Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

KIỂU NHÂN VẬT NGƯỜI VỢ THÔNG MINH TÀI TRÍ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA MỘT SỐ TỘC NGƯỜI MIỀN BẮC VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.37 KB, 146 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với lòng thành kính và biết ơn sâu sắc nhất, em xin dành trang đầu tiên
của luận văn này để gửi lời cảm ơn của mình tới Khoa Ngữ văn và các Giáo
sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ văn học, những người đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ,
tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa học và thực hiện đề tài của mình .
Đặc biệt, em xin được bày tỏ tình cảm biết ơn chân thành nhất tới
TS. Nguyễn Việt Hùng – người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt
thời gian làm luận văn. Thầy không chỉ hướng dẫn cho em tìm hiểu kiến
thức về chuyên nghành mà còn truyền dạy cho em những bài học kinh
nghiệm trong cuộc sống. Đó thực sự là những bài học quý giá và mãi là
hành trang để em mang theo suốt cuộc đời.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan ở tỉnh Hải Dương: Thư viện
tỉnh, Trường THPT Quang Trung đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành
luận văn này.
Xin gửi lời tri ân tới những người thân yêu luôn sát cánh bên tôi, tận
tâm giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn
Vũ Thị Hưng


MỤC LỤC
Trang
PHỤ LỤC


A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Lí do khoa học
Thế giới lung linh kì ảo trong những câu chuyện cổ tích là suối nguồn
trong mát nuôi dưỡng tâm hồn biết bao thế hệ người Việt. Thế giới cổ tích ấy


dù có thể không có thực nhưng đó là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu được
của mỗi con người. Có thể nói cổ tích đã nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc từ thuở
còn bé thơ cho đến khi trưởng thành. Nó trở thành nơi cất cánh cho những
giấc mơ cao đẹp mà bình dị, cất cánh cho công lí được thực thi, cho những
tâm hồn thánh thiện được tôn vinh... Ở thế giới kì lạ và quen thuộc ấy, có biết
bao nhân vật đã để lại những xúc cảm mạnh mẽ cho trẻ thơ và cũng có biết
bao nhân vật đã để lại bài học sâu sắc, khó quên cho người lớn.
Đối với những người thưởng thức, truyện cổ tích nâng cánh những ước
mơ, cho ta niềm tin yêu hi vọng vào cuộc sống và có thêm nghị lực để vượt
qua thử thách. Còn đối với các nhà nghiên cứu, thế giới cổ tích thực sự là một
kho tàng vô giá đặt ra nhiều vấn đề cần xem xét, đánh giá. Một trong những
phương thức nghệ thuật được chú ý là phương diện xây dựng hệ thống nhân
vật. Đây là một yếu tố hấp dẫn thuộc thi pháp truyện cổ tích được các nhà
nghiên cứu quan tâm, đào sâu tìm hiểu.
Khảo sát hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích là một trong những hướng
đi đúng đắn và được nhiều nhà nghiên cứu Folklore lựa chọn. Những công trình
như “Truyện cổ tích Nga, về nhân vật phù thủy Baba Yaga” của I.I. Tonxtoi
(1941), “Nhân vật truyện cổ tích thần kì. Xuất xứ của hình tượng” của E.M. Mêlê-tin-xki… đã gây được tiếng vang lớn trong giới nghiên cứu văn học dân gian.
Ở nước ta cũng rất nhiều đề tài đã được khai thác theo hướng đó như: “Nhân vật
xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam” - Nguyễn Thị Huế; "Thạch
Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á"- Nguyễn
Bích Hà; “Nhân vật trí xảo trong truyện cổ tích Việt Nam” – Đặng Thị Thu Hà;
1


“Kiểu nhân vật “Chàng Ngốc” trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam” –
Phạm Thu Yến; “Kiểu truyện nhân vật thông minh trong tiểu loại cổ tích sinh
hoạt người Việt” – Phạm Thị Thu Huyền….
Nhân vật trong truyện cổ tích rất phong phú tuy nhiên kiểu nhân vật về
người vợ là một trong số những kiểu nhân vật có vai trò và vị trí lớn trong thể

loại cổ tích đặc biệt là những người vợ thông minh, tài trí. Đây là lí do thứ
nhất để người viết lựa chọn đề tài: “Kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí
trong truyện cổ tích của một số tộc người miền Bắc Việt Nam”.
2. Lí do thực tiễn
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở trường THPT, người viết
nhận thấy việc giảng dạy các tác phẩm văn học dân gian theo đặc trưng thể
loại là rất quan trọng. Vốn các tác phẩm văn học dân gian có những nét riêng
biệt tạo nên ranh giới khá rõ ràng với văn học viết như tác giả, phương thức
lưu truyền, hình thức diễn xướng, nội dung phản ánh cũng như hình thức nghệ
thuật nên giảng dạy văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng
đòi hỏi phải gắn liền với đặc trưng thể loại. Tìm hiểu truyện cổ tích và kiểu
nhân vật, đặc biệt là kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí là một cách để
chúng tôi đi sâu khai thác đặc trưng của thể loại này. Việc đi sâu nghiên cứu
đề tài: “Kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí trong truyện cổ tích của
một số tộc người miền Bắc Việt Nam” sẽ góp phần thiết thực trong việc
hướng dẫn học sinh khám phá và tìm hiểu thể loại truyện cổ tích, qua đó các
em sẽ có cái nhìn toàn diện và hệ thống hơn về thể loại văn học dân gian đặc
sắc này. Đây chính là lí do thứ hai để người viết lựa chọn đề tài: “Kiểu nhân
vật người vợ thông minh tài trí trong truyện cổ tích của một số tộc người
miền Bắc Việt Nam”.
Chúng tôi hi vọng rằng, nghiên cứu đề tài này sẽ là một cơ hội để trình
bày một hướng khám phá mới về một kiểu nhân vật trong thể loại cổ tích,

2


cũng là một cơ hội để tri ân những người phụ nữ, những đấng sinh thành có
nhiều công lao nuôi nấng, dạy dỗ mình nên người và phần nào bày tỏ tình
cảm của mình với những “viên ngọc quý” trong di sản tinh thần của cha ông.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Truyện cổ tích thuộc loại hình tự sự dân gian ra đời trong lòng xã hội
nguyên thủy và kéo dài đến giai đoạn sau, khi xã hội xuất hiện đấu tranh giai
cấp và tư hữu tài sản. Truyện cổ tích vì vậy mà trở thành nơi để người bình dân
xưa gửi gắm những ước mơ, sẻ chia và cùng hướng tới tương lai tươi sáng. Từ
trước tới nay đã có một số lượng to lớn các công trình nghiên cứu về truyện cổ
tích từ những bài viết, chuyên đề, chuyên luận, công trình lớn… nghiên cứu
truyện cổ tích từ nhiều góc độ và bình diện khác nhau. Song dù lớn hay nhỏ,
công trình nào cũng khẳng định được vẻ đẹp nhân văn, giá trị văn học và đóng
góp quan trọng của thể loại này trong kho tàng văn học dân tộc.
1. Nghiên cứu về kiểu nhân vật
Những công trình nghiên cứu về kiểu nhân vật, kiểu truyện hay là nghiên
cứu văn học dân gian từ các típ và mô típ những năm gần đây đã mang đến cho
người đọc cái nhìn toàn diện, thuyết phục ở nhiều góc độ như văn hóa, dân tộc
học, ngữ văn học...
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ xin lược điểm tình hình
nghiên cứu về kiểu nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam như sau:
Trong cuốn Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974) của tác
giả Cao Huy Đỉnh, rất nhiều vấn đề đã được bàn luận trong đó có vấn đề nhân
vật của truyện cổ tích và các hình tượng nhân vật như Trương Chi, Hà Ô
Lôi...được tác giả nhắc tới với số phận của một loại người xấu xí, thấp hèn và bị
ngược đãi. Ông được coi là người tiên phong nghiên cứu thành công kiểu nhân
vật trong truyện cổ tích. Đây là những nguồn tài liệu quý giá mà nhờ vào đó,
chúng tôi có thêm cơ sở lí luận và phương pháp để triển khai đề tài của mình.

3


Đến năm 1983, nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn với công trình Văn học
dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam [34], trong chương bốn bàn về truyện
cổ tích các dân tộc, tác giả đã khảo sát các hình tượng nhân vật trung tâm trong

đó có hình tượng nhân vật Chàng trai khỏe, Người bất hạnh (mồ côi, con riêng,
con út bị tách khỏi cuộc sống cộng đồng, bị ruồng rẫy)... Mặc dù tác giả mới
chỉ dừng lại ở khảo sát và nhận xét sơ bộ, song phần nào những hình tượng
nhân vật mà tác giả đưa ra đã phản ánh nhận thức của dân gian về những vấn
đề xã hội, về sự phân hóa giai cấp, đồng thời cũng phản ánh tính sáng tạo nghệ
thuật, chất mĩ học sâu sắc chứa đựng trong những hình tượng nhân vật đó. Dựa
vào đây, chúng tôi có thêm cơ sở và nguồn tư liệu để giải quyết vấn đề cho đề
tài của mình.
Trong luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn: "Nhân vật xấu xí mà tài ba
trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam" của Nguyễn Thị Huế (1996) [17],
tác giả đã nghiên cứu công phu về nhân vật xấu xí tài ba trên các phương diện
như: nguồn gốc, đặc điểm thẩm mĩ, đặc điểm nội dung phản ánh xã hội...Qua
đó, tác giả lí giải về một hình tượng nhân vật đặc thù trong truyện cổ tích Việt
Nam và cũng là phổ biến trên thế giới.
Mặc dù luận án chưa đề cập đến kiểu nhân vật người vợ thông minh tài
trí song đã có phần đề cập đến nhân vật người mang lốt là biểu hiện đặc trưng
của dạng truyện kể về nhân vật xấu xí mà tài ba. Đây cũng chính là một thông
tin rất quý giá cho chúng tôi khi đi tìm hiểu về nguồn gốc nhân vật người vợ
thông minh tài trí trong tiểu loại cổ tích thần kì.
Năm 1999, bài viết về "Những đặc điểm thi pháp của truyện cổ tích"
trong cuốn Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian của tác
giả Đỗ Bình Trị đã bàn về các kiểu nhân vật trong truyện cổ tích. Trong đó
nhóm truyện cổ tích thần kì thì có những kiểu nhân vật chính là : Người em út,
Người con riêng, Người mồ côi, Người mang lốt vật, Người đi ở, Người dũng

4


sĩ, Nhóm người có tài lạ...; nhóm truyện cổ tích sinh hoạt có bốn kiểu nhân vật
chính là : Nhân vật đức hạnh, Nhân vật xấu xa, Nhân vật mưu trí, Nhân vật khờ

khạo. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra tiêu chuẩn để xác định "nhân vật tích
cực" và "nhân vật tiêu cực" trong truyện cổ tích.
Mặc dù tác giả mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những kiểu nhân vật chính
song những vấn đề về lí luận của bài viết đã góp phần định hướng cho chúng
tôi đi sâu tìm hiểu về kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí trong truyện cổ
tích thuận tiện hơn.
Trong bài viết: Kiểu nhân vật “Chàng Ngốc” trong truyện cổ tích các
dân tộc Việt Nam (Tạp chí văn học số 4/2002) [54], tác giả Phạm Thu Yến đã
đưa ra nhận định khái quát đối với kiểu truyện về nhân vật chàng Ngốc, sau
đó tác giả nghiên cứu cụ thể về kiểu nhân vật chàng Ngốc trong truyện cổ tích
sinh hoạt thông qua cốt truyện và kết cấu.
Bài viết đã gợi mở cho chúng tôi cách tiếp cận cụ thể khi nghiên cứu về
kiểu nhân vật trong truyện cổ tích, đặc biệt là trong mối tương quan giữa kiểu
nhân vật ngốc với những kiểu nhân vật khác.
Năm 2008, thực hiện khóa luận tốt nghiệp, tác giả Nguyễn Thị Thu
Oanh đã nghiên cứu đề tài “Khảo sát các kiểu nhân vật chính trong truyện cổ
tích sinh hoạt người Việt”, tác giả đã chỉ ra hệ thống nhân vật chính trong
truyện cổ tích sinh hoạt bao gồm: Kiểu nhân vật đức hạnh; Kiểu nhân vật xấu
xa, xảo trá; Kiểu nhân vật thông minh; Kiểu nhân vật khờ khạo ngốc nghếch.
Mặc dù nhân vật người vợ thông minh hiện lên khá mờ nhạt, chủ yếu
nằm trong kiểu nhân vật thông minh của đề tài nhưng kết quả khảo sát của tác
giả cũng là tư liệu giúp chúng tôi định hướng, phân loại chính xác hơn trong
quá trình thực hiện đề tài của mình.
Năm 2011, tác giả Phạm Thị Thu Huyền nghiên cứu luận văn thạc sĩ
với đề tài: Kiểu nhân vật thông minh trong truyện cổ tích sinh hoạt người

5


Việt. Tác giả đã tập trung vào khảo sát và tìm ra các đặc điểm của nhân vật

thông minh từ đó tìm hiểu kết cấu cốt truyện và vấn đề xây dựng kiểu nhân vật
thông minh trong tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt người Việt.
Qua 34 truyện người viết khảo sát và sử dụng làm ngữ liệu để phân
tích, chúng tôi nhận thấy những truyện viết về nhân vật nữ thông minh chiếm
vị trí rất khiêm tốn là 5/34 truyện, chiếm 14.7% và tác giả chỉ tập trung vào
nghiên cứu ba đối tượng là “Em bé thông minh”; “ Nhóm nhân vật thông
minh dùng mưu mẹo tham gia kén rể” và “Nhóm thông minh dùng mưu mẹo
xét xử” thường là những ông quan Trạng. Vì vậy hình ảnh người phụ nữ thông
minh tài trí vẫn còn là “mảnh đất trống” để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu, khai
thác và thực hiện đề tài của mình.
Năm 2012, tác giả Nguyễn Thị Tâm đã thực hiện luận văn thạc sĩ của
mình với đề tài: “Kiểu nhân vật ngốc nghếch trong truyện cổ tích sinh hoạt
người Việt”. Tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa nhân vật ngốc nghếch với
nhân vật khác đặc biệt là người thông minh trong đó với người vợ và với thầy
đồ. Trong mối quan hệ giữa nhân vật ngốc với vợ, nếu ngốc vô tích sự, đần
độn, lêu lổng bao nhiêu thì vợ ngốc thông minh, tháo vát bấy nhiêu.
Nhờ vào luận văn này, chúng tôi phần nào đã có được nguồn tư liệu để
từ đó đi tìm nhân vật “người vợ thông minh tài trí” được thuận tiện hơn.
Qua quá trình tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu kiểu nhân vật, chúng tôi
nhận thấy tài liệu về kiểu nhân vật trong truyện cổ tích đã được nhiều tác giả
đề cập tới trong các giáo trình, các luận án, luận văn, báo cáo khoa học. Ở mỗi
kiểu nhân vật, hầu hết các tác giả đều tập trung làm sáng tỏ được nguồn gốc,
đặc điểm, vai trò của kiểu nhân vật trong từng tiểu loại truyện cổ tích nói
riêng hoặc truyện cổ tích nói chung. Đây là một hướng nghiên cứu rất tích cực
và phổ biến trên thế giới. Những nghiên cứu này đã góp phần lí giải một số
kiểu nhân vật trong truyện cổ tích và định hướng cho những nghiên cứu tiếp

6



theo về biết bao kiểu nhân vật đặc thù khác còn tiềm ẩn nhiều vấn đề tư tưởng
và nội dung xã hội mà chưa được khai thác của hệ thống kiểu nhân vật trong
truyện cổ tích Việt Nam.
2. Nghiên cứu về người vợ, người phụ nữ trong truyện cổ tích
Cùng với các kiểu nhân vật khác, kiểu nhân vật người vợ, người phụ nữ
trong truyện cổ tích Việt Nam cũng đã từng được các nhà nghiên cứu đề cập
tới trong rất nhiều công trình nghiên cứu.
Trong bài viết của Nguyễn Đổng Chi, ông đã nghiên cứu và phân tích
về sáu kiểu nhân vật nữ trong truyện cổ tích (nữ kiệt, nữ quái, nữ thức tỉnh, nữ
liệt, nữ trí, nữ nhẫn nại) và đánh giá họ như nhân vật trong văn học trung đại.
Bàn về nhân vật “nữ trí” ông viết: “ Họ bị đặt vào những tình cảnh nguy ngập,
tuyệt vọng, có khi tan nát gia đình, có khi bị phụ bạc, bị lừa đảo, có khi chồng
con gặp nạn hiểm, có khi mình bị đe dọa tính mạng nhưng không ai chịu
buông xuôi theo số phận. Bằng đức tính bền bỉ hiếm có và sự khôn ngoan rất
mực, họ đã xoay đổi lại tình thế, giành được phần thắng cuối cùng về mình.
Ví dụ người vợ chàng thương nhân trong “Con mụ Lường”, vợ chàng Dê
trong “Lấy chồng Dê”, vợ anh lái buôn trong “Người đàn bà bị vu oan”, vợ cũ
của chàng Vạn Lịch trong “Đồng tiền Vạn Lịch”, vợ chàng ngốc trong “Bợm
già mắc bẫy hay là mưu trí đàn bà”.
Đây là những gợi ý rất quan trọng để chúng tôi mở rộng phạm vi tìm
hiểu về nhân vật người vợ thông minh tài trí không chỉ giới hạn trong “Kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi mà rộng hơn là trong
truyện cổ tích của các dân tộc Việt Nam.
Trong cuốn “Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam” phần Văn học dân
gian, tác giả Đinh Gia Khánh đã dành cho hình tượng người phụ nữ trong
truyện cổ tích tình cảm trừu mến, trân trọng khi khẳng định rằng: “Truyện cổ
tích thế sự đã miêu tả người phụ nữ bình thường với phẩm chất cũng rất đáng

7



phục”. Sau đó ông minh họa bằng một loạt những tấm gương về người vợ
trong truyện cổ tích và nhận xét: “ Có những truyện trong đó, vai trò của
người phụ nữ lại nổi bật hơn người đàn ông, phản ánh một phẩm chất kiên
cường hơn người đàn ông. Khi thì người vợ đã cứu chồng, làm tất cả để bảo
vệ hạnh phúc (Phạm Tải – Ngọc Hoa). Khi thì người vợ thanh minh, bảo vệ,
che chở cho người chồng dại dột (Bợm già mắc bẫy cò ke). Khi thì người vợ
dạy dỗ chồng (Giết chó khuyên chồng, Con vợ khôn lấy thằng chồng dại như
bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu)…”
Mặc dù không đi sâu vào tìm hiểu vai trò của người vợ thông minh tài
trí nhưng một khía cạnh nhận xét của tác giả là gợi ý rất quý giá cho chúng
tôi đi tìm hiểu kiểu nhân vật người vợ thông minh trong mối quan hệ với kiểu
nhân vật người vợ trong truyện cổ tích Việt Nam.
Năm 1999, trong cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” do tác giả Lê Chí
Quế chủ biên, nhà nghiên cứu cũng đề cập đến kiểu truyện này trong truyện
cổ tích sinh hoạt. Theo tác giả, nhóm truyện về người thông minh và anh
chàng ngốc đặt cạnh nhau tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với truyện cổ tích
sinh hoạt.
Nhóm truyện về “người thông minh” mà tác giả đề cập trong giới hạn
tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt phần nào giúp chúng tôi hiểu được mối quan
hệ bổ sung giữa nhân vật thông minh trong đó có “người vợ thông minh” với
“chàng Ngốc”.
Năm 2010, báo cáo khoa học “Bước đầu khảo sát kiểu nhân vật người
vợ trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi” của
Trần Thị Thu Hương đã chia nhân vật người vợ trong Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam thành sáu nhóm là : Nhóm nhân vật người vợ đức hạnh, thủy chung;
Nhóm nhân vật người vợ xấu xa, bội bạc; Nhóm nhân vật người vợ thông
minh tài trí; Nhóm nhân vật người vợ giàu nghị lực và có khí phách phi

8



thường; Nhóm nhân vật người vợ nhẹ dạ, nhu nhược; Nhóm nhân vật người
vợ biết đứng dậy đấu tranh giành lại hạnh phúc và công lí. Tuy báo cáo mới
chỉ dừng lại ở “ bước đầu ” như lời của tác giả và chỉ giới hạn trong “Kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi nhưng báo cáo đã gợi
mở hướng tiếp cận cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Năm 2012, cuốn từ điển Type truyện dân gian Việt Nam của Hội văn
nghệ dân gian Việt Nam do PGS. TS. Nguyễn Thị Huế chủ biên. Trong mục
type truyện cổ tích thì người vợ khôn ngoan tài trí thuộc type 346 “Con vợ
khôn lấy thằng chồng dại như bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu”.
Dựa vào đây chúng tôi có thêm nguồn tư liệu và là cơ sở định hướng để
chúng tôi thực hiện nghiên cứu và mở rộng đề tài của mình.
Năm 2014, khóa luận tốt nghiệp Tìm hiểu nhân vật "công chúa" trong
truyện cổ tích thần kì các dân tộc Việt Nam của tác giả Lê Thủy Tiên. Từ
nhân vật "công chúa", tác giả đã đề cao vai trò, phẩm chất của người phụ nữ
Việt Nam và tôn vinh họ. Công chúa không chỉ là những người phụ nữ xinh
đẹp mà còn rất tài trí, đảm đang. Họ là hình mẫu lí tưởng cho mọi cô gái trong
xã hội cũ.
Bản khóa luận này đã góp phần giúp cho chúng tôi nhìn nhận, đánh giá
nhân vật người vợ thông minh tài trí ở nhiều giai tầng khác nhau trong truyện
cổ tích.
Cùng với sự thống kê tóm lược trên đây, chúng tôi nhận thấy đã có một
số công trình nghiên cứu về kiểu người vợ và kiểu nhân vật thông minh trong
truyện cổ tích nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên
biệt nào về kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí trong truyện cổ tích các
dân tộc Việt Nam. Những tài liệu trên đây là cơ sở rất quan trọng cho chúng
tôi phát hiện và định hướng nghiên cứu để tìm hiểu những đặc điểm, giá trị
của kiểu nhân vật này trong đề tài của mình.


9


III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu đề tài luận văn: “Kiểu nhân vật người vợ thông minh
tài trí trong truyện cổ tích của một số tộc người miền Bắc Việt Nam” nhằm
những mục đích sau:
1. Thống kê, nhận xét diện mạo kiểu nhân vật người vợ thông minh tài
trí trong truyện cổ tích của một số tộc người miền Bắc Việt Nam.
2. Xác định được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của kiểu
nhân vật này, góp phần khẳng định sự hấp dẫn của kiểu nhân vật người vợ thông
minh tài trí trong truyện cổ tích của một số tộc người miền Bắc Việt Nam.
3. Đối chiếu, so sánh với kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí ở
những vùng miền khác để làm sáng tỏ giá trị nội dung, giáo dục của những
truyện này.
IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
Qua 52 truyện cổ tích được khảo sát ở các nguồn tư liệu là truyện cổ
tích người Việt và truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Bắc, hình tượng nhân
vật người vợ thông minh tài trí trong truyện cổ tích của một số tộc người miền
Bắc Việt Nam đã tạo thành kiểu nhân vật với những đặc điểm về nội dung và
giá trị nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn.
2. Phạm vi
- Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát và nghiên
cứu truyện cổ tích người Việt và một số dân tộc miền Bắc tức là từ Thanh
Hóa trở ra gồm các tộc người : Việt, Thái, Giáy, Mường, Mèo, Tày, Dao,
Nùng, Hà Nhì, Pu Péo.
- Chúng tôi nghiên cứu kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí ở hai
tiểu loại của truyện cổ tích là truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích sinh hoạt.
- Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu thêm một số tư liệu truyện cổ ở


10


các vùng, miền, dân tộc khác của Việt Nam để so sánh đối chiếu, từ đó thấy
được điểm tương đồng và khác biệt của kiểu nhân vật người vợ thông minh
tài trí ở khu vực miền Bắc với các khu vực khác.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp khảo sát, thống kê: Chúng tôi tiến hành khảo sát,
thống kê sau đó nhận xét, đánh giá những truyện có xuất hiện nhân vật
“người vợ thông minh tài trí” rồi tiến hành phân loại theo những tiêu chí cụ
thể .
2. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
khi phân tích các dẫn chứng truyện để phục vụ cho việc chứng minh, làm
sáng tỏ các đặc điểm của nhân vật “người vợ thông minh tài trí” trong truyện
cổ tích của một số tộc người miền Bắc Việt Nam.
3. Phương pháp so sánh đối chiếu: Chúng tôi áp dụng phương pháp
này để tìm ra những điểm giống và khác nhau của kiểu nhân vật “người vợ
thông minh tài trí” trong truyện cổ tích ở một số tộc người miền Bắc Việt
Nam với một số vùng miền khác. Từ đó thấy được sự thống nhất nhưng rất đa
dạng, độc đáo về kiểu nhân vật người vợ thông minh trong truyện cổ tích ở
từng vùng miền.
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
1. Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã khái quát hệ thống những vấn
đề cơ bản về truyện cổ tích, về nhân vật, kiểu nhân vật, kiểu nhân vật thông minh
tài trí, kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí trong truyện cổ tích.
2. Luận văn sẽ cung cấp cho người đọc cái nhìn chung nhất về kiểu
nhân vật người vợ thông minh tài trí và những đặc điểm cơ bản về nội dung
và nghệ thuật của kiểu nhân vật này trong truyện cổ tích của một số tộc người
miền Bắc.

3. Sự thông minh tài trí được biểu hiện qua kiểu nhân vật rất độc đáo, đa
dạng. Người viết hi vọng sẽ góp một phần nhỏ bé của mình trong công việc phát

11


hiện, tôn vinh vẻ đẹp trí tuệ của người phụ nữ xưa đặc biệt là những người vợ
thông minh tài trí trong kho tàng truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam.
VII. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương I: Giới thuyết khái niệm và khảo sát tư liệu về kiểu nhân vật
người vợ thông minh tài trí.
Chương II: Đặc điểm "Kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí" xét
trên phương diện nội dung tư tưởng.
Chương III: Đặc điểm "Kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí" xét
trên phương diện nghệ thuật.

12


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VÀ KHẢO SÁT TƯ LIỆU
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1. Kiểu truyện và mô - típ
Khái niệm "kiểu truyện" và "mô-típ" đã được rất nhiều nhà nghiên cứu
văn học dân gian quan tâm. Để có thể hiểu được khái niệm kiểu truyện, chúng
ta phải hiểu được khái niệm về mô-típ. Mô-típ chính là thành tố căn bản để
tạo nên kiểu truyện.
Theo định nghĩa trong cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" của các tác

giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử thì: "mô típ – tiếng Hán Việt gọi là "mẫu đề"
(do người Trung Quốc phiên âm trong tiếng Pháp) có thể chuyển thành các từ
"khuôn" "dạng" hoặc "kiểu" trong Tiếng Việt, nhằm chỉ những thành tố,
những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định, bền vững và được
sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học
nghệ thuật dân gian". [14; 168]
Trong "Từ điển tiêu chuẩn phôn-cơ-lo" thì S. Thôm-xơn quan niệm:
"Trong Phôn-cơ-lo từ mô-típ dùng để chỉ bất kì một bộ phận nào mà một văn
bản phôn-cơ-lo có thể phân tích được... Trong khi từ mô-típ được dùng một
cách lỏng lẻo để bao gồm bất cứ yếu tố nào gia nhập vào một truyện kể truyền
thống, thì một yếu tố phải có cái gì đó làm cho người ta nhớ và phải được
nhắc đi nhắc lại: Nó phải là một cái gì đó khác hơn một sự chung chung. Một
bà mẹ bình thường không phải là một mô-típ. Một bà mẹ độc ác được xem là
mô-típ vì bà ta ít ra được xem là lạ thường..."
Theo "Từ điển Type truyện dân gian Việt Nam" mà tác giả Nguyễn Thị
Huế chủ biên thì: "Motif truyện kể thực chất là một khái niệm đơn giản, hay
gặp trong truyện kể truyền thống, nó có thể là một đoạn kể ngắn, lặp đi lặp lại
và có tính chất khác thường, làm cho người ta nhớ hoặc nó có dấu hiệu đặc

13


biệt. Các motif trong các truyện là yếu tố có thực, sự lắp ghép của các motif
một cách logic sẽ tạo nên các cốt truyện, nhiều cốt truyện có những motif
tương tự nhau sẽ tạo nên những type." [20;21]
Điểm thống nhất giữa các khái niệm trên về mô-típ là tính khác thường
và sự lặp lại. Những mô-típ thường có tính chất quốc tế và phổ biến trong
truyện dân gian các dân tộc. Thông qua mô-típ mà các nhà nghiên cứu có thể
xác lập được cốt truyện của từng kiểu truyện và tìm hiểu tư tưởng thẩm mĩ,
cội nguồn văn hóa lịch sử dẫn đến sự ra đời, biểu hiện của những mô-típ đó.

Nếu như mô-típ còn được gọi là mẫu đề hay motif thì "type còn được
các nhà nghiên cứu gọi là dạng, dạng thức hay kiểu, kiểu truyện..." [20; 21].
`Trong "Từ điển tiêu chuẩn phôn-cơ-lo" thì S. Thôm-xơn quan niệm: "
Type là những cốt kể có thể tồn tại độc lập trong kho truyền miệng. Dù đơn
giản hay phức tạp, truyện nào cũng được kể như một cốt kể độc lập đều được
xem như là một type. Có những truyện dài chứa hàng tá motif , lại có những
truyện kể ngắn như những mẩu kể trong các chùm truyện về súc vật có thể chỉ
có một motif đơn lẻ. Trường hợp đó type và motif đồng nhất".
Từ các quan niệm của các nhà nghiên cứu về típ nói trên ta có thể hiểu
type chính là "kiểu truyện". Bàn về kiểu truyện, trong cuốn "Thạch Sanh và
kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á", PGS.TS
Nguyễn Bích Hà đã đưa ra định nghĩa về kiểu truyện như sau: " Kiểu truyện
là tập hợp những truyện kể có những mô típ cùng loại hình. Trong một kiểu
truyện có nhiều mô típ nhưng không nhất thiết mỗi truyện trong kiểu đó phải
có đầy đủ tất cả những mô típ chung. Có thể có truyện chỉ chung với các
truyện khác một hoặc một vài mô típ, nhưng cũng có truyện có nhiều mô típ
chung". [13;24]
Như vậy kiểu truyện là những cốt kể độc lập bởi vậy mà sẽ chỉ có một
số lượng type nhất định trong mỗi một nền văn hóa. Những quan niệm này

14


chính là chìa khóa để người viết khám phá, tìm hiểu kiểu nhân vật trong đề tài
của mình.
1.1.2. "Kiểu nhân vật", "Kiểu nhân vật thông minh tài trí", "Kiểu nhân
vật người vợ thông minh tài trí" trong truyện dân gian Việt Nam.
1.1.2.1. Kiểu nhân vật
"Truyện cổ tích là thể loại quan trọng, phong phú nhất của loại hình tự
sự dân gian với rất nhiều tiểu loại, nhiều kiểu nhân vật và mỗi dạng thức đều

tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt với đông đảo tầng lớp nhân dân" [46; 114].
"Kiểu nhân vật" mà tác giả nhắc tới ở đây đã được rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm như: kiểu nhân vật người mồ côi, kiểu nhân vật dũng sĩ, kiểu nhân
vật đội lốt... Để hiểu được khái niệm về "kiểu nhân vật" thiết nghĩ chúng ta
nên tìm hiểu cặn kẽ về khái niệm gần gũi như "nhân vật" . Đây cũng chính là
kiến thức lí thuyết chung cần thiết cho chúng tôi tìm hiểu về một kiểu nhân
vật trong truyện cổ tích.
Trong truyện cổ tích, nhân vật đóng vai trò cơ bản, tập trung thể hiện
chủ đề tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.
Theo "Từ điển thuật ngữ văn học" của các tác giả Lê Bá Hán - Trần
Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) thì: "Nhân vật văn học là con
người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có tên
riêng cũng có thể không có tên riêng. Khái niệm nhân vật có khi được sử
dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả mà chỉ một hiện
tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học
là khái quát tính cách của con người..." [14; 235] .
Có thể nói "tính cách là kết tinh của môi trường" [14; 235] nên nhân
vật văn học dẫn độc giả vào các môi trường khác nhau. Truyện cổ tích ra đời
trong xã hội phân chia giai cấp nên nhân vật của truyện cổ tích là khái quát
các chuẩn mực giá trị đối kháng trong quan hệ giữa người và người như thiện

15


với ác, trung với nịnh, thông minh với ngu đần,... Trong truyện cổ tích, hệ
thống nhân vật đa dạng, phức tạp và mang tính hiện thực rõ rệt hơn so với
thần thoại và truyền thuyết. E.M.Melelinsky trong cuốn Thi pháp huyền thoại
cho rằng: "Nhân vật trong truyện cổ tích không có sức mạnh ma thuật vốn có
ở nhân vật huyền thoại. Nhân vật có sức mạnh nhờ sự bảo trợ đặc biệt của các
thần. Về sau các sức mạnh thần kì đó nói chung như đã bị loại khỏi nhân vật

và ở mức độ nhất định, chúng hoạt động thay cho nhân vật". Thế giới nhân
vật trong truyện cổ tích rất phong phú, vừa mang nét chung của truyện cổ
tích, vừa mang nét riêng của từng tiểu loại. Trong văn học dân gian nói chung
và truyện cổ tích nói riêng, nhân vật hầu như chưa có tính cách, chưa biểu lộ
được tâm lí suy nghĩ. Tất cả những đặc điểm về tính cách đều được biểu hiện
qua hành động. Những hành động của Thạch Sanh nghe lời mẹ con Lí Thông
như: lao động chăm chỉ, thay anh canh miếu, giết chăn tinh, giết đại bàng cứu
công chúa... thể hiện bản chất chăm chỉ, hiếu nghĩa, tài giỏi đồng thời luôn bị
bóc lột, lừa gạt của người con nuôi. Ngược lại những hành động ỷ lại, tranh
công thể hiện bản chất bóc lột và độc ác của mẹ con Lí Thông. Kết thúc
Thạch Sanh lấy được công chúa còn mẹ con Lí Thông bị trừng trị thích đáng.
Như vậy thông qua nhân vật, nhân dân lao động muốn gửi gắm triết lí "ở hiền
gặp lành" và mơ ước một cuộc sống công bằng. Vì thế nhân vật trong truyện
cổ tích chủ yếu là nhân vật chức năng, thường mang những phẩm chất cố định
không thay đổi từ đầu đến cuối tác phẩm. Không giống như văn học viết là
nhân vật mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Trong truyện cổ tích nhân vật
mang ba đặc trưng lớn của văn học dân gian là tính truyền miệng, tính tập thể
và gắn bó với sinh hoạt cộng đồng nên hình thành nên những kiểu nhân vật
nhất định.
Trong cuốn Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân
gian, tác giả Đỗ Bình Trị có viết: " Mỗi nhân vật trong số những nhân vật kể

16


trên (người em út, người con riêng, người mồ côi, người mang lốt vật,...) là
tên gọi chung của một loạt những nhân vật đồng dạng – những nhân vật này
có những nét tương đồng căn bản về tính cách, hành động và số phận...Vì
vậy, người ta gọi đó là những "kiểu nhân vật".[46; 10]
Từ những khái niệm trên người viết đưa ra cách hiểu của mình về "kiểu

nhân vật" là chỉ tập hợp các nhân vật cùng loại xuất hiện trong truyện cổ dân
gian. Nếu như kiểu truyện thường nghiêng về khai thác giá trị tác phẩm trên
bình diện kết cấu và phạm vi tìm hiểu là các truyện kể hoàn chỉnh, đầy đủ thì
kiểu nhân vật lại quan tâm chủ yếu đến đặc điểm phẩm chất, hành động,
những cách thức cấu thành của một loại nhân vật. Trong mỗi kiểu nhân vật
thường được tạo nên bởi hoàn cảnh, cuộc đời và mối quan hệ với các nhân vật
khác. Đặc điểm về hành trạng cuộc đời nhân vật cũng như các biện pháp nghệ
thuật trong cách xây dựng nhân vật tạo nên những nét giống nhau và khác biệt
của từng kiểu nhân vật trong kho tàng văn học dân gian.
Một kiểu nhân vật có thể tạo thành một truyện nếu nó phản ánh chủ đề
chính và mâu thuẫn của nhân vật xoay quanh trục mâu thuẫn trung tâm, cũng
có thể nhân vật và mâu thuẫn ấy chỉ là tuyến phụ ở trong một kiểu truyện
khác nhưng số phận nhân vật vẫn luôn có một kết cấu ổn định. Một kiểu nhân
vật thường được thừa nhận khi mà hình mẫu của nó không xuất hiện đơn lẻ,
mức độ phổ biến cần khá rộng rãi.
1.1.2.2. Kiểu nhân vật thông minh, tài trí
Đã có nhiều công trình nghiên cứu những kiểu nhân vật như: kiểu nhân
vật dũng sĩ, nhân vật người mang lốt vật, nhân vật ngốc nghếch, nhân vật
người em,...một cách thuyết phục, đưa đến cho người đọc cái nhìn toàn diện ở
nhiều góc độ. Còn một kiểu nhân vật nữa cũng khá phổ biến của truyện cổ
tích đặc biệt là truyện cổ tích sinh hoạt và một số lượng không lớn ở truyện cổ
tích thần kì đó là kiểu nhân vật thông minh tài trí.

17


Theo "Từ điển Tiếng Việt" mà tác giả Hoàng Phê chủ biên thì: "Thông
minh là có trí lực tốt, hiểu nhanh, tiếp thu nhanh..., nhanh trí và khôn khéo, tài
tình trong cách ứng đáp, đối phó" [36; 936] và tài trí là "tài năng và trí tuệ
hơn người" [36; 869].

Theo Nguyễn Công Khanh – nhà tâm lí học thuộc viện chiến lược và
chương trình giáo dục thì: "Trí thông minh là năng lực tổng thể hoặc một loạt
các năng lực giúp cá nhân áp dụng các kĩ năng nhận thức, xúc cảm và sự hiểu
biết để học, để giải quyết vấn đề và để đạt được các mục đích có giá trị hoặc
để sáng tạo ra các sản phẩm có giá trị trong những điều kiện văn hóa lịch sử
cụ thể." [Trí tuệ và đo lường trí tuệ, Trần Kiều (chủ biên), NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội (2005)]
Theo tác giả Vũ Anh Tuấn dẫn luận văn thạc sĩ tâm lí học nghiên cứu "
Mức độ trí thông minh và trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường Đại học Tây
Bắc", (2007) thì: "Trí thông minh là một loại năng lực tinh thần đặc biệt có
trong bản thân mỗi con người. Năng lực này có tác dụng giúp con người có
những hành vi ứng xử thông minh, phù hợp với hoàn cảnh và đạt được kết
quả cao trong hành động".
Từ đó, chúng tôi đưa ra khái niệm về nhân vật thông minh tài trí theo
cách hiểu của mình như sau: Nhân vật thông minh tài trí trong truyện cổ tích là
những nhân vật mang sức mạnh tài năng và trí tuệ . Họ biết vận dụng trí tuệ
sáng suốt vào những hoàn cảnh cụ thể nhằm vượt qua khó khăn, thử thách
trong cuộc sống và mang lại hạnh phúc tốt đẹp cho bản thân và những người
xung quanh, chống lại sự tham lam, xảo trá hoặc thói hư tật xấu của con người
qua nghệ thuật hư cấu, kì ảo của nhân dân. Từ đó đề cao trí tuệ của dân gian, đề
cao con người với những phẩm chất nổi bật là trí tuệ và đạo đức.
Truyện về người tài trí thông minh là kết quả của sự phân loại truyện
theo nhân vật. Nghiên cứu về nhân vật trong truyện cổ tích sinh hoạt, PGS.TS

18


Lê Trường Phát cho rằng: " Nhìn chung, truyện cổ tích sinh hoạt chỉ có hai
cặp nhân vật chính: người đức hạnh – người xấu xa, người mưu trí (trí xảo) –
người khờ khạo (ngốc nghếch) khái quát toàn bộ mọi người trong xã hội

thành những kiểu người đối xứng từng cặp như thế là một cách nhìn, một
cách quan niệm về thực tại – con người." [35; 51,52]
Nhân vật thông minh hay nhân vật ngốc nghếch là các nhân vật trong
các truyện thuộc đề tài trí khôn. Do vậy cần đặt nhân vật thông minh trong sự
đối sánh với nhân vật ngốc nghếch để thấy rõ phẩm chất trí tuệ trái ngược nhau
của hai tuyến nhân vật này. Bàn về vấn đề này, tác giả Nguyễn Việt Hùng cũng
khẳng định: "Có hai dạng cơ bản là truyện về nhân vật ngốc và truyện về người
thông minh. Có thể kể đến các truyện như: Làm theo lời vợ dặn, Con vợ khôn
lấy thằng chồng dại... Những truyện này có những điểm gần gũi với truyện
cười ở chỗ chúng chứa đựng những yếu tố hài. Thông qua những hành động
khờ dại, ngô nghê của các nhân vật, truyện cổ tích đã đề cao trí khôn một cách
gián tiếp, phê phán những người ngốc một cách nhẹ nhàng..." [22; 275]
Nhân vật tài trí thông minh có thể được xác định dựa vào khả năng trí xảo
kết hợp với tài dẫn dắt nội dung câu chuyện của nhân vật từ đó bộc lộ tình huống
gây cười và bản chất ngu dốt của đối phương. Biểu hiện của sự tài trí thông minh
có thể là hành động, cử chỉ hay ngôn ngữ bất chợt bộc lộ tài phán đoán và khả
năng tư duy của nhân vật. Thêm vào đó, chúng ta nên hiểu một cách linh hoạt về
nhân vật tài trí thông minh trong việc vận dụng trí tuệ vào một hoàn cảnh cụ thể.
Ở một số truyện cổ tích, hành động của nhân vật tài trí có thể vượt khỏi ngưỡng
chuẩn của đạo đức như lừa lọc, giết người...để đạt được mục đích cá nhân. Dựa
trên quan điểm đạo đức của người Việt Nam sẽ có nhiều cách nhìn nhận, đánh
giá khác nhau. Nhưng từ phương diện thể loại thì chúng tôi cho rằng những
hành động ấy của nhân vật thông minh tài trí "thực chất chỉ là cảm hứng của
nhân dân về trí tuệ linh hoạt của con người trước hiện thực." [26; 27] và qua đó

19


phần nào thể hiện quan điểm của nhân dân gửi gắm trong những câu chuyện cổ
tích là "ở hiền gặp lành" và "ác giả ác báo". Chẳng hạn hành động của nhân vật

"vớt cái thây chết trôi sông" trong truyện " Dì phải thằng chết trôi, tôi phải đôi
sấu sành" hay khi nhân vật Cuội xui hủi chui vào rọ thay mình, xui chú thím
chui vào rọ gặp ông bà trong truyện "Nói dối như cuội". Thiết nghĩ ở đây chỉ là
phương pháp cường điệu hóa mưu mẹo của nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn.
Mặt khác những hành động này là hành động cổ tích xuất phát trong tư duy cổ
tích nên chỉ có thể đánh giá sự linh hoạt của nhân vật trong việc đối phó trước
các tình huống thử thách" .
Như vậy có thể hiểu, nhân vật thông minh tài trí trong truyện cổ tích là
những con người mang trong mình sức mạnh trí tuệ của nhân dân. Sức mạnh
ấy là sự nhanh trí và khôn khéo, tài tình trong cách ứng xử, đối phó mau lẹ,
tinh tế với những tình huống phức tạp, bất ngờ trong cuộc sống, chẳng hạn
như có tài giải đáp những điều khúc mắc, những câu đố hiểm hóc, những bài
toán cuộc đời mà các vị vua quan, các phú ông trưởng giả, những tên lái buôn
tham lam, những ông bố vợ hà khắc, những hành động ngu ngốc dại dột của
những người đần...
1.1.2.3. Kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí
1.1.2.3.1. Khái niệm "kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí" trong truyện
cổ tích
Ở thời đại nào văn học cũng luôn dành sự ưu ái đặc biệt đối với người
phụ nữ. Họ là những đóa hoa mỏng manh nhưng không kém phần rực rỡ và
kiên cường. Vẻ đẹp từ sắc màu và hương thơm của các đóa hoa ấy đã nuôi
dưỡng sức sống cho cuộc đời, giữ gìn, điểm tô và duy trì nòi giống cho muôn
đời sau. Trong truyện cổ tích Việt Nam cũng thế, "có một mảng đáng kể nêu
bật vai trò tích cực của người nữ, đề cập tới ước mơ, tình yêu và hôn nhân tự
do" (Nguyễn Đổng Chi). Có lẽ vì thế mà trong số các nhân vật nữ thì kiểu

20


nhân vật người vợ đặc biệt là người vợ thông minh tài trí đã được các tác giả

dân gian dụng tâm khắc họa thật đặc sắc. Dân gian đã có những câu ca ngợi
người phụ nữ thông minh tài trí rất chí lí như: " Vợ khôn ngoan làm quan cho
chồng", " Lệnh ông không bằng cồng bà" , "Giàu vì bạn, sang vì vợ" hay
"Chồng khôn vợ đặng đi giày/ Vợ khôn chồng đặng có ngày làm quan"...
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, kiểu nhân vật này hiện lên khá sinh
động: khi thì sóng đôi với những anh chồng ngốc như: Con vợ ngoan lấy
thằng chồng dại (Việt), Trạng 1 (Chăm), Anh chồng ngốc (Việt), Xấu tốt
cũng là chồng ta (Việt) ... để tạo nên típ " Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
như bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu" [20; 459, 460]; khi thì để giải quyết mâu
thuẫn, xung đột giữa những giai cấp khác nhau mà thường là giữa người
nghèo có địa vị thấp kém với người bóc lột, vua quan. Chiến thắng thường
thuộc về họ (những người nghèo) như: Nàng dâu là bồ chịu chửi (Việt);
Thằng bợm có con ngựa (Việt); con mụ Lường (Việt); Thụt Chở Nú và nàng
Nảy (Thái)...khi thì người vợ lại là những nàng tiên xuống trần gian nên
duyên với người trần để cải tạo một tính xấu nào đó của con người hoặc phù
trợ con người chống chọi với những thế lực thù địch:, Sự tích vệt trắng dưới
cổ trâu (Thái), Thò Khánh và Zà Zủa (Mèo)...
Vậy nên theo cách hiểu của chúng tôi thì kiểu nhân vật người vợ thông
minh tài trí là những nhân vật người vợ có sự hiểu biết trí tuệ, biết vận dụng
linh hoạt, nhanh nhẹn tài trí của mình để giải quyết những thử thách đặt ra
trong truyện cổ tích. Nhờ đó họ mang lại hạnh phúc tốt đẹp cho bản thân và
những người xung quanh.
1.1.2.3.2. Kiểu nhân vật người vợ thông minh, tài trí trong quan hệ với kiểu
nhân vật
Ở truyện cổ tích tên gọi về kiểu nhân vật chính là khái quát đặc điểm
quan trọng, cơ bản nhất của loại nhân vật đó. Chẳng hạn nhân vật người con

21



riêng bao giờ cũng được đặt trong hoàn cảnh mất cha hoặc mẹ hoặc cả hai, và
bị đặt trong mối xung đột dì ghẻ hoặc cha dượng (Tấm Cám, Sự tích chim đa
đa...) Kiểu nhân vật đội lốt, nhân vật có sự ra đời thần kì được ẩn trong hình
thức bề ngoài thậm chí xấu xí là tài năng và trí tuệ kì diệu, trải qua nhiều khó
khăn thử thách cuối cùng nhân vật hiện nguyên hình là nhân vật đẹp đẽ, hoàn
hảo (Chuyện người lấy cóc, Nàng Vỏ Trứng, Sọ Dừa, Lấy chồng Dê...). Kiểu
nhân vật người dũng sĩ, nhân vật thường mang trong mình sức mạnh kì diệu
chiến đấu với các thế lực mạnh mẽ của tự nhiên hay xã hội để đem lại sự bình
yên, cuộc sống hạnh phúc cho mọi người (Thạch Sanh...). Kiểu nhân vật đức
hạnh, nhân vật có phẩm chất tốt hiểu đạo lí, tình cảm trong cuộc sống, thường
làm được nhiều việc tốt, được nhân dân yêu mến (Mài dao dạy vợ, Bán tóc
đãi bạn...)
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi thấy nhân vật người vợ thông minh
tài trí trong truyện cổ tích của một số tộc người miền Bắc ở Việt Nam vừa
mang đặc điểm khái quát của kiểu nhân vật cổ tích là nhân vật "mặt nạ", vừa
mang đặc điểm cơ bản của loại nhân vật là những người vợ thông minh tài trí,
dạy chồng hoặc giúp chồng vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, chống
lại sự áp bức của những đối tượng thù địch (Dạy chồng, Người vợ thông
minh, Người chồng lười, Chàng mê gái...) cũng có khi sự tài trí của người vợ
được hiện lên thấp thoáng thông qua một hành động, cách ứng xử hoặc suy
nghĩ nào đó ánh lên chất trí tuệ, sắc sảo, tháo vát của người đàn bà trong một
hoàn cảnh cụ thể (Ba điều ước, Nàng dâu là bồ chịu chửi, Chuyển cau đằng
trước ra đằng sau và ngược lại...)
1.1.2.3.3. Kiểu nhân vật người vợ thông minh tài trí trong quan hệ với kiểu
nhân vật người vợ.
Cùng với sự phản ánh về lịch sử đất nước, lịch sử dân tộc, mọi nguồn
tư liệu đã cho thấy vào những thế kỉ trước và sau công nguyên, ở nhiều lĩnh

22



vực khác nhau, phụ nữ là những người đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng.
Trong buổi bình minh của lịch sử và trong giai đoạn phát triển của xã hội
nguyên thủy, dân tộc nào cũng trải qua thời kì mẫu hệ và chế độ mẫu quyền
trong đó phụ nữ làm chủ gia đình, dòng họ . Một điều đáng chú ý nữa là Việt
Nam từ xã hội nguyên thủy lên thẳng xã hội phong kiến mà không qua giai
đoạn chiếm hữu nô lệ bởi vì khi Việt Nam vào cuối giai đoạn nguyên thủy
chưa hình thành chế độ lãnh chúa thì đã bị Trung Quốc sang xâm chiếm, áp
đặt nền văn hóa, cơ cấu tổ chức xã hội của chế độ phong kiến mà hạt nhân là
chế độ phụ quyền và cai trị đất nước hàng nghìn năm. Từ cơ sở này chúng ta
có thể cắt nghĩa vì sao khi chống lại giặc phương Bắc sang xâm lược, ta lại có
nhiều nữ tướng, bà chúa đến như thế. Trong Truyện các nữ thần Việt Nam của
tác giả Đỗ Thị Hảo và Mai Thị Ngọc Trúc có nhận định ngợi ca vai trò của
người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử văn minh văn hóa của đất nước: " Rõ
ràng thần thoại đã khẳng định vai trò sáng tạo đầu tiên của phụ nữ. Họ chính
là anh hùng cổ đại, anh hùng văn hóa."
Trong cuốn Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian của
PGS. TS. Nguyễn Bích Hà cũng nhận định " Trong xã hội cổ truyền, tộc
người Việt cũng như đa số các tộc người khác đã trải qua thời đại mẫu quyền.
Đó là khi quyền hành lớn nhất, quan trọng nhất trong gia đình và xã hội do
người phụ nữ nắm. Dấu ấn văn hóa xã hội đó còn để lại khá đậm trong ngôn
ngữ Việt cho đến nay. Những gì to lớn nhất, vĩ đại nhất và quan trọng nhất
đều gắn liền với từ CÁI (với ý nghĩa: mẹ). Con đường lớn nhất, nhiều người
qua lại gọi là đường cái; dòng sông dài rộng nhất gọi là sông cái; cột cao nhất
chống đỡ cho cả căn nhà gọi là cột cái; cổng lớn nhất đi vào làng và khi thực
hành các nghi thức quan trọng của làng phải qua lối đó gọi là cổng cái; đôi
đũa dùng để xới cơm cho tất cả mọi người trong nhà gọi là đũa cái; rồi thúng
cái, trống cái, ngón tay cái..." [12; 84]. Phụ nữ có vai trò lớn lao trong sinh
hoạt kinh tế, đời sống xã hội cũng như trong đời sống văn hóa tinh thần. Ở
Việt Nam mỗi người đều ghi nhớ chuyện Mẹ Âu Cơ và Bố Lạc Long Quân là


23


×