Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Truất quyền hưởng di sản thừa kế một số vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.32 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ QUANG THẮNG

ĐỀ TÀI
TRUẤT QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ,
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ QUANG THẮNG
ĐỀ TÀI
TRUẤT QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ,
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số:



60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS – TS Phạm Văn Tuyết

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi trên
cơ sở hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Phạm Văn Tuyết,
Giảng viên cao cấp của trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn không trùng
lặp với bất kỳ công trình khoa học nào, các trích dẫn trong luận văn là hoàn
toàn trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
Tác giả luận văn

Lê Quang Thắng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLDS 1995

Bộ luật dân sự năm 1995


BLDS 2005

Bộ luật dân sự năm 2005

BLDS 2015

Bộ luật dân sự năm 2015

LHN&GĐ

Luật Hôn nhân và Gia đình

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài ................................................................................ 2
4. Mục tiêu nghiên cứu đề tài ............................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ....................................................................... 3
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và điểm mới của luận văn................................ 3

7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 3
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUẤT QUYỀN HƯỞNG
DI SẢN THỪA KẾ ................................................................................................ 5
1.1. Khái niệm về truất quyền hưởng di sản thừa kế ........................................ 5
1.2. Cơ sở lý luận của truất quyền hưởng di sản thừa kế ................................. 7
1.2.1. Tôn trọng ý chí đơn phương của người để lại di sản ................................ 7
1.2.2. Tôn trong tự do ý chí của chủ sở hữu trong việc định đoạt tài sản
thuộc sở hữu của mình .......................................................................................... 8
1.3. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc truất quyền hưởng di sản thừa kế .. 9
1.4. Người bị truất quyền hưởng di sản là một trong các trường hợp không
được quyền hưởng di sản.................................................................................... 11
1.4.1. Bị tước quyền hưởng di sản....................................................................... 12
1.4.2. Bị truất quyền hưởng di sản ...................................................................... 20
1.5. Phân biệt người bị truất quyền hưởng di sản với người không được
hưởng di sản theo di chúc. .................................................................................. 21
1.5.1. Về tư cách người thừa kế........................................................................... 22
1.5.2. Về việc hưởng di sản .................................................................................. 23
1.5.3 Về thừa kế thế vị .......................................................................................... 28


Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIÊT NAM VỀ TRUẤT
QUYỀN HƯỞNG DI SẢN ................................................................................. 31
2.1. Người truất quyền hưởng di sản và hiệu lực của truất quyền................ 31
2.1.1. Người truất quyền hưởng di sản .............................................................. 31
2.1.2. Hiệu lực của truất quyền hưởng di sản ................................................... 38
2.2. Người bị truất quyền hưởng di sản ............................................................ 39
2.2.1. Người bị truất quyền hưởng di sản ........................................................... 39
2.2.2. Phạm vi những người bị truất quyền hưởng di sản ................................ 40
2.3. Quyền và giới hạn của việc truất quyền hưởng di sản ............................ 44
2.3.1. Quyền của người truất quyền hưởng di sản ............................................ 44

2.3.2. Giới hạn của việc truất quyền ................................................................... 48
2.4. Hậu quả pháp lý của truất quyền hưởng di sản thừa kế ......................... 52
2.4.1. Không được hưởng di sản của người đã truất......................................... 53
2.4.2. Con của người bị truất không được thế vị người đó để hưởng di sản
của người đã truất. ............................................................................................... 54
Chương 3: BẤT CẬP VÀ HOÀN THIỆN BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRUẤT QUYỀN HƯỞNG DI SẢN... 57
3.1. Một số bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về truất quyền
hưởng di sản. ........................................................................................................ 57
3.1.1. Về việc đồng ý cho lập di chúc .................................................................. 57
3.1.2. Về việc truất quyền của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc ............................................................................................................ 59
3.1.3. Về thời điểm xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc ............................................................................................................ 62
3.1.4. Về hiệu lực của truất quyền....................................................................... 63
3.1.5. Về hậu quả của việc truất quyền hưởng di sản ....................................... 64
3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật về truất quyền hưởng di sản ..................... 64


3.2.1. Cần xác định việc truất quyền theo bản chất “dòng chảy xuôi” của
thừa kế ................................................................................................................... 64
3.2.2. Cần ban hành văn bản dưới luật để hướng dẫn cụ thể về việc truất
quyền khi những bất cập chưa được sửa đổi, bổ sung ...................................... 66
3.3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật Việt Nam liên quan
đến truất quyền hưởng di sản ............................................................................ 67
3.3.1. Sửa đổi Điều 630 BLDS 2015.................................................................... 67
3.3.2. Xác định lại phạm vi những người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc ................................................................................................... 68
3.3.3. Xác định thời điểm được coi là người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc ................................................................................................... 69

3.3.4. Xác định hiệu lực của việc truất quyền. .................................................. 71
3.3.5. Xác định hậu quả của việc truất quyền .................................................... 71
3.3.6. Kiến nghị bổ sung điều luật ....................................................................... 72
KẾT LUẬN........................................................................................................... 74


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật về thừa kế đã trải qua một quá trình hình thành, phát triển lâu
dài. Ở nước ta trước đây, thừa kế thường được điều chỉnh thông qua các sắc
lệnh, thông tư, nghị quyết. Có thể nói, văn bản luật đầu tiên của Nước
CHXHCN Việt Nam được ban hành để điều chỉnh về thừa kế là Pháp lệnh
thừa kế được Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1990. Tiếp đến là các Bộ luật
dân sự (1995, 2005, 2015). Cho đến nay, pháp luật về thừa kế đã được quy
định tương đối đầy đủ và cụ thể tại BLDS 2015. Tuy nhiên, cho đến hiện nay
thì vấn đề truất quyền hưởng di sản thừa kế vẫn chưa đạt đến sự minh thị
trong quy định của pháp luật và chưa có bất kỳ một văn bản dưới luật nào
hướng dẫn về vấn đề này. Có thể nói, do hầu như chưa có tranh chấp nào về
truất quyền hưởng di sản thừa kế xảy ra trong thực tế nên các cơ quan có thẩm
quyền chưa chú trọng đến việc ban hành văn bản pháp luật để giải thích vấn
đề này. Tuy nhiên, tôi thấy rằng vấn đề truất quyền hưởng di sản thừa kế liên
quan đến nhiều điều luật trong phần thừa kế của Bộ luật dân sự. Mặt khác,
pháp luật luôn phải đạt được tính dự liệu phòng khi tranh chấp thực tế xảy ra
đã có luật để áp dụng giải quyết. Tất cả các văn bản luật trước đây cũng như
Bộ luật dân sự hiện hành khi quy định về vấn đề truất quyền hưởng di sản
thừa kế chỉ có mỗi một cụm từ “truất quyền hưởng di sản của người thừa
kế”dùng trong điều luật quy định về quyền của người lập di chúc. Vì vậy,
người lập di chúc có được truất quyền hưởng di sản của người thừa kế không

phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Hiệu lực của truất quyền được
xác định như thế nào? Việc truất quyền có hậu quả pháp lý như thế nào? là
những câu hỏi luôn được đặt ra và có nhiều tranh cãi.
Với mong muốn làm rõ những câu hỏi liên quan đến truất quyền hưởng
di sản, tôi chọn đề tài: “Truất quyền hưởng di sản thừa kế - Một số vấn đề lý


2

luận và thực trạng pháp luật” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học. Cũng
với lý do trên, tôi thấy việc nghiên cứu đề tài này mang tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế đã được nghiên cứu nhiều với các cấp độ, công trình khác nhau,
đã có nhiều cuốn sách nghiên cứu về thừa kế như: Pháp luật về thừa kế và
thực tiễn giải quyết tranh chấp của Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang, Một
số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam của Nguyễn Ngọc Điện,
Pháp luật về thừa kế của Việt nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
Nguyễn Minh Tuấn, Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
của Phạm Văn Tuyết, Luật Thừa kế Việt Nam của Phùng Trung Tập nhưng là
những công trình nghiên cứu chung về thừa kế và hầu như không có mục
riêng để nghiên cứu về truất quyền hưởng di sản. Một số công trình nghiên
cứu ở cấp luận văn nghiên cứu về vấn đề riêng nhưng chưa có một công trình
nào nghiên cứu riêng về truất quyền hưởng di sản. Về bài viết đăng tạp chí,
tác giả Phạm Văn Tuyết có bài: Cần hiểu đúng bản chất của truất quyền
hưởng di sản.
Có thể khẳng định rằng cho đến thời điểm luận văn này được thực hiện
và hoàn thành, chưa có bất kỳ công trình khoa học nào nghiên cứu về truất
quyền hưởng di sản một cách hệ thống và đầy đủ. Vì thế, luận văn là một
công trình hoàn toàn độc lập và phù hợp với mã ngành Dân sự và Tố tụng dân
sự.

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với khuôn khổ và số trang cho phép đối với một luận văn thạc sỹ, luận
văn này chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành có so sánh với quy
định của pháp luật trước đây về thừa kế ở Việt Nam sau khi đề cấp đến một số
khía cạnh lý luận về truất quyền hưởng di sản thừa kế. Do đặc tính của đề tài
là chưa xảy ra tranh chấp về truất quyền hưởng di sản trong thực tiễn nên luận


3

văn không có điều kiện tìm hiểu và thống kê thực tiễn tranh chấp và giải
quyết tranh chấp về vấn đề này.
4. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm hướng đến việc hiểu rõ hơn về các vấn đề
liên quan đến truất quyền hưởng di sản thừa kế như: Người bị truất quyền
hưởng di sản thừa kế, hiệu lực của truất quyền hưởng di sản thừa kế; hậu quả
pháp lý của việc truất quyền hưởng di sản thừa kế.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Quá trình thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp
dụng là phân tích, so sánh và bình luận.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và điểm mới của luận văn
Có thể nói luận văn là một công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu độc
lập và có hệ thống về truất quyền hưởng di sản thừa kế. Do vậy, về phương
diện lý luận, tác giả hy vọng luận văn sẽ là một tài liệu bổ ích cho những ai
quan tâm đến truất quyền hưởng di sản thừa kế.
Luận văn đạt được một số điểm mới sau đây:
- Đưa ra được khái niệm truất quyền hưởng di sản thừa kế;
- Xác định và làm rõ các cơ sở lý luận của truất quyền hưởng di sản thừa
kế;
- Phân biệt rõ giữa truất quyền hưởng di sản với không cho hưởng di sản;

không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật với không được
hưởng di sản theo di chúc.
- Xác định rõ về hiệu lực của truất quyền; hậu quả của việc truất quyền.
7. Kết cấu của luận văn


4

Với phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu đã được xác định trước,
ngoài mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo ba chương với các mục sau:
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUẤT QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
THỪA KẾ
1.1. Khái niệm về truất quyền hưởng di sản
1.2. Cơ sở lý luận của truất quyền hưởng di sản thừa kế
1.3. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc truất quyền
1.4. Người bị truất quyền hưởng di sản là một trong các trường hợp
không được quyền hưởng di sản
1.5. Phân biệt người bị truất quyền hưởng di sản với người không được
hưởng di sản theo di chúc.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRUẤT QUYỀN
HƯỞNG DI SẢN
2.1. Người truất quyền hưởng di sản và hiệu lực của truất quyền
2.2. Người bị truất quyền hưởng di sản
2.3. Quyền và giới hạn của việc truất quyền hưởng di sản
2.4. Hậu quả pháp lý của truất quyền hưởng di sản thừa kế
Chương 3
BẤT CẬP VÀ HOÀN THIỆN BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRUẤT QUYỀN HƯỞNG DI SẢN

3.1. Một số bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về truất
quyền hưởng di sản.
3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật về truất quyền hưởng di sản
3.3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật Việt Nam liên
quan đến truất quyền hưởng di sản.


5

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUẤT QUYỀN HƯỞNG DI
SẢN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm về truất quyền hưởng di sản thừa kế
Theo nghĩa của từ thì “Truất” là “tước bỏ không cho giữ, không cho
hưởng địa vị, truất quyền lợi nào đó”1. Như vậy, truất quyền hưởng di sản
thừa kế chính là việc không cho hưởng địa vị người thừa kế, không cho
hưởng quyền được thừa kế. Nói cách khác thì truất quyền hưởng di sản chính
là việc phế truất quyền hưởng di sản của một người nhất định mà chính họ là
người đang có quyền đó. Chủ thể trong quan hệ thừa kế bao gồm người để lại
di sản và người thừa kế, trong đó, người truất quyền hưởng di sản thừa kế là
người để lại di sản và người bị truất là người thừa kế của họ.
Trong thực tế, người để lại di sản có thể không cho người thừa kế của
mình hưởng di sản bằng việc lập di chúc để định đoạt hết tài sản cho người
thừa kế khác, người thừa kế trong trường hợp này không được hưởng di sản
(vì người để lại di sản đã định đoạt hết cho những người thừa kế khác) nhưng
vẫn mang tư cách là người thừa kế theo luật của người để lại di sản. Việc
không cho cho người này hưởng di sản mà định đoạt hết cho người khác
hưởng di sản đó có thể chỉ vì lý do kinh tế. Chẳng hạn, người để lại di sản có
hai người thừa kế theo luật là hai đứa con nhưng người con đầu đã rất khá giả
về kinh tế, người con thứ hai còn quá khó khăn nên người để lại di sản đã

quyết định cho người con thứ hai hưởng toàn bộ di sản. Người để lại di sản
chỉ truất quyền hưởng di sản của người thừa kế vì một lý do tế nhị nào đó (về
mặt tình cảm), và cũng vì lý do truất quyền hưởng di sản là tế nhị nên luật

1

Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (1998),– Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Thanh Hóa, Tr 1261.


6

không bắt buộc người truất quyền hưởng di sản thừa kế phải nêu lý do. Tuy
nhiên, người thừa kế theo luật chỉ bị coi là đã bị truất quyền hưởng di sản (bị
phế truất tư cách người thừa kế) nếu họ đã bị người để lại di sản tuyên bố
“truất” quyền hưởng di sản.
Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam quy định về truất quyền hưởng di sản
chỉ ở góc độ là xác định về quyền của người lập di chúc. Trong phần IV –
Thừa kế theo di chúc, Thông tư 81-TANDTC ngày 24-7-1981 của Tòa án
nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế (từ đây xin
được gọi tắt là Thông tư 81) chỉ quy định: “Người lập di chúc phải dành lại
một phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc (nếu có). Những người
thừa kế bắt buộc gồm: vợ góa, chồng góa, con chưa thành niên hoặc tuy đã
thành niên nhưng không có khả năng lao động, bố mẹ già yếu và túng thiếu.
Phần di sản dành lại cho những người thừa kế bắt buộc, ít nhất là 2/3 của
mỗi suất thừa kế theo luật. Nếu di chúc truất quyền truất quyền thừa kế của
người thừa kế bắt buộc hoặc phần dành lại cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít
hơn 2/3 suất thì phải chia cho đủ 2/3.”. Tại Điều 11 thuộc Chương 2 – Thừa
kế theo di chúc trong Pháp lệnh về thừa kế ngày 30/8/1990 chỉ quy định:
“Truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật
mà không nhất thiết phải nêu lý do.” Tiếp theo đó, các Bộ luật dân sự Việt

Nam cũng đều quy định truất quyền hưởng di sản thừa kế là một trong các
quyền của người lập di chúc. (BLDS 1995 quy định trong Điều 651 về quyền
của người lập di chúc: “Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của
người thừa kế”. Quy định này được giữ nguyên trong Điều 648, BLDS 2005
và Điều 626, BLDS 2015. Như vậy, chưa có một văn bản pháp luật nào định
nghĩa về truất quyền hương di sản. Chính vì vậy nên đã có nhiều cách hiểu
khác nhau về truất quyền hưởng di sản. Có cách hiểu cho rằng: Khi người lập
di chúc không cho người thừa kế nào đó hưởng di sản theo di chúc thì người


7

đó là người bị truất quyền hưởng di sản nên có hai cách truất khác nhau: Một
là, truất trực tiếp: Đó là trường hợp người lập di chúc đã nói rõ trong di chúc
về việc truất quyền hưởng di sản thừa kế của người thừa kế theo pháp luật nào
đó. Hai là, truất gián tiếp: Là trường hợp người lập di chúc không nói gì đến
người thừa kế theo pháp luật nào đó và định đoạt hết di sản thừa kế cho những
người thừa kế khác. Cách hiểu khác lại cho rằng: Người thừa kế chỉ bị coi là
bị truất quyền hưởng di sản nếu người lập di chúc nói rõ là truất quyền hưởng
di sản của họ. Sở dĩ có nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề là do
sự quy định của pháp luật chưa cụ thể. Tôi thấy rằng bản chất, hậu quả của
việc truất quyền hưởng di sản với việc không cho hưởng di sản theo di chúc là
khác nhau (sẽ được phân tích ở phần sau của luận văn này). Vì thế, cần hiểu
truất quyền là phế truất hẳn tư cách thừa kế của người thừa kế theo luật chứ
không đơn thuần là không cho hưởng di sản theo di chúc. Từ cách hiểu trên
có thể đưa ra khái niệm về truất quyền hưởng di sản thừa kế như sau:
Truất quyền hưởng di sản là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản về
việc phế truất quyền hưởng di sản thừa kế của một hoặc một số người thừa kế
theo luật của người để lại di sản và theo đó, người bị truất quyền không còn là
người thừa kế của người đã truất.

1.2. Cơ sở lý luận của truất quyền hưởng di sản thừa kế
Từ khái niệm về truất quyền hưởng di sản được xác định ở phần trước, ta
thấy rằng, truất quyền thừa kế dựa trên các cơ sở lý luận sau đây:
1.2.1. Tôn trọng ý chí đơn phương của người để lại di sản
Truất quyền hưởng di sản thừa kế bao giờ cũng được thể hiện trong di
chúc mà người chết để lại, trong khi, việc lập di chúc là một hành vi pháp lý
đơn phương. Di chúc phải được thừa nhận và thực hiện nếu di chúc đó đã đáp
ứng đầy đủ các điều kiện để được coi là hợp pháp theo quy định của pháp
luật. Theo đó truất quyền hưởng di sản cũng phải được thực hiện theo ý chí


8

của người lập di chúc mà không phụ thuộc vào ý chí của người thừa kế bị
truất quyền. Khi một người chết thì quan hệ thừa kế giữa họ (người để lại di
sản) với những người thừa kế theo pháp luật của họ đương nhiên sẽ hình
thành nếu như người để lại di sản không tuyên bố truất quyền hưởng di sản và
trong trường hợp này, người thừa kế có quyền lựa chọn nhận hay từ chối nhận
di sản. Ngay cả khi, người thừa kế là người hưởng di sản theo di chúc (người
thừa kế theo di chúc) thì ý chí của họ về việc quyết định nhận hay không nhận
di sản vẫn được pháp luật tôn trọng: “Người thừa kế có quyền từ chối nhận di
sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài
sản của mình đối với người khác. Việc từ chối nhận di sản phải được lập
thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác,
người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản
phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.”2 nhưng một khi người
để lại di sản tuyên bố truất quyền hưởng di sản của một người thừa kế nào đó
thì ý chí đơn phương này được tôn trọng tuyệt đối, trừ khi luật có quy định
khác.
1.2.2. Tôn trong tự do ý chí của chủ sở hữu trong việc định đoạt tài

sản thuộc sở hữu của mình
Thừa kế là hệ luận của quyền sở hữu: “Con người, cũng như bất kỳ một
chủ thể nào khác, muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa trên những cơ sở
vật chất nhất định. Của cải do con người tạo ra một cách hợp pháp sẽ thuộc sở
hữu của họ, họ có các quyền chiếm hữu, sử dụng chúng để thỏa mãn các nhu
cầu cho mình trong sản xuất, tiêu dùng và có quyền định đoạt chúng khi cần
thiết. Khi họ chết, những tài sản thuộc sở hữu còn lại của họ sẽ được dịch
chuyển cho người khác. Quá trình dịch chuyển tài sản này được gọi là thừa
kế. Nói một cách cụ thể hơn thì, thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản từ

2

Điều 420 BLDS 2015


9

người đã chết cho những người còn sống khác. Như vậy, thừa kế là một hiện
tượng xã hội xuất hiện và tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Nơi nào có sở hữu,
nơi đó có thừa kế. Nếu sở hữu là sự phản ánh tài sản nào trong xã hội thuộc
về ai thì thừa kế là sự phản ánh tài sản của ai đó sẽ dịch chuyển cho ai khi họ
chết. Vì thế, thừa kế là sự tiếp nối sở hữu, là hệ luận của sở hữu.” 3 Thuyết tự
do ý chí chính là sự tôn trọng quyền lựa chọn, định đoạt mọi chủ thể trong
việc xác lập và thực hiện các quan hệ dân sự. Tự do ý chí của chủ thể này chỉ
bị giới hạn bởi quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Tự do ý chí là cái cá
biệt, cái đơn nhất của cá nhân nhưng cái cá biệt không thể tồn tại ngoài mối
liên hệ dẫn tới cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua
cái riêng. Trong các mối liên hệ xã hội, cái riêng luôn được tôn trọng nhưng
đồng thời luôn luôn bị cái chung hạn chế. Vì thế quyền tự do của người này
phải luôn hướng tới tự do và lợi ích của người khác.

Với thuyết này, pháp luật ghi nhận cho các chủ thể được bằng ý chí của
mình thực hiện các quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của mình, đặc biệt là
quyền định đoạt tài sản. Việc lập di chúc để định đoạt tài sản (di sản) cho ai
sau khi mình chết, không cho ai hưởng di sản, truất quyền hưởng di sản của ai
đó là quyền của người lập di chúc được hình thành trên cơ sở tôn trọng quyền
định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Tuy nhiên, cũng từ thuyết này thì quyền tự
lựa chọn, định đoạt của người để lại di sản (trong đó có quyền truất quyền
hưởng di sản của người thừa kế) sẽ bị hạn chế nếu việc thực hiện quyền đó lại
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế.
1.3. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc truất quyền hưởng di sản
thừa kế

3

Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, NXB Chính trị Quốc gia,
Tr 5.


10

Bộ luật dân sự Việt Nam quy định truất quyền hưởng di sản thừa kế là
một trong các quyền của người lập di chúc. (BLDS 1995 quy định trong Điều
651 về quyền của người lập di chúc: “Chỉ định người thừa kế; truất quyền
hưởng di sản của người thừa kế”. Quy định này được giữ nguyên trong Điều
648, BLDS 2005 và Điều 626, BLDS 2015). Theo khoản 1, Điều 626 thì
người lập di chúc có quyền: “… truất quyền hưởng di sản của người thừa kế”
nên được hiểu rằng: Quan hệ thừa kế được hình thành giữa người truất quyền
với người bị truất quyền là quan hệ thừa kế theo pháp luật. Nghĩa là người bị
truất quyền bao giờ cũng là người có một trong ba mối quan hệ với người
truất quyền, hoặc là quan hệ hôn nhân (vợ hoặc chồng của người truất quyền);

hoặc là quan hệ huyết thống (cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông, bà, anh, chị, cụ, cô
dì, chú bác cậu của người truất quyền); hoặc là quan hệ nuôi dưỡng (cha nuôi,
mẹ nuôi, con nuôi của người truất quyền). Trên cơ sở yếu tố tình cảm gần gũi,
thân thiết giữa những người này mà pháp luật quy định họ là những người
thừa kế theo luật của nhau nếu một bên chết. Vì vậy, những người này đương
nhiên được hưởng di sản của nhau (xác định theo hàng thừa kế) khi một bên
chết nếu trước khi chết, người để lại di sản không có ý kiến gì khác. Thông
thường, một người chỉ để lại di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi
chết nếu họ muốn việc những người thừa kế hưởng di sản của mình khác với
điều kiện, trình tự, phần di sản được hưởng theo quy định của pháp luật về
thừa kế theo luật, bởi nếu thừa kế theo pháp luật thì chỉ những người thừa kế
ở hàng thứ nhất được hưởng và hưởng toàn bộ di sản với mỗi suất thừa kế
bằng nhau. Trong nhiều lý do để người có di sản định đoạt khác với quy định
của pháp luật về thừa kế theo luật thì có hai lý do cơ bản là lý do kinh tế và lý
do tình cảm.
Với lý do kinh tế, người thừa kế sẽ quyết định di sản được dịch chuyển
cho ai, dịch chuyển quyền sở hữu đối với tài sản là di sản thừa kế hay chỉ dịch
chuyển quyền hưởng dụng, quyền sử dụng, quản lý; ai được hưởng, ai không


11

được hưởng, ai hưởng nhiều, ai hưởng ít. Chẳng hạn, người để lại di sản là
chủ một doanh nghiệp, trước khi họ chết, họ muốn sản nghiệp của mình được
kế thừa và phát triển thì họ sẽ giao sản nghiệp cho người nào có khả năng
quản lý và phát triển sản nghiệp đó. Hoặc là người để lại di sản cho người con
có khó khăn về kinh tế phần di sản nhiều hơn và có thể không cho người con
khác hưởng di sản khi người đó đã quá đầy đủ về kinh tế.
Nếu vì lý do kinh tế thì người để lại di sản chỉ không cho người thừa kế
hưởng theo di chúc hay cho hưởng ít thì lý do tình cảm sẽ là cội nguồn của

việc người để lại di sản truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Thực tế
đời sống cho thấy rằng, giữa những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc nuôi dưỡng với nhau có thể phát sinh mâu thuẫn bởi nhiều lý do, trong
đó, có thể có những lý do hết sức tế nhị nên yếu tố tình cảm giữa họ không
còn. Để lại thừa kế theo di chúc giống với hợp đồng tặng cho ở chỗ được xác
lập trên cơ sở yếu tố tình cảm. Vì thế, khi không còn tình cảm, có thể người
để lại di sản sẽ phế truất quyền hưởng di sản của người thừa kế, không cho
người thừa kế đó hưởng di sản của mình.
1.4. Người bị truất quyền hưởng di sản là một trong các trường hợp
không được quyền hưởng di sản
Các văn bản pháp luật về thừa kế của nhà nước ta từ trước đến nay (bao
gồm các thông tư, pháp lệnh và các bộ luật dân sự) đều chỉ quy định về người
không được quyền hưởng di sản và người bị truất quyền hưởng di sản. Cho
đến Bộ luật dân sự hiện hành (BLDS 2015) khi quy định về các trường hợp
do người thừa kế có những hành vi trái pháp luật, đạo đức xã hội nên bị tước
bỏ quyền hưởng di sản vẫn sử dụng cụm từ: “Người không được quyền hưởng
di sản” (Điều 621).
Tôi cho rằng, về mặt lý luận thì người không được quyền hưởng di sản
không chỉ là những người thuộc các trường hợp được quy định tại khoản 1


12

của điều luật trên. Có thể nói rằng, người thừa kế không thuộc các trường hợp
quy định tại khoản 1 của điều 621 của Bộ luật dân sự hiện hành vẫn có thể là
người không được quyền hưởng di sản nếu họ đã bị người để lại di sản truất
quyền hưởng di sản. Vì thế, nếu dùng cụm từ trên để đặt tên cho Điều 621,
đồng thời Bộ luật lại không quy định về hậu quả pháp lý của việc truất quyền
sẽ dễ bị hiểu rằng chỉ những người trong trường hợp quy định tại khoản 1 của
điều này mới không được quyền hưởng di sản. Mặt khác, người không được

hưởng di sản theo di chúc vẫn là người được quyền hưởng di sản vì theo phân
tích ở phần trước thì người này dù không được hưởng di sản theo sự định đoạt
của người lập di chúc nhưng quyền hưởng di sản theo pháp luật của họ vẫn
tồn tại.
Cần phải xác định rằng, cả những người thuộc khoản 1 Điều 621 BLDS
hiện hành và cả những người bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản
bằng một di chúc hợp pháp đều là những người không được quyền hưởng di
sản, và vì vậy, người không được quyền hưởng di sản bao gồm:
1.4.1. Bị tước quyền hưởng di sản
Đây là những người thuộc khoản 1, Điều 621 BLDS 2015. Như đã nói,
BLDS hiện hành dùng cụm từ “Người không được quyền hưởng di sản” để
chỉ những người này là thiếu chính xác và gây nên sự bất cập nếu so với tinh
thần chung của Bộ luật về việc truất quyền. Các Bộ dân luật trước đây ở Việt
Nam gọi những người này là người thừa kế bất xứng và xác định rõ rằng:
“Người bất xứng hay người bị truất quyền được coi như không bao giờ là
người thừa kế”.4 Theo tôi, quy định như Bộ dân luật trước đây sẽ chặt chẽ và
dễ hiểu hơn nhiều, bởi người bất xứng đương nhiên được hiểu ngay rằng đó là
người trước đó có quyền hưởng di sản nhưng vì một lý do nào đó nên không

4

Xem Điều 505 Bộ dân luật Sài Gòn


13

xứng đáng được hưởng. Vì vậy, tôi dùng cụm từ Người bị tước quyền hưởng
di sản để chỉ về những người này.
Người bị tước quyền hưởng di sản quy định trong Điều 621 BLDS 2015
bao gồm cả người thừa kế theo pháp luật, cả người thừa kế theo di chúc. Đó là

những người đáng lẽ được hưởng di sản vì họ là người thừa kế theo pháp luật
của người để lại di sản hoặc đã được người lập di chúc cho họ hưởng di sản
theo di chúc nhưng người này lại có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên bị
tước đi quyền hưởng di sản theo pháp luật cũng như theo di chúc.
Người bị tước quyền hưởng di sản bao gồm những trường hợp sau đây:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm
phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
Căn cứ pháp lý để tước quyền hưởng di sản của những người thừa kế khi
họ có những hành vi nói trên là bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật bởi dù
người thừa kế có hành vi nói trên nhưng không bị kết án thì họ vẫn được
hưởng di sản hoặc đã bị kết án nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì
cũng chưa có căn cứ để tước bỏ quyền hưởng di sản của họ. Một bản án chỉ
được thi hành khi đã có hiệu lực pháp luật bởi nó có thể bị sai sót và có thể bị
một cấp xét xử khác sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam đã xác định nghĩa vụ chăm sóc,
nuôi dưỡng lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Vì vậy, người thừa
kế bị coi là có hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản nếu
họ là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản theo quy định của
Luật Hôn nhân và Gia đình nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó.


14

Theo quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam 2014 thì
người thừa kế được xác định là người có nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại
thừa kế trong những trường hợp sau đây:
+ Người để lại thừa kế là cha, mẹ của họ:
Tại khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã quy định: "Con

có nghĩa vụ và có quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ
ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con
phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ". Theo quy định này thì con
phải chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ trong trường hợp cha mẹ ốm đau, già yếu,
bệnh tật. Vì vậy, con sẽ không được quyền hưởng di sản của cha, mẹ nếu
không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ.
+ Người để lại thừa kế là con của họ:
Nếu như nghĩa vụ của con là phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ thì
ngược lại cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con khi con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân
mình (khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014). Cha mẹ luôn là
người thừa kế theo pháp luật đối với di sản do con để lại nhưng đồng thời cha
mẹ sẽ không được hưởng thừa kế theo luật đối với di sản của con nếu cha mẹ
không thực hiện việc nuôi dưỡng con khi người con đó nằm trong tình trạng
nói trên.
Ngược lại một người chỉ có thể lập di chúc để định đoạt tài sản khi đã có
đủ năng lực hành vi dân sự hoặc trên mười lăm tuổi dù chưa đủ mười tám tuổi
nhưng có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Vì vậy, cha mẹ có thể là
người thừa kế theo di chúc của con trong ba trường hợp: Người con đó đã
thành niên có năng lực hành vi dân sự, người con đó đã tròn mười lăm tuổi,
người con đó đã thành niên nhưng bị tàn tật (không bị mất năng lực hành vi


15

dân sự). Trong đó, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con (người để lại di
sản) trong hai trường hợp sau. Vì vậy, chỉ có thể tước quyền hưởng di sản
theo di chúc của cha mẹ trong hai trường hợp này nếu họ không thực hiện
nghĩa vụ nuôi dưỡng.

+ Người để lại thừa kế theo di chúc là anh, chị hoặc em của họ.
Theo quy định của Điều 105 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì anh,
chị, em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ
hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục
con.
Như vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng của anh, chị, em (người thừa kế theo di
chúc) đối với người để lại thừa kế khi người này nằm trong tình trạng trên,
đồng thời họ là người chưa thành niên (tròn mười lăm nhưng chưa đủ mười
tám tuổi) hoặc là người bị tàn tật nhưng không bị mất năng lực hành vi.
+ Người để lại thừa kế là ông, bà của họ.
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng đã xác định cháu có nghĩa vụ
phụng dưỡng ông bà, “trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại không có con để
nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng”. (Điều 104).
Vì vậy, nếu người thừa kế theo di chúc là cháu mà không thực hiện nghĩa vụ
này sẽ không được quyền hưởng di sản theo di chúc mà ông, bà đã xác định.
+ Người để lại thừa kế là cháu của họ.
Ông, bà nội ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu trong trường hợp cháu
chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi dưỡng mình đồng
thời cũng không có cha mẹ, anh chị em có thể nuôi dưỡng được (khoản 1
Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014). Vì thế, nếu người để lại thừa kế
là cháu nằm trong tình trạng trên mà ông bà là người thừa kế nhưng không


16

thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì họ sẽ không được quyền hưởng di sản của
cháu. Nếu người cháu có đủ năng lực hành vi để lập di chúc và trong di chúc
đó, ông bà được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng sau đó người cháu lại lâm
vào tình trạng cần được nuôi dưỡng và ông bà là người có nghĩa vụ đó nhưng

lại không thực hiện nghĩa vụ thì ông bà cũng không được quyền hưởng di sản
theo di chúc của người cháu.
Những người được xác định là có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản đã liệt kê trên đây chỉ không được quyền hưởng di sản thừa kế khi sự vi
phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng bị coi là nghiêm trọng. Toà án có thể tước bỏ
quyền hưởng di sản của người thừa kế đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng người để lại thừa kế dù hành vi đó không bị kết án. Vì thế, chính Toà
án giải quyết việc thừa kế là người có thẩm quyền xác định sự vi phạm nghĩa
vụ của người đó có nghiêm trọng hay không? BLDS không quy định cụ thể,
đồng thời cũng chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn để xác định như thế nào
thì bị coi là nghiêm trọng nhưng có thể thấy rằng, có những trường hợp người
thừa kế không nuôi dưỡng người để lại di sản làm cho người này lâm vào tình
trạng khổ sở và nguy hiểm đến tính mạng nhưng cũng không bị coi sự vi
phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng của họ là nghiêm trọng nếu bản thân họ quá khó
khăn, không có khả năng để nuôi dưỡng. Vì vậy, cần có văn bản pháp luật
hướng dẫn cụ thể để có sự thống nhất giữa các Toà án trong việc đánh giá tính
nghiêm trọng của sự vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng.
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng người thừa
kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó
có quyền hưởng.
Chỉ có thể tước bỏ quyền hưởng di sản của người thừa kế trong trường
hợp này khi hành vi “xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác” của họ là
hành vi cố ý và đã bị Toà án kết án bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật.


17

Trong trường hợp này, người thừa kế phạm tội chỉ bị tước quyền hưởng di sản
nếu hành vi phạm tội của họ chứa đựng động cơ là nhằm để hưởng phần di
sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng.

- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che
giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của
người để lại di sản.
Pháp luật về thừa kế của nước ta đã quy định người thừa kế nói chung
(cả theo pháp luật, cả theo di chúc) không được hưởng di sản khi “có hành vi
lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả
mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn
bộ di sản trái với ý của người để lại di sản”.5
Như vậy, quy định trên xác định bảy hành vi mà người thừa kế nào đã
thực hiện thì sẽ bị tước quyền hưởng di sản.
+ Hành vi lừa dối người để lại di sản nhằm hưởng một phần hoặc toàn
bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Lừa dối đối với người để lại di sản là việc cung cấp một thông tin sai sự
thật làm cho người để lại di sản tin vào thông tin đó mà lập một di chúc trái
với ý nguyện đích thực của mình. Người thực hiện hành vi này có thể chính là
người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản nhưng có thể là người
ngoài diện thừa kế theo pháp luật. Mặt khác, như trên đã xác định, nếu di chúc
được lập dưới tác động của hành vi này thì di chúc đó không có hiệu lực pháp
luật nên trường hợp này luôn làm phát sinh việc thừa kế theo pháp luật. Vì
vậy, nếu người có hành vi lừa dối là người thừa kế theo luật thì sẽ tước quyền
hưởng di sản, nếu người có hành vi lừa dối là người ngoài diện thừa kế và có

5

Điểm d, khoản 1, Điều 621 BLDS 2015


18


tên trong di chúc được lập do lừa dối thì Toà án chỉ cần tuyên bố di chúc vô
hiệu và di sản chia cho người thừa kế theo luật của người để lại di sản.
+ Hành vi cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc
Người thực hiện hành vi này nhằm tác động đến tâm lý, tinh thần của
người để lại di sản buộc họ phải lập một di chúc để định đoạt di sản trái với ý
nguyện đích thực của họ. Cũng giống với trường hợp trên, hành vi cưỡng ép
ngăn cản người để lại di sản cũng có thể do người thừa kế theo pháp luật hoặc
do người ngoài diện thừa kế theo pháp luật thực hiện. Vì vậy hậu quả pháp lý
cũng được xác định giống trường hợp trên.
+ Hành vi giả mạo di chúc
Di chúc giả mạo được hiểu là di chúc do người khác lập ra (không phải là
người để lại di sản) nhằm làm cho người khác tin rằng đó là di chúc do người
chết để lại và di sản được chia theo di chúc sẽ có lợi cho một hoặc một số người
nhất định trong việc hưởng di sản mà việc hưởng lợi này hoàn toàn trái với ý chí
của người đã để lại di sản. Trong trường hợp đã xác định là di chúc giả mạo thì
di sản sẽ được chia theo luật và nếu người giả mạo di chúc là người thừa kế theo
luật của người để lại di sản sẽ bị tước quyền hưởng di sản.
+ Hành vi sửa chữa di chúc của người để lại di sản
Do muốn được hưởng phần di sản nhiều hơn so với phần di sản mà
người lập di chúc đã định đoạt cho mình hoặc nhằm hưởng toàn bộ di sản của
người lập di chúc nên dù đã có tên trong di chúc nhưng người thừa kế đã sửa
chữa di chúc hoặc người không có tên trong di chúc sửa di chúc để mình được
hưởng di sản theo di chúc đó. Hành vi của những người này xâm phạm đến ý
chí tự nguyện của người lập di chúc và xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của


×