận của các nhà lập pháp.
Ở một số quốc gia điển hình trong hệ thống pháp luật Anh – Mĩ như Anh, Mĩ,
Úc, Canada,… thì loại nguồn chủ yếu của các quốc gia trong hệ thống pháp luật
này là án lệ, phần lớn các quy định pháp luật được hình thành không phải bằng
việc ban hành văn bản pháp quy của cơ quan lập pháp mà thông qua các án lệ.
Khác với hệ thống pháp luật Anh – Mĩ, các quốc gia trong hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa như Pháp, Đức,Italia,… lại có truyền thống pháp luật coi trọng
pháp luật thành văn hơn nguồn luật án lệ.
Việt Nam là một quốc gia có hệ thống pháp luật mang nhiều nét đặc trưng
của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa với sự coi trọng văn bản quy phạm pháp
luật. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nguồn của pháp luật dân
sự được sử dụng đa dạng hơn, nhà nước đã chú ý nhiều hơn tới án lệ, lẽ công
bằng đáp ứng nhu cầu phát triển đa dạng, phức tạp, năng động của các quan hệ
dân sự hiện nay. Theo quy định của BLDS năm 2015, từ Điều 4 đến Điều 6, thì
ta có thể xác định thứ tự ưu tiên áp dụng của các chủ thể có thẩm quyền khi giải


×