Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tội dâm ô đối với trẻ em trong pháp luật hình sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.06 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THÀNH LONG

TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số:

60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Tuyết Mai

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THÀNH LONG


TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017
Hà Nội – 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG I. QUY ĐỊNH VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM TRONG
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ................................................................... 7
1.1. Các dấu hiệu định tội ........................................................................... 15
1.1.1. Khách thể của tội phạm ................................................................. 15
1.1.2. Mặt khách quan của tội phạm ....................................................... 19
1.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm ........................................................... 25
1.1.4. Dấu hiệu chủ thể của tội phạm. ..................................................... 27
1.2. Các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng ..................................... 29
1.2.1. Phạm tội nhiều lần......................................................................... 29
1.2.2. Phạm tội đối với nhiều trẻ em ....................................................... 32
1.2.3. Nạn nhân là người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc,
giáo dục, chữa bệnh................................................................................. 34
1.2.4. Tái phạm nguy hiểm...................................................................... 35
1.2.5. Gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng ....................................................................... 36
1.3. Hình phạt .............................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN CHƢƠNG I .............................................................................. 39
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ YÊU
CẦU HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM ... 40

2.1. Những nội dung sửa đổi quy định về tội dâm ô đối với trẻ em trong Bộ
luật Hình sự năm 2015 ................................................................................ 40
2.2. Một số vấn đề cần chú ý khi triển khai áp dụng quy định của BLHS
năm 2015 về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi .................................... 45
2.2.1. Phân biệt hành vi khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi với hành vi khách quan của các tội phạm tình dục khác đối với
người dưới 16 tuổi trong BLHS năm 2015 ............................................. 45
2.2.2. Vấn đề về độ tuổi pháp lý của trẻ em............................................ 62


2.2.3. Vấn đề nhận thức chủ quan của người phạm tội đối với độ tuổi của
nạn nhân .................................................................................................. 65
2.3. Một số đề xuất nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam
về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi ..................................................... 68
2.3.1. Hướng dẫn áp dụng pháp luật Hình sự ......................................... 68
3.3.2. Nâng cao năng lực, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức
pháp lý và đạo đức nghề nghiệp cho những người tiến hành tố tụng ..... 74
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Châu Á và Thái Bình Dương cũng như nhiều khu vực khác trên thế
giới, tình trạng xâm hại tình dục đối với trẻ em diễn ra khá nghiêm trọng, xâm
phạm đến quyền cơ bản của trẻ em. Luật pháp quốc tế quy định rõ ràng rằng
các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện "tích cực" để ngăn chặn và đối phó với
xâm hại tình dục trẻ em. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc thực thi

không hiệu quả, không thích đáng các khuôn khổ pháp lý liên quan đến ngăn
chặn và trừng trị tội phạm xâm hại tình dục trẻ em dẫn đến việc trẻ em phải
đối mặt với nguy cơ bị xâm hại ngày càng nghiêm trọng.
Là quốc gia đầu tiên tại châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990, Việt Nam đã thể hiện
sự chú trọng và tầm nhìn chiến lược trong việc bảo vệ quyền của trẻ em từ
rất sớm. Để bảo vệ các quyền trẻ em theo nội dung của Công ước, Việt
Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý khác nhau, trong đó có các quy
định của pháp luật hình sự quy định về các tội phạm xâm hại tình dục đối
với trẻ em. Việc quy định tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong Bộ luật
hình sự của nước ta đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý loại tội phạm
này cũng như góp phần to lớn vào công cuộc phòng, chống tội phạm xâm
hại tình dục, giữ vững trật tự an toàn xã hội và bảo vệ lợi ích của công dân.
Tuy nhiên, các hành vi xâm hại trẻ em có chiều hướng ngày càng gia tăng,
chủ yếu tập trung vào nhóm tội xâm hại tình dục như: tội hiếp dâm trẻ em,
tội cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em, tội dâm ô đối với trẻ em,…
Đặc biệt, tình hình tội phạm dâm ô đối với trẻ em đang là vấn đề đáng báo
động. Hiện nay, tội phạm dâm ô đối với trẻ em ngày càng nhiều, hành vi
xâm hại ngày càng tinh vi, diễn biến phức tạp. Hậu quả của tội phạm dâm ô
đối với trẻ em không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, danh dự, nhân


2

phẩm mà còn tác động lâu dài, để lại hậu quả nặng nề về tâm sinh lý đối
với sự phát triển của trẻ em về sau.
Thực tiễn đấu tranh chống tội dâm ô đối với trẻ em thời gian qua cho
thấy dâm ô đối với trẻ em là loại tội phạm rất khó xử lý. Việc thu thập chứng
cứ để chứng minh đối với loại tội phạm này không hề đơn giản và luôn gặp
khó khăn. Trong quá trình giải quyết các vụ án dâm ô đối với trẻ em, các cơ

quan tiến hành tố tụng còn có những nhận thức khác nhau về các quy định của
pháp luật, dẫn đến quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ và đường lối
giải quyết vụ án. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác xét xử các
vụ án hình sự nói chung và các vụ án dâm ô đối với trẻ em nói riêng.
Đề tài nghiên cứu tội dâm ô đối với trẻ em trong pháp luật hình sự Việt
Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai, áp dụng có hiệu quả pháp
luật hình sự đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Do vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Tội dâm ô đối với trẻ em trong pháp
luật hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội dâm ô đối với trẻ em là tội phạm thuộc nhóm các tội phạm về tình
dục - một trong các nhóm tội xảy ra khá phổ biến trên thực tế. Qua nghiên
cứu, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu về tội dâm ô đối với trẻ em
được thực hiện theo các hướng sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu quy định của BLHS có nội dung
nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với trẻ em. Trong đó tiêu
biểu là: Trịnh Thị Thu Hương (2004), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trong luật hình sự Việt Nam và đấu tranh chống loại tội phạm này, Luận văn
thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Minh Hương
(2014), Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam, Luận
văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Lê Thị
Diễm Hằng (2016), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em – So sánh pháp luật


3

hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự một số nước, Luận văn thạc sỹ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các nghiên cứu
trên đây mới chỉ dừng ở việc chỉ ra các dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với
trẻ em trong mối liên hệ với các tội phạm tình dục khác trong BLHS mà chưa

đi sâu nghiên cứu cụ thể các dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với trẻ em.
Một số công trình có nội dung bình luận quy định về tội dâm ô đối với
trẻ em trong BLHS năm 1999 như: Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa
học chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999 (Tập 1), các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, NXB. Tư pháp, Hà
Nội; Trần Quốc Văn (2011), Cần sửa đổi các Điều 115 và Điều 116 Bộ
luật Hình sự hiện hành, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (09),
tr.34-36; Phạm Quang Huy (2016), Tội dâm ô với trẻ em: Một số thực
trạng và giải pháp pháp lý, Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu lập
pháp, (13), tr. 44-51,…
Thứ hai, các công trình nghiên cứu có nội dung liên quan về tội dâm ô
đối với trẻ em. Đây là các công trình nghiên cứu mà đối tượng nghiên cứu
trực tiếp không phải là tội dâm ô đối với trẻ em mà chỉ đề cập đến các nội
dung liên quan đến tội dâm ô đối với trẻ em. Trong đó có thể kể đến: Nguyễn
Ngọc Hòa (2001), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh
dự của con người - So sánh giữa Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự
năm 1985, Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, (01), tr.30-33; Trần Văn
Luyện (2001), Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1999,
(03), tr.65-71; Phạm Văn Báu (2002), Phạm tội đối với trẻ em – những vấn đề
lý luận thực tiễn, Tạp chí Luật học, (3), tr.3-8; Nguyễn Phương Lan (2013),
Hành vi xâm hại tình dục trẻ em và vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, (09), tr.23-31; Nguyễn Thị Ngọc Linh (2016), Khái niệm


4

giao cấu và hành vi quan hệ tình dục khác từ Điều 141 đến Điều 146 điểm mới của
Bộ luật hình sự năm 2015, Nghề luật, Học viện Tư pháp, (2), tr.61,…
Các công trình nghiên cứu trên đây ở những mức độ và phạm vi khác

nhau đều đã đề cập và bình luận về tội phạm dâm ô đối với trẻ em. Tuy
nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu
chuyên sâu về các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình
sự năm 2015 về vấn đề này. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những thành tựu
khoa học của các công trình nghiên cứu đã công bố, Luận văn tiếp tục tìm
hiểu, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận của pháp luật về tội dâm
ô đối với trẻ em, đồng thời đóng góp một công trình nghiên cứu chuyên sâu
về tội dâm ô đối với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và
Bộ luật hình sự năm 2015.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích đánh
giá các quy định của pháp luật Việt Nam về tội dâm ô đối với trẻ em trong
mối liên hệ với một số tội phạm khác.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn nghiên cứu các quy định của
BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 về tội dâm ô đối với trẻ em.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu nhằm làm rõ các đặc điểm của tội dâm ô đối với
trẻ em, các dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với trẻ em theo quy định hiện
hành, những điểm mới của trong quy định BLHS năm 2015 về tội dâm ô đối
với trẻ em. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá các quy định của BLHS năm 2015,
đồng thời đưa ra một số lưu ý khi triển khai thi hành các quy định này.
5. Các câu hỏi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu nhằm trả lời những câu hỏi sau:
- Dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với trẻ em được quy định trong
BLHS năm 1999 như thế nào ?


5

- Những điểm mới của của tội dâm ô đối với trẻ em trong BLHS năm

2015 so với BLHS năm 1999 là gì ?
- Những vấn đề vướng mắc về lý luận và thực tiễn khi triển khai thi hành
BLHS năm 2015 về tội dâm ô đối với trẻ em là gì ?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nội dung nghiên cứu và mục đích mà đề tài đặt ra, luận
văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin;
- Phương pháp hệ thống, phân tích, phương pháp lịch sử, đánh giá, tổng
hợp được sử dụng để nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của tội dâm ô
đối với trẻ em trong pháp luật hình sự;
- Phương pháp luật so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp đánh
giá, phương pháp bình luận, phương pháp thống kê, tổng hợp được sử dụng
để nghiên cứu quy định về tội dâm ô đối với trẻ em trong Bộ luật hình sự;
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải, phương pháp quy
nạp… được sử dụng để nghiên cứu về các yêu cầu hoàn thiện quy định pháp
luật về tội dâm ô đối với trẻ em, các giải pháp triển khai áp dụng quy định của
BLHS năm 2015 về tội dâm ô đối với trẻ em.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn được thực hiện với mong muốn của tác giả sẽ đóng góp một
công trình nghiên cứu chuyên sâu về tội dâm ô đối với trẻ em trong pháp luật
hình sự Việt Nam. Các vấn đề tác giả đưa ra trong luận văn nhằm đưa đến
cách nhận thức đúng đắn về bản chất của tội dâm ô đối với trẻ em trên cơ sở
phân tích những quy định của của BLHS Việt Nam năm 1999 và BLHS năm
2015. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa góp phần triển khai thi
hành quy định của BLHS năm 2015. Tác giả hi vọng luận văn sẽ là một tài


6


liệu tham khảo cho cho việc đào tạo và nghiên cứu cũng như cho việc xây
dựng và áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 2 chương, cụ thể:
Chương 1: Quy định về tội dâm ô đối với trẻ em trong Bộ luật hình sự
năm 1999.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và yêu cầu hoàn
thiện quy định về tội dâm ô đối với trẻ em


7

CHƢƠNG I
QUY ĐỊNH VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
1.1. Khái niệm chung về tội dâm ô đối với trẻ em
1.1.1. Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em
Theo quan điểm của Liên hợp quốc, trẻ em là đối tượng thuộc nhóm
yếu thế trong xã hội. Đây cũng chính là nhóm đối tượng dễ bị xâm hại bởi
các tội phạm khác nhau, trong đó có các tội phạm xâm hại tình dục. Các tội
phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em là nhóm tội phạm xảy ra khá phổ biến.
Tuy nhiên, thực tế giải quyết các vụ án liên quan đến tội phạm xâm hại
tình dục đối với trẻ em cho thấy, không phải lúc nào người áp dụng pháp
luật cũng có những nhận thức thống nhất về các quy định pháp luật liên quan
đến loại tội phạm này. Mặc dù bộ luật hình sự đã có quy định về các dấu
hiệu pháp lý của từng tội phạm nhưng trong một số trường hợp, việc nhận
thức hành vi phạm tội trong nhóm các tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ
em còn gặp khó khăn. Do vậy, để có thể hiểu đúng các tội phạm này thì cần
đi vào nghiên cứu cơ sở để nhà làm luật xây dựng các nhóm tội phạm này:

các hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em. Vậy hiểu như nào là xâm hại
tình dục đối với trẻ em ? Xâm hại tình dục trẻ em có đặc điểm gì khác với
các trường hợp xâm hại khác ?
Xét về ngữ nghĩa, “Xâm hại là xâm hại đến khiến cho bị tổn hại ” còn
“Tình dục là nhu cầu tự nhiên của con người về quan hệ tính giao”.1 Như
vậy về ngữ nghĩa xâm hại tình dục được hiểu là cách hành vi gây tổn hại đến
trẻ em về quan hệ tính giao.
Hiện nay, chưa có một định nghĩa thống nhất của quốc tế về khái niệm
xâm hại tình dục trẻ em. Mỗi quốc gia khác nhau lại tiếp cận về xâm hại tình

1

Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học Hà Nội, Đà Nẵng.


8

dục dưới một góc độ khác nhau. Đối với pháp luật Việt Nam thì xâm hại tình
dục trẻ em được hiểu là:
“Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép
buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục,
bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em
vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.”2
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì xâm hại tình dục trẻ em được hiểu
là việc dùng các thủ đoạn khác nhau như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép
buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục.
Trẻ em là đối tượng đang trong giai đoạn phát triển hoàn thiện bản thân
về mặt tâm lý và sinh lý, cho nên việc tiếp xúc với tình dục quá sớm sẽ gây
ra những ảnh hưởng nghiêm trọng cho trẻ em mà ngay cả bản thân họ vẫn
chưa nhận thức được. Hậu quả của việc thực hiện các hoạt động tình dục đối

với trẻ không chỉ gây tổn thương cơ thể và những hậu quả nhất thời mà còn
có thể ảnh hưởng rất lâu dài về sau này. Những hậu quả lâu dài này có thể
biểu hiện từ nhẹ cho đến những rối loạn rất nặng nề không chỉ liên quan đến
sức khỏe sinh sản mà còn liên quan đến khả năng học tập, khả năng hòa
nhập gia đình và xã hội cũng như đối với sức khỏe tâm thần của trẻ em. Do
vậy mà bất kì hành vi ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia các hoạt động
tình dục dưới mọi hình thức đều là xâm hại tình dục trẻ em, kể cả các trong
trường hợp sự đồng tình của trẻ em.
Hành vi xâm hại tình dục trẻ em rất đa dạng, được biểu hiệu dưới nhiều
hình thức khác nhau. Căn cứ vào một số tiêu chí có thể phân loại xâm hại tình
dục thành các dạng như sau:
Thứ nhất, căn cứ theo mục đích thì xâm hại tình dục được chia thành lạm
dụng tình dục và bóc lột tình dục.

2

Khoản 8 Điều 4 Luật trẻ em năm 2016


9

+ Lạm dụng tình dục trẻ em là các hành vi xâm hại tình dục với trẻ em
nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tình dục của chính người có hành vi xâm
hại. Lạm dụng tình dục trẻ em phổ biến ở các dạng: hiếp dâm trẻ em, giao cấu
với trẻ em, loạn luân (giữa cha/mẹ và con gái/trai), hành vi dâm ô (nhằm thoả
mãn dục vọng của mình, nhưng không có giao cấu)…
+ Bóc lột tình dục trẻ em là sử dụng trẻ em để thoả mãn dục vọng của
người lớn nhằm mục đích kiếm tiền, trục lợi. Bóc lột tình dục trẻ em phổ biến
ở dạng: mại dâm trẻ em, buôn bán trẻ em nhằm mục đích mại dâm, văn hoá
phẩm khiêu dâm, sử dụng hình ảnh trẻ em làm mục đích kinh doanh.

Thứ hai, căn cứ vào cách thức thực hiện hành vi xâm hại tình dục có thể
phân thành các dạng:
+ Hành vi xâm hại tình dục có sự tiếp xúc với cơ thể của trẻ em. Các
hành vi xâm hại ở dạng này có thể là các dạng xâm hại tình dục có thâm nhập
như giao cấu với trẻ em hoặc bằng các dạng không có thâm nhập như động
chạm vào các bộ phận trên cơ thể trẻ em…
+ Hành vi xâm hại tình dục không có sự tiếp xúc với cơ thể trẻ em. Các
hành vi xâm hại tình dục ở dạng này có thể là sử dụng trẻ em để trình diễn
khiêu dâm, sản xuất các ấn phẩm khiêu dâm, chứng kiến trẻ em thực hiện các
hành vi khiêu dâm hoặc buộc trẻ em phải chứng kiến các hành vi khiêu
dâm…
Có thể thấy các hành vi xâm hại tình dục trẻ em này đã xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm
đặc biệt là quyền được tôn trọng và bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ
em. Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của các hành vi xâm hại này mà
nhà làm luật tội phạm hóa các hành vi này thành các tội phạm cụ thể trong
BLHS. Đồng thời, các hành vi này cũng là căn cứ để phân biệt các loại tội
phạm trong nhóm các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.
1.1.2. Khái niệm về hành vi dâm ô đối với trẻ em


10

Dâm ô đối với trẻ em là một trong các dạng hành vi xâm hại tình dục đối
với trẻ em. Đây là một trong các dạng hành vi xâm hại tình dục trẻ em được
quy định là tội phạm từ rất sớm. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một văn
bản nào định nghĩa chính thức về khái niệm hành vi “dâm ô” cũng như “dâm
ô với trẻ em”.
Từ trước đến nay khái niệm “dâm ô” thường được viện dẫn theo Bản
tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về

mặt tình dục số 329-HS2 ngày ngày 11 tháng 5 năm 1967. Đây là văn bản đầu
tiên hệ thống các tội phạm xâm hại tình dục nói chung và xâm hại tình dục trẻ
em nói riêng.
Theo Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội
phạm khác về mặt tình dục số 329-HS2 thì hành vi dâm ô được hiểu là:
“Dâm ô tức là có hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không phải là
hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thỏa mãn tình dục của mình hoặc khêu
gợi bản năng tình dục người đó”3.
Như vậy theo hướng dẫn của Bản tổng kết 329-HS2 thì hành vi dâm ô là
các hành nhằm thỏa mãn tình dục của người phạm tội hoặc khêu gợi bản năng
tình dục của người khác mà không phải là hành vi “giao cấu”. Bản tổng kết
cũng ví dụ một số hành vi cụ thể được coi là dâm ô: “dùng tay sờ mó hoặc
kích thích bộ phận sinh dục, tác động dương vật vào những chỗ khác trong
thân thể người phụ nữ ngoài bộ phận sinh dục hoặc chỉ quệt bên ngoài bộ
phận sinh dục không có ý định ấn vào trong, ấn dương vật vào sau quần, cho
xuất tinh vào sau quần, bắt nạn nhân sờ mó bộ phận sinh dục của mình”4.
Bên cạnh định nghĩa được mô tả trong Bản tổng kết 329-HS2 thì khái
niệm “dâm ô” cũng được nêu ra trong một số tài liệu khoa học pháp lý.

3
4

Tòa án nhân dân tối cao, Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập I, Hà Nội, tr. 389, 389
Tòa án nhân dân tối cao, Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập I, Hà Nội, tr. 389, 389


11

Trong cuốn Từ điển luật học do Viện khoa học pháp lý biên tập thì dâm
ô được hiểu là :

“Hành vi xúc phạm nhân phẩm người khác nhằm kích thích hoặc thỏa
mãn tình dục, trừ hành vi giao cấu với chính người bị xúc phạm.
Dâm ô bao gồm nhiều loại hành vi khác nhau. Những hành vi này cùng
có đặc điểm chung là xúc phạm người khác qua hành vi bất kì có tính tình
dục, trừ hành vi giao cấu với chính người bị xúc phạm. Người bị xúc phạm
của hành vi dâm ô có thể là đối tượng của hành vi dâm ô (bị hành vi tình dục
tác động đến thân thể như bị sờ mó…hoặc bị buộc phải thực hiện hành vi tình
dục như phải sờ mó bộ phận sinh dục của người phạm tội…) hoặc có thể bị
buộc phải chứng kiến hành vi tình dục.”5
Định nghĩa trong cuốn Từ điển luật học tương đối giống so với Bản tổng
kết 329-HS2. Tuy nhiên theo định nghĩa này thì “dâm ô” lại là một hành vi
xúc phạm nhân phẩm người khác qua hành vi bất kì mang tính chất tình dục.
Còn trong cuốn Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập I của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì lại định nghĩa dâm ô là : “Hành vi tình dục nhưng không
phải là hành vi giao cấu”6. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập I của Trường
Đại học Luật Hà Nội cũng chỉ rõ hành vi dâm ô là các hành vi có đặc điểm
“thỏa mãn” nhu cầu của người thực hiện hoặc “khiêu gợi” nhu cầu tình dục.
Hành vi dâm ô có thể là hành vi tác động trực tiếp vào nạn nhân hoặc nạn
nhân cũng có thể là người trực tiếp chứng kiến các hành vi này.
Từ các định nghĩa trên về hành vi “dâm ô” có thể đưa ra khái niệm về
hành vi dâm ô với trẻ em như sau:
Dâm ô với trẻ em là các hành vi mang tính chất tình dục với trẻ em nhằm
thỏa mãn nhu cầu tình dục cuả người đó hoặc khêu gợi, kích thích nhau cầu

5

Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, (tập I), Nxb. Công an nhân dân,
tr.439
6



12

tình dục của trẻ em nhưng không phải là hành vi giao cấu. Hành vi dâm ô với
trẻ em bao gồm các hành vi tác động trực tiếp lên cơ thể của trẻ em (động
chạm vào cơ quan sinh dục, ngực của trẻ em…); buộc trẻ em tác động lên cơ
thể của người phạm tội hoặc người khác (cầm nắm, vuốt ve bộ phân sinh dục
của người phạm tội hoặc người khác…) hoặc bắt trẻ em trực tiếp chứng kiến
các hành vi dâm ô.
1.1.3. Khái niệm Tội dâm ô đối với trẻ em
Trong pháp luật hình sự Việt Nam chưa có khái niệm cụ thể về “Tội dâm
ô đối với trẻ em”, do vậy để xây dựng được khái niệm về Tội dâm ô đối với
trẻ em cần dựa trên khái niệm tội phạm được quy định trong BLHS.
Điều 8 BLHS năm 1999 đã đưa ra khái niệm về tội phạm như sau: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người
có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói
khái niệm tội phạm này là khái niệm có tính khoa học đã thể hiện tập trung
nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Nó không những là cơ sở khoa
học thống nhất cho việc xác định những loại tội phạm cụ thể trong phần các
tội phạm của BLHS mà nó còn là cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng
đắn những điều luật quy định về từng tội phạm cụ thể.
Từ khái niệm trên của tội phạm, có thể xác định khái niệm về Tội dâm ô
đối với trẻ em như sau: Tội dâm ô đối với trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự

thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của
trẻ em.


13

Nhìn chung, Tội dâm ô đối với trẻ em có những dấu hiệu pháp lý đặc
trưng sau:
Thứ nhất, về khách thể của tội dâm ô đối với trẻ em.
Khách thể của tội dâm ô đối với trẻ em là các quan hệ về nhân thân, cụ
thể là danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Để xâm hại đến khách thể này, tội
phạm xâm hại thông qua việc tác động đến đối tượng tác động của tội phạm,
đó là trẻ em (người dưới 16 tuổi).
Thứ hai, về mặt khách quan của tội dâm ô đối với trẻ em.
Hành vi của Tội dâm ô đối với trẻ em đặc trưng bởi hành vi dâm ô. Đây
là các hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em có tính chất nhằm thỏa mãn
hoặc khêu gợi nhu cầu tình dục của người phạm tội hoặc trẻ em nhưng không
phải là hành vi giao cấu.
Tội dâm ô đối với trẻ em là tội phạm có cấu thành hình thức, do vậy hậu
quả không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội danh đối với tội dâm ô đối
với trẻ em.
Thứ ba, về mặt chủ quan của tội dâm ô đối với trẻ em.
Lỗi đối với Tội dâm ô đối với trẻ em là lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi
dâm ô đối với trẻ em, người phạm tội nhận thức được hành vi dâm ô đối với
trẻ em của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi này để
thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình.
Thứ tư, về chủ thể của Tội dâm ô đối với trẻ em.
Theo quy định của BLHS năm 1985 trở về trước thì chủ thể của tội dâm
ô đối với trẻ em chỉ là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo
luật định và có hành vi dâm ô đối với trẻ em. Tuy nhiên, từ BLHS năm 1999

trở về sau thì chủ thể của tội phạm này ngoài thỏa mãn các điều kiện trên còn
phải là người đã thành niên (người từ đủ 18 tuổi trở lên).


14

1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với trẻ em trong quy
định của BLHS năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ VI thông
qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7
năm 2000). Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và
có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Tuy nhiên, nội dung quy định về tội dâm ô
đối với trẻ em vẫn không thay đổi. Điều 116 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 (nay gọi là BLHS năm 1999) quy định về tội dâm ô đối với
trẻ em như sau:
Điều 116. Tội dâm ô đối với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
ba năm đến bảy năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều trẻ em;
c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng,
thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Tội dâm ô đối với trẻ em thuộc nhóm tội xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con người. Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là
những hành vi cố ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng về nhân phẩm,


15

danh dự. Theo quy định tại Điều 116 BLHS năm 1999 thì tội dâm ô đối với
trẻ em có các dấu hiệu pháp lý sau đây:
1.2.1. Các dấu hiệu định tội
Các dấu hiệu định tội là các dấu hiệu đặc trưng điển hình, phản ánh
được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm, để phân biệt tội phạm này với tội
phạm khác cũng như để phân biệt giữa trường hợp là tội phạm với trường
hợp không phải là tội phạm. Đó là các dấu hiệu được quy định trong cấu
thành tội phạm cơ bản của tội phạm cụ thể được ghi nhận tại Phần các tội
phạm của BLHS. Theo quy định tại Điều 116 BLHS năm 1999, tội dâm ô
đối với trẻ em có các dấu hiệu định tội như sau:
1.2.1.1 Khách thể của tội dâm ô đối với trẻ em
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị hành vi phạm tội xâm hại. Với ý nghĩa là những quan hệ xã hội bị
tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gậy thiệt hại, khách thể của tội phạm là
một trong bốn yếu tố cấu thành có vị trí đặc biệt. Không có khách thể của tội
phạm thì sẽ không có tội phạm7. Việc nghiên cứu khách thể của tội phạm có
ý nghĩa quan trọng trong việc việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội cũng như đối với việc định tội danh và quyết định hình
phạt trên thực tế.
Khách thể của tội phạm là cơ sở cho việc hệ thống hóa các quy phạm
pháp luật trong Phần các tội phạm của BLHS. Các tội phạm xâm hại cùng
nhóm quan hệ xã hội thì được xếp vào cùng một chương trong BLHS.
Tội dâm ô đối với trẻ em lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình

sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997 (là lần sửa đổi thứ 4 của BLHS năm
1985). Trong đó tội dâm ô đối với trẻ em được quy định tại Điều 202b thuộc
Chương VIII – “Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản
lý hành chính”. Như vậy, tội dâm ô đối với trẻ em thuộc nhóm các tội phạm
7

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam Tập 1, NXB. Công an nhân dân


16

xâm phạm đến trật tự công cộng, khách thể của tội dâm ô đối với trẻ em
được xác định là trật tự công cộng.
Khi BLHS năm 1999 được ban hành, nhà làm luật đã chuyển tội dâm ô
đối với trẻ em từ chương “Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và
trật tự quản lý hành chính” về chương “Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”.
Đây là một trong những điểm mới của BLHS năm 1999 so với BLHS
năm 1985, thể hiện sự thay đổi nhận thức mới về tội dâm ô đối với trẻ em,
đảm bảo tính logic, khoa học, chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp và phù hợp với
tình hình hình thực tế, diễn biến thực tế của tội phạm. Qua thực tiễn đấu
tranh chống tội phạm dâm ô đối với trẻ em và về mặt lí luận thì hành vi dâm
ô xâm hại trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm của trẻ em, ảnh hưởng đến sự
phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em. Hành vi dâm ô mặc dù có
thể xâm phạm đến thuần phong mỹ tục của Việt Nam nhưng đối tượng chính
của tội phạm là con người. Chủ thể của hành vi dâm ô đã coi con người như
phương tiện để thỏa mãn một cách bất hợp pháp nhu cầu tình dục của mình.
Chính vì vậy, việc xếp tội dâm ô đối với trẻ em vào chương các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người và cụ thể là
nhóm các tội xâm hại đến danh dự, nhân phẩm con người là hoàn toàn hợp

lý.8
Theo đó, tội dâm ô đối với trẻ em được quy định trong BLHS năm
1999 tại Chương XII – “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự, của con người”. Khách thể của tội dâm ô đối với trẻ em là quyền
được tôn trọng nhân phẩm, danh dự và cụ thể là quyền được phát triển bình
thường về tình dục của trẻ em.

8

Nguyễn Ngọc Hòa (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người – so
sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 1985, Tạp chí Luật học, số 1,


17

Là yếu tố quan trọng của tội phạm nhưng khách thể của tội phạm không
phải luôn được mô tả đầy đủ trong các cấu thành tội phạm. Trong cấu thành
tội phạm thường chỉ mô tả đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác
động của tội phạm là một bộ phận quan trọng của khách thể bị tội phạm trực
tiếp tác động, qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể
của tội phạm. Theo nguyên tắc này, cấu thành tội phạm của tội dâm ô đối
với trẻ em không mô tả khách thể vào trong quy định của điều luật mà chỉ
mô tả đối tượng tác động của tội phạm. Theo tội danh và mô tả trong điều
luật thì đối tượng tác động của tội dâm ô đối với trẻ em là trẻ em. Thông qua
việc tác động đến trẻ em mà người phạm tội xâm phạm khách thể của tội
phạm.
Trẻ em là đối tượng tác động của tội dâm ô đối với trẻ em nhưng trong
BLHS năm 1999 lại không đưa ra định nghĩa về khái niệm cũng như cách
xác định trẻ em. Việc xác định đối tượng tác động trẻ em được viện dẫn căn
cứ vào các quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành tương ứng là Luật

bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, sửa đổi bổ sung năm 2004.
Theo luật này trẻ em được hiểu là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Trẻ em theo quy định tại Điều 116 BLHS năm 1999 có thể được hiểu là
cả trẻ em nam hoặc trẻ em nữ, điều kiện duy nhất là các em trong độ tuổi
“dưới 16 tuổi”.
Hiện nay, việc xác định tuổi của trẻ em thường được căn cứ theo hướng
dẫn tại phần IX Nghị quyết số 02/HĐTP ban hành ngày 05 tháng 1 năm
1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về “Hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự” (Nghị quyết số 02/HĐTP). Nghị
quyết số 02/HĐTP mặc dù không trực tiếp quy định về cách xác định độ tuổi
của trẻ em nhưng đã hướng dẫn xác định trường hợp “đủ 16 tuổi”. Theo đó,
độ tuổi của trẻ em phải xác định theo tuổi tròn. Ví dụ: Trường hợp người
sinh ngày 01 tháng 1 năm 2000 thì đến ngày 01 tháng 1 năm 2016 mới đủ 16


18

tuổi. Để xác định chính xác ngày, tháng, năm sinh của trẻ em, phải căn cứ
vào các tài liệu hợp pháp như giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình, các giấy
tờ, tài liệu khác… Các tài liệu này phải được thu thập theo trình tự, quy định
của pháp luật.
Trong trường hợp đã tiến hành các biện pháp hợp pháp mà không xác
định chính xác ngày tháng năm sinh của của trẻ em thì theo hướng dẫn tại
Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BLĐTBXH
ngày 12 tháng 07 năm 2011 của Viện kiểm sát nhân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội “Hướng dẫn thi
hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người tham gia tố
tụng là người chưa thành niên”, tuổi của trẻ em được xác định như sau:
“Trường hợp xác định tháng sinh cụ thể, nhưng không xác định được
ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày

sinh;
Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định
được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của
quý đó làm ngày sinh;
Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm,
nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa
cuối năm đó thì lấy ngày mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng
Bảy tương ứng của năm đó làm ngày sinh;
Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định
được ngày tháng sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm
ngày sinh.
Trường hợp không xác định được năm sinh của người bị hại là người
chưa thành niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.”9

9

Điều 12 Chương 3 - Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công An, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động Thương binh Xã hội


19

1.2.1.2 Mặt khách quan của tội dâm ô đối với trẻ em
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, những biểu
hiện khác của mặt khách quan như thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội,
công cụ phương tiện phạm tội…10. Tuy nhiên, không phải dấu hiệu nào của
mặt khách quan cũng được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản. Việc

mô tả các dấu hiệu thuộc mặt khách quan ở tội phạm cụ thể phụ thuộc vào
bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng như để đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm đó. Trong các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan chỉ có duy nhất hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc phải
có ở tất cả cấu thành tội phạm cơ bản. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách
quan chỉ được quy định là dấu hiệu bắt buộc ở một số tội phạm.
Đối với tội dâm ô đối với trẻ em, dấu hiệu thuộc mặt khách quan của
tội phạm được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản là hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm tội phạm cơ bản.
Về dấu hiệu hành vi.
Trong quy định của điều luật, nhà làm luật chỉ nhắc lại tội danh mà
không mô tả cụ thể hành vi dâm ô là như thế nào. Việc không mô tả hành vi
dâm ô trong quy định điều luật xuất phát từ văn hóa pháp lý hình sự của Việt
Nam: tránh quy định các thuật ngữ mang tính nhạy cảm vào trong BLHS và
nếu có quy định thì chỉ mô tả trong các văn bản hướng dẫn.
Hiện nay, về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử ở nước ta đều
thừa nhận khái niệm “dâm ô” theo hướng dẫn tại Bản tổng kết và hướng dẫn
đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập I, Nxb. Công an nhân dân.


20

329-HS2 ngày 11 tháng 5 năm 1967 (sau đây gọi tắt là Bản tổng kết 329)
của TAND tối cao. Đây là văn bản đầu tiên cũng là văn bản duy nhất hướng
dẫn một cách hệ thống và chi tiết về hành vi dâm ô.
Theo Bản tổng kết 329 thì dâm ô được hiểu là: “hành vi bỉ ổi đối với

người khác, tuy không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thỏa mãn
tình dục của mình hoặc khêu gợi bản năng tình dục người đó”11.
Như vậy, hành vi dâm ô đối với trẻ em được hiểu là các hành vi tình
dục có tính chất thỏa mãn nhu cầu tình dục hoặc khêu gợi nhu cầu tình dục
của người phạm tội hoặc cũng có thể chỉ khêu gợi bản năng tình dục của của
trẻ em nhưng không phải là hành vi giao cấu.
Dạng cụ thể của dâm ô có thể là các hành vi như sờ mó các bộ phận
nhạy cảm trên cơ thể trẻ em như ngực, bộ phận sinh dục…; tiếp xúc bộ phận
sinh dục của người phạm tội với các bộ phận trên cơ thể của trẻ em; hoặc
cho trẻ em tiếp xúc với các bộ phận trên cơ thể của người phạm tội hoặc chỉ
là chứng kiến bộ phận sinh dục của người phạm tội.
Ví dụ: “ hoảng 01 giờ 50 phút ngày 30/6/2016, em Danh Hoàng T sinh
ngày 15/10/2001 đang ngủ trên gác nhà số 21/8 Bùi Thế Mỹ, phường 10,
quận Tân Bình thì cảm thấy đau ở vùng ngực, tưởng là em mình đạp trúng
nên quay người sang hướng khác ngủ tiếp. Sau đó, em T cảm thấy có người
dùng tay sờ vào bộ phận sinh dục của mình (bên ngoài quần) nên quay lại thì
phát hiện Danh Trung Hiếu hàng xóm của gia đình em T nên la lên. Lúc này,
ông L là cha ruột của em T ở dưới nhà chạy lên thì thấy Hiếu đang ở trên gác
với T, ông L dùng tay đánh vào mặt Hiếu rồi đuổi Hiếu về. Sau đó, gia đình
em T đã trình báo lên cơ quan công an. Hiếu bị bắt và bị tuyên phạt 9 tháng
tù về tội dâm ô đối với trẻ em.12 Trong trường hợp này, để thỏa mãn nhu cầu
tình dục của mình Hiếu đã thực hiện hành vi động chạm vào các bộ phận
11

Tòa án nhân dân tối cao, Hệ thống luật lệ về hình sự, tập I, tr.389.
Bản án hình sự sơ thẩm số 273/2016/HSST ngày 25 tháng 10 năm 2016 của TAND thành phố Hồ Chí
Minh
12



21

nhạy cảm của em T (ngực và bộ phận sinh dục của em T). Đây được xác
định là hành vi dâm ô đối với trẻ em.
Hành vi dâm ô không chỉ dừng lại ở việc tiếp xúc, động chạm giữa các
bộ phận trên cơ thể của người phạm tội và trẻ em mà còn có thể là việc để
cho trẻ em chứng kiến các hành vi tình dục của người phạm tội hoặc của
người khác. Việc để cho trẻ em chứng kiến các hành vi tình dục của người
phạm tội hoặc của người khác tuy không tác động trực tiếp đến cơ thể của
trẻ em nhưng cũng có thể khơi gợi nhu cầu tình dục của trẻ em, gây ra những
ảnh hướng xấu đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em. Do
vậy, đây cũng được coi là một dạng của hành vi dâm ô đối với trẻ em. Cần
lưu ý đối với trường hợp cho trẻ em chứng kiến các hành vi tình dục của
người khác thì việc chứng kiến này phải là trực tiếp mới cấu thành tội dâm ô
đối với trẻ em. Trường hợp trẻ em không trực tiếp chứng kiến mà gián tiếp
qua phim ảnh, sách báo, tài liệu khiêu dâm…thì hành vi này không phải là
dâm ô đối với trẻ em.
Hành vi dâm ô đối với trẻ em dù trực tiếp hay không trực tiếp tác động
vào thân thể trẻ em thì cũng đều gây ra những hậu quả xấu đối với trẻ em.
Trẻ em do đặc điểm tâm sinh lý còn chưa phát triển đầy đủ nên việc tiếp xúc
hoặc thực hiện các hoạt động liên quan đến tình dục sớm sẽ gây ảnh hưởng
đến trẻ em về cả thể xác lẫn chấn thương về tâm lý. Do vậy, dù chỉ là thực
hiện các hành vi tình dục (không bao gồm hành vi giao cấu) đối với trẻ em
thì đều bị coi là nguy hiểm cho xã hội.
Khi đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi dâm ô đối với trẻ
em thì cần đặt ra một vấn đề, đó là thái độ của trẻ em đối với các hành vi
này. Hành vi dâm ô có buộc phải là hành vi trái ý muốn đối với trẻ em hay
không? Liên quan đến vấn đề thái độ của nạn nhân đối với hành vi dâm ô
đối với trẻ em, Bản tổng kết 329 đã hướng dẫn :



×